Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn thạc sĩ vấn đề đấu tranh phòng, chống tự diễn biến, tự chuyển hóa theo ...

Tài liệu Luận văn thạc sĩ vấn đề đấu tranh phòng, chống tự diễn biến, tự chuyển hóa theo nghị quyết trung ương 4, khóa xii

.PDF
71
81
94

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LƯƠNG PHƯƠNG QUÂN VẤN ĐỀ ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” THEO NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 4, KHÓA XII TẠI QUẬN 11, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC HÀ NỘI - 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LƯƠNG PHƯƠNG QUÂN VẤN ĐỀ ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” THEO NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 4, KHÓA XII TẠI QUẬN 11, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY Ngành: Chính trị học Mã số: 8310201 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS VŨ ĐỨC KHIỂN HÀ NỘI - 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, luận văn “Vấn đề đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” theo Nghị quyết Trung ương 4, Khóa XII tại Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS. TS Vũ Đức Khiển. Tôi đã nghiên cứu, tìm hiểu và hoàn thiện luận văn trong đó có sự kế thừa kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước với những trích dẫn có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng; các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung thực và chưa sử dụng để bảo vệ luận văn của một học vị nào. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung của luận văn. Luận văn này không trùng với với bất cứ luận văn nào ở thời điểm hiện tại./. Tác giả luận văn Lương Phương Quân LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời cảm ơn đầu tiên, chân thành và sâu sắc nhất tới PGS. TS. Vũ Đức Khiển - Thầy đã tận tình quan tâm, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn. Thầy đã giúp cho tôi tiếp cận được nhiều kiến thức và các giải pháp nâng cao hiệu quả về vấn đề đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong giai đoạn hiện nay. Thầy còn chỉ bảo, giúp tôi rèn luyện kỹ năng trong việc tìm hiểu và nghiên cứu khoa học. Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới quý thầy cô trong Khoa Triết học Học viện Khoa học Xã hội đã quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi giúp tôi hoàn thành tốt khóa học và các đồng chí đang công tác tại Ban Tuyên giáo, Văn phòng Quận ủy Quận 11 – Thành phố Hồ Chí Minh đã cung cấp các tư liệu có liên quan giúp tôi hoàn thiện đề tài luận văn tốt nghiệp. Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến những người thân trong gia đình, đồng nghiệp và bạn bè đã luôn động viên, giúp đỡ tôi có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập và nghiên cứu trong suốt thời gian qua./. Tác giả luận văn Lương Phương Quân MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHẬN THỨC, PHƯƠNG PHÁP ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................................................................................. 8 1.1. Nhận thức về công tác đấu tranh phòng, chống “Tự diễn biến”, “Tự chuyển hóa” ở Việt Nam hiện nay. ............................................................... 8 1.2. Phương pháp đấu tranh phòng, chống “Tự diễn biến”, “Tự chuyển hóa” ở Việt Nam hiện nay ................................................................................... 17 Chương 2: THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI THỰC HIỆN VẤN ĐỀ ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” THEO NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 4, KHÓA XII TẠI QUẬN 11, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY ............................................... 33 2.1. Đặc điểm, tình hình .............................................................................. 33 2.2. Việc ban hành các văn bản để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện ................. 34 2.3. Công tác phổ biến, quán triệt các văn bản có liên quan....................... 36 2.4. Kết quả thực hiện ................................................................................. 38 2.5. Nhận định – Đánh giá .......................................................................... 46 Chương 3: DỰ BÁO TÌNH HÌNH VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CỤ THỂ GÓP PHẦN THÚC ĐẨY CUỘC ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” TẠI QUẬN 11 ....................... 52 3.1. Dự báo tình hình................................................................................... 52 3.2. Những giải pháp thực hiện cụ thể góp phần thúc đẩy cuộc đấu tranh phòng, chống “Tự diễn biến”, “Tự chuyển hóa” tại Quận 11 trong thời gian tới. ....... 54 KẾT LUẬN .................................................................................................... 60 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là quá trình chuyển biến tư tưởng theo chiều hướng tiêu cực, diễn ra ở trong từng con người với các biểu hiện và mức độ khác nhau. Khởi đầu là những biểu hiện dao động, giảm sút niềm tin, phai nhạt lý tưởng, đến chỗ xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; từ chỗ hoang mang, hoài nghi, nhận thức lệch lạc, đến chỗ đưa ra những quan điểm sai trái, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thành quả của cách mạng; từ hành vi nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương của Đảng, dẫn đến những hành động “tiếp tay hoặc câu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc” [10, tr.23]. Xét về hậu quả, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là một trong những thách thức, nguy cơ hàng đầu đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ. Hiện nay, các thế lực thù địch đang điên cuồng chống phá sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ở nước ta bằng mọi thủ đoạn, chiêu bài, hình thức. Đặc biệt chúng ưu tiên phương thức chiến tranh phi bạo lực – thực hiện “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên. Thông qua chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa thực dụng…, chúng ngụy trang, trá hình dưới muôn vàn màu sắc; với nhiều thủ đoạn, hình thức, chúng đang tìm mọi cách làm tha hóa đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, đặc biệt chúng tấn công vào lĩnh vực nhận thức, tư tưởng, làm thay đổi niềm tin vào con đường đi lên Chủ nghĩa Xã hội vốn đầy khó khăn và chông gai. Nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đang hiện hữu trong không ít cán bộ, đảng viên của Đảng hiện nay. Nguyên nhân sâu xa và chủ yếu nhất của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là do bản thân một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, 1 giảm sút ý chí phấu đấu; lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài. Sự chống phá quyết liệt, nhất là hoạt động “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch cũng là một tác nhân trực tiếp thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ ta. Từ thực tiễn cho thấy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đang diễn ra rất phức tạp, khó nhận biết, không dễ đấu tranh và khắc phục; nếu không có giải pháp ngăn chặn sẽ gây nguy hại đến sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của nhà nước Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Xác định rõ mức độ nguy hiểm, hậu quả khôn lường của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” do tác động bởi mặt trái nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; phần lớn tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận diện, ngăn chặn, đấu tranh, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Từ đó, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: Chủ động đấu tranh, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là việc làm thường xuyên, liên tục, kiên quyết và toàn diện góp phần đầy lùi nguy cơ tồn vong của Đảng, bảo đảm cho Đảng thực sự trong sạch vững mạnh về mọi mặt: tư tưởng, chính trị, tổ chức... Xuất phát từ thực tế trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Vấn đề đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” theo Nghị quyết Trung ương 4, Khóa XII tại Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ chính trị học với mong muốn đánh giá thực trạng, làm rõ nguyên nhân và đề ra các giải pháp thực hiện góp phần nâng cao hiệu quả trong việc đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên địa bàn Quận 11 trong giai đoạn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Xác định rõ tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là nhiệm vụ then chốt hàng đầu để xây dựng, 2 chỉnh đốn Đảng; nếu đấu tranh, phòng, chống kịp thời sẽ không có cơ hội cho “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” xuất hiện, diễn biến phức tạp như hiện nay. Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết Trung ương 4, Khóa XII về ”Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” mà cho đến nay đã có rất nhiều tài liệu, văn kiện, sách báo, bài nghiên cứu của Đảng, Nhà nước, các cơ quan khoa học và nhiều nhà nghiên cứu đã đề cập đến vấn đề ở những mức độ khác nhau. Trong đó có các bài viết, công trình tiêu biểu như sau: - Luận văn Thạc sĩ của tác giả Vũ Đức Trình (2014), “Nhận diện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở Việt Nam hiện nay” [31], Tác giả đã nêu khái quát cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng, nhận diện bản chất của vấn đề “tự diễn biến”, ”tự chuyển hóa” đang diễn ra trong tình hình hiện nay. Qua đó, dự báo tình hình, xác định nhiệm vụ trọng tâm và đề ra các nội dung, giải pháp cụ, thể, thiết thực, hiệu quả góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng, quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. - Nguyễn Viết Thông (2016), “Những nhận thức mới về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” [30] Báo Nhân dân điện tử. Tác giả đã chỉ rõ mối quan hệ giữa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống; tìm ra tác hại, nguyên nhân cũng như hậu quả của biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Từ đó, xây dựng các giải pháp cụ thể để cảnh giác, kịp thời phát hiện, đấu tranh, xử lý nghiêm minh theo pháp luật đối với những phần tử cơ hội trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. - Trong bài viết của tác giả Phùng Ngọc Bảo, Phạm Nguyễn Ngọc Anh trên tạp chí Cộng sản (2017) về vấn đề ““Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng trong cán bộ, đảng viên; nhận diện và phòng, chống” [1]. Tác giả đã 3 nhận diện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng; đánh giá những hạn chế, yếu kém, tìm ra nguyên nhân trong quá trình thực hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và đề ra giải pháp thiết thực để công tác phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên đạt được hiệu quả cao. - Phan Huy Hùng (2019), “Nhận diện và phòng chống “tự diễn biến”,”tự chuyển hóa” trước thềm Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam” [28]. Tác giả đã chỉ rõ nguyên nhân, lý do vì sao Trung ương phải ban hành Nghị quyết Trung ương 4; dự báo, tình hình những diễn biến trước sự kiện Đại hội XIII của Đảng tới đây (2021) là một trọng điểm. Theo đó, tác giả đã đề ra các giải pháp đồng bộ trong công tác phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” vừa là yêu cầu, vừa là nhiệm vụ cấp bách của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trước thềm Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam. Một số bài viết vừa nêu trên cho thấy vấn đề đấu tranh, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều tác giả; song song đó cũng còn nhiều bài viết, công trình nghiên cứu có liên quan như: Quốc Bình (2018) “Phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” [2], Phiếm Đình (2018) “Cảnh giác với những kẻ lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân để kích động chống phá chế độ” [11], Phạm Ngọc Hiền (2014) Nhận thức và phòng, chống “Tự diễn biến”, “Tự chuyển hóa” [12], Vũ Văn Hiền (2013) “Quyền lực của nhân dân” [13], Dương Quang Hiển (2018) “Phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên hiện nay” [14], Nguyễn Vĩnh Thắng (2017) ““Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên và giải pháp phòng, chống” [29], Võ Thái Hòa (2017), Phát huy vai trò của thanh niên trên mặt trận đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, 4 “tự chuyển hóa” theo nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, trang thông tin điện tử Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh; Hà Linh (2018), “Không làm tròn chức trách, nhiệm vụ - một biểu hiện của suy thoái”, Báo điện tử Quân đội nhân dân; Tuấn Minh (2017), Phát huy vai trò báo chí trong đấu tranh chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, Báo điện tử chính phủ; Nguyễn Yến Thanh (2018), “Công an nhân dân đi đầu trong đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, Học viện Chính trị Công an nhân dân; Hoàng Minh Thảo (2018), “Phát huy vai trò của chi bộ trong ngăn chặn, đẩy lùi mọi biểu hiện từ cơ sở”, Báo điện tử Quân đội nhân dân; Đoàn Tuấn (2017), “Báo chí Công an Nhân dân trong đấu tranh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”“, Báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh. Những công trình nghiên cứu này đã phân tích, đánh giá tình hình thực trạng, nguyên nhân; nhận thức rõ mọi âm mưu hiểm độc của các thế lực thù địch để thực thi “diễn biến hòa bình” hòng thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta. Trên cơ sở đó, xây dựng phương hướng và đề xuất những giải pháp thiết thực để đổi mới phương pháp thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả vấn đề đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nhận diện một số biểu hiện của thực trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên địa bàn Quận 11 hiện nay; luận văn đề xuất các giải pháp cụ thể thiết thực trong thực tiễn góp phần quan trọng trong cuộc đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa tại Quận 11 trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở Quận 11 hiện nay; nhận diện thực trạng và các nhân tố tác 5 động đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Trên cơ sở đó, luận văn dự báo, nhận định xu hướng, đề ra mục tiêu, quan điểm và đề xuất giải pháp chủ yếu góp phần thúc đẩy đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên địa bàn quận trong thời gian tới đạt hiệu quả cao nhất. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu về vấn đề phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở Việt Nam và trên địa bàn Quận 11 hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu về vấn đề đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên địa bàn Quận 11 từ năm 2017 đến nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta nói chung và Đảng bộ, cơ quan nhà nước quận 11 nói riêng về vấn đề “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn nghiên cứu được tác giả thực hiện nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau như: phương pháp luận nghiên cứu khoa học, phân tích, tổng hợp, lôgic, chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và các phương pháp khoa học cụ thể của khoa Chính trị học, Xã hội học, Sử học... 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận về vấn đề đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa; nhận diện những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở Việt Nam. 6 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn cung cấp cơ sở khoa học đánh giá thực trạng việc triển khai thực hiện vấn đề đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên địa bàn quận 11 hiện nay. Từ đó, đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm góp phần thúc đẩy cuộc đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở Quận 11 trong thời gian tới. 7. Cơ cấu của luận văn Luận văn “Vấn đề đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” theo Nghị quyết Trung ương 4, Khóa XII tại Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay”, gồm 3 chương với bố cục như sau: Chương 1. Nhận thức, phương pháp đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở Việt Nam hiện nay Chương 2. Thực trạng triển khai thực hiện vấn đề đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” theo nghị quyết trung ương 4, khóa XII tại quận 11, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay Chương 3. Dự báo tình hình và giải pháp thực hiện cụ thể góp phần thúc đẩy cuộc đấu tranh phòng, chống “Tự diễn biến”, “Tự chuyển hóa” tại Quận 11./. 7 Chương 1 NHẬN THỨC, PHƯƠNG PHÁP ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1. Nhận thức về công tác đấu tranh phòng, chống “Tự diễn biến”, “Tự chuyển hóa” ở Việt Nam hiện nay. 1.1.1. Nhận diện và phòng, chống “Tự diễn biến”, “Tự chuyển hóa” của Đảng Cộng sản Việt Nam: “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” không phải bây giờ mới có, nó đã xuất hiện ngay từ cuối thế kỷ thứ XIX trong Phong trào Cộng sản Quốc tế và điển hình là ở Liên Xô và các nước Xã hội Chủ nghĩa Đông Âu vào thập niên 90 của thế kỷ thứ XX. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là hai khái niệm, hai quá trình có quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau. Trong đó, “tự diễn biến” là cơ sở, tiền đề dẫn tới “tự chuyển hóa” và ngược lại, “tự chuyển hóa” sẽ thúc đẩy quá trình “tự diễn biến” nhanh hơn, toàn diện hơn. “Tự diễn biến” được hiểu là sự tự thân vận động về tư tưởng, lập trường theo hướng tiêu cực do sự tác động, can thiệp của các thế lực thù địch dẫn đến làm thoái hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên trong tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước. Còn “tự chuyển hóa” là xu hướng thay đổi về chất, được biểu hiện ở lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị của bộ phận cán bộ, đảng viên hoặc của cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, từ khẳng định chế độ xã hội chủ nghĩa sang lựa chọn chế độ tư bản chủ nghĩa. Như vậy, ở Việt Nam trước sự chống phá quyết liệt, nham hiểm của các thế lực thù địch thì “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có thể diễn ra trong nội bộ Đảng, chính quyền Nhà nước và trong xã hội, nhưng chủ yếu và nguy hiểm nhất là trong đội ngũ cán bộ, đảng viên cấp cao, cán bộ chiến lược, nhất là người đứng đầu các cơ quan trọng yếu của Đảng và Nhà nước. Điều đáng nói là, cán bộ, đảng viên có vị trí càng cao thì hậu quả của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” càng lớn, thậm chí có thể 8 làm tan rã một đảng, sụp đổ cả một chế độ chính trị của quốc gia. Thực tiễn cho thấy, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thường có diễn biến phức tạp, trên các lĩnh vực: chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống,… tuy ngấm ngầm nhưng cũng không kém phần quyết liệt, nhất là khi đất nước có các sự kiện chính trị quan trọng, thời điểm nhạy cảm hiện nay [28]. Có thể nói, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên là điều kiện, cơ hội cho chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên. Tại Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng Cộng sản Việt Nam (4-1994) đã xác định 4 nguy cơ đối với chế độ ta là: “Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới do điểm xuất phát thấp, tốc độ tăng trưởng chưa cao và chưa vững chắc, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh gay gắt; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa nếu không khắc phục được những lệch lạc trong chủ trương, chính sách và chỉ đạo thực hiện; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch”[8] . Đánh giá về “nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa” và “nguy cơ về nạn quan liêu, tham nhũng” về thực chất là nguyên nhân có thể dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị. Nhận định từ Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng công sản Việt Nam về những nguy cơ đối với chế độ ta tiếp tục được các đại hội của Đảng, từ Đại hội lần thứ VIII đến Đại hội lần thứ XII khẳng định lại với tinh thần đánh giá những nguy cơ này không những vẫn đang tồn tại mà có phần còn nghiêm trọng hơn. 9 Từ thực tiễn cuộc sống hiện nay, chúng ta có thể hiểu “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên là quá trình tự thay đổi tư duy, nhận thức của cán bộ, đảng viên theo chiều hướng tích cực sang tiêu cực, từ đúng thành sai, từ tin tưởng đến hoài nghi, phủ định tính đúng đắn, tính khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước để chuyển sang sùng bái, tin theo các luận điểm tư sản, sai trái, phản động. 1.1.2. Nguyên nhân: Từ những vấn đề trên cơ sở lý luận, thực tiễn nêu trên chúng ta có thể nhận thấy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị có nhiều nguyên nhân rất phức tạp về mặt khách quan và chủ quan như sau: Thứ nhất, là do tác động của chiến lược “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc, các thế lực thù địch trên các lĩnh vực về kinh tế, tư tưởng, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh với nhiều thủ đoạn thâm độc, nguy hiểm nhằm làm suy thoái, biến chất, thoái hóa của cán bộ, đảng viên về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống. Thứ hai, là do tác động mặt trái của nền thị trường, hội nhập kinh tế, quốc tế; những thử thách đó đặt ra đối với cách mạng nước ta là không nhỏ; đồng thời nền kinh tế của nước ta còn kém phát triển; đời sống nhân dân nói chung và đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng còn gặp nhiều khó khăn; cùng với những tiêu cực, tệ nạn xã hội, sự phân hóa giàu nghèo..v..v đang hàng ngày, hàng giờ tác động mạnh mẽ đến nhận thức, suy nghĩ, hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên; từ những nguyên nhân đó dễ dẫn đến sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. 10 Thứ ba, là do tác động của vấn đề bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia, biển đảo; Trong những năm qua, từ khi Trung Quốc tăng cường thái độ, hành động vi phạm chủ quyền biển, đảo của các nước ở Biển Đông (trong đó có Việt Nam), khiến cho nhân dân ta bức xúc. Các thế lực thù địch, phần tử cơ hội đã lợi dụng vấn đề này để kích động Việt Nam đối đầu với Trung Quốc; mặt khác, chúng xuyên tạc, vu cáo Đảng, Nhà nước ta xem nhẹ, thậm chí là bán rẻ biển, đảo cho Trung Quốc. Mặt khác, các thế lực thù địch đã lợi dụng vấn đề này làm mưu đồ chống phá cách mạng Việt Nam dưới những phương thức, thủ đoạn khác nhau. Từ kích động lòng yêu nước cực đoan nhằm tạo ra sự đối lập giữa quần chúng nhân dân với Đảng, với chế độ xã hội chủ nghĩa và chính quyền nhân dân. Chúng lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền và hàng loạt vấn đề cốt lõi trong xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị… Các đối tượng chống phá còn tập trung lựa chọn những nhân tố “sám hối”, “trở cờ”, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ để tập hợp lực lượng chống đối từ bên trong, xem đây là nguồn tán phát trực tiếp thông tin xấu, độc. Chúng còn lợi dụng những người thiếu thông tin hay do trình độ nhận thức hạn chế, mê hoặc để mua chuộc, lôi kéo họ tham gia biểu tình, gây cản trở giao thông, đốt hàng chục xe ôtô, xe máy, làm bị thương một số chiến sỹ Công an… là minh chứng cho sự chuẩn bị kỹ lưỡng, từ động cơ này sang động cơ khác, nghiêm trọng hơn. Thứ tư, là do tác động của những vấn đề về xây dựng, chính đốn Đảng; Thực tiễn đã chứng minh, một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong cán bộ, đảng viên bắt nguồn chính từ trong nội bộ tổ chức Đảng; do cán bộ, đảng viên vi phạm cương lĩnh, điều lệ, nguyên tắc trong tổ chức và sinh hoạt đảng; thoái hóa biến chất, suy đồi đạo đức, tham ô, quan liêu, tham nhũng, độc đoán, chuyên quyền, bè phái cục bộ... 11 Thứ năm, là do về thái độ nhận thức của cán bộ, đảng viên; Đây là nguyên nhân nội sinh, do nhận thức của cá nhân cán bộ, đảng viên, nhất là trong đội ngũ văn sĩ, trí thức. Đối với mỗi cá nhân cán bộ, đảng viên về mặt tư tưởng đó là những sai lầm, ngộ nhận về chân lý và lẽ phải..v..v.. dựa trên những quan niệm chủ quan hoặc chủ nghĩa kinh nghiệm cá nhân. Căn cơ nguyên nhân sâu xa của hành vi “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” về tư tưởng chính trị là tư duy sai lầm, ngộ nhận: trái thành phải, sai thành đúng, ác thành thiện, tốt thành xấu; hại dân, hại nước thành “ích nước lợi dân”..v..v..; mặt khác là do cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, học tập để chủ nghĩa cá nhân chi phối, phát triển làm xói mòn bản chất tốt đẹp của những người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. 1.1.3. Một số hình thức và biện pháp của các thế lực thù địch sử dụng để thúc đẩy tiến hành “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng ta: Các thế lực thù địch sử dụng mọi hình thức, biện pháp để thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam, tập trung những hình thức chúng cho là khách quan, khoa học như: Hội thảo khoa học, diễn đàn Quốc tế, phát tán tài liệu về Việt Nam; phổ biến thông tin về dân chủ và nhân quyền thông qua hình thức “phiếu cung cấp thông tin”, thư điện tử và các trang mạng xã hội (Internet, Facebook..); “viết thư góp ý”, “hồi ký”; xuyên tạc các bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và của cán bộ cách mạng lão thành... Tăng cường sự chống phá, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta về vấn đề dân tộc và tôn giáo, các thế lực thù địch lập ra ở hải ngoại một số tổ chức phản động và đều có kẻ đứng đầu như: “Việt Nam canh tân cách mạng đảng”, “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời”, “Triều Đại Việt”, “Tổ chức Tôn giáo – Chính trị”, “Trung ương bảo tồn văn hóa người H’mông”, 12 “Trung tâm chim én đưa tin”... Thông qua những tổ chức phản động đó, các thế lực thù địch từ nước ngoài đã chuyển về Việt Nam nhiều tài liệu có nội dung chống đối, phá hoại đường lối, quan điểm, lý luận và chính sách của Đảng, Nhà nước ta về đại đoàn kết toàn dân tộc; kích động một số đồng bào dân tộc thiểu số trong nước đòi “ly khai”, “tự trị”, dân tộc... Đặc biệt, chúng rất chú trọng việc hợp tác, đầu tư, tài trợ các chương trình, dự án để tìm hiểu, nghiên cứu lịch sử phát triển, phong tục tập quán... phục vụ mưu đồ móc nối, tuyển lựa, cài cắm người, thu thập tin tức, kết hợp với tăng cường tuyên truyền, tác động giá trị dân chủ, nhân quyền phương Tây... qua đó thúc đẩy mạnh mẽ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta. Những hoạt động của các thế lực thù địch được núp bóng dưới các nhóm, tổ chức tự xưng với danh nghĩa dân chủ, nhân quyền, yêu nước, như: “Hội phụ nữ nhân quyền”, “Nhóm tuổi trẻ yêu nước”, “Hội dân oan”, “Nhóm đồng thuận”, “Hội cựu tù nhân lương tâm”, “Mạng lưới blogger Việt Nam”, “Hội ái hữu tù nhân chính trị và tôn giáo”, “Hội nhà báo độc lập”… Thời điểm chúng kích động thường tập trung vào những sơ hở khi chúng ta đưa ra những quyết sách quan trọng của đất nước mà chúng cho rằng đi ngược lại quyền lợi của dân tộc, của nhân dân; vấn đề chống tham nhũng, quyền lực, giải phóng mặt bằng, môi trường, và hoạt động đối ngoại của Đảng và nhà nước ta…. [11] 1.1.4. Khái niệm, bản chất “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở Việt Nam. 1.1.4.1. Khái niệm “Tự diễn biến”, ”tự chuyển hóa” là sự suy thoái từ bên trong; là quá trình tự biến đổi về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống theo chiều hướng tiêu cực, làm mất dần các chuẩn mực của Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam dẫn đến xa rời nguyên tắc, quan điểm Mácxít; suy giảm niềm tin vào Chủ 13 nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. “Tự diễn biến, tự chuyển hóa” của cá nhân nếu không ngăn chặn kịp thời sẽ rất nguy hiểm dẫn đến tổ chức bị suy thoái và tự tan rã. Khi mức độ diễn ra ở tầm vĩ mô dẫn đến sự chuyển hóa làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa. “Tự diễn biến” xảy ra ở 2 phạm vi: đối với tổ chức và đối với cá nhân. “Tự diễn biến” ở phạm vi tổ chức là có những thay đổi ở tầm quản lý vĩ mô về đường lối, chủ trương, pháp luật, làm thay đổi bản chất chính trị, thậm chí làm suy yếu và tan rã tổ chức đó. “Tự diễn biến” đối với cá nhân là sự thay đổi về nhận thức chính trị xã hội, thay đổi về quan điểm, tư tưởng của cán bộ, đảng viên theo chiều hướng tiêu cực, xấu đi; tự bản thân cán bộ, đảng viên nhận thức chính trị và hành động xa rời, thậm chí đi ngược lại chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, tư tưởng của Đảng. ”Tự diễn biến” của cá nhân có thể dẫn đến sự thay đổi của tập thể, tổ chức. ”Tự diễn biến” của tổ chức chi phối, áp đặt, điều khiển đối với cá nhân trong tổ chức đó. ”Tự diễn biến” do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng ở đây chủ yếu nói đến nguyên nhân chủ quan của cán bộ, đảng viên như: lập trường tư tưởng không vững vàng, thiếu bản lĩnh chính trị, hoang mang, dao động trước tác động của các yếu tố bên ngoài; thiếu tu dưỡng rèn luyện bản thân thường xuyên; không chủ động học tập, nghiên cứu sâu sắc chủ nghĩa Mác Lênin, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh... “Tự chuyển hóa” là hậu quả tất yếu của quá trình ”tự diễn biến” nếu không được phát hiện và ngăn chặn kịp thời. Đó là thời điểm đã diễn ra sự chuyển hóa, thay đổi về bản chất. Biểu hiện chuyển hóa chính trị ở Việt Nam xuất hiện từ 2 hướng: Một là âm mưu và hoạt động tác động chuyển hóa chính trị của các thế lực thù địch; mặt khác, đó là sự ”tự chuyển hóa” chính 14 trị của nội bộ. Tuy nhiên 2 hướng này có quan hệ chặt chẽ, biện chứng với nhau. Yếu tố bên ngoài thúc đẩy tạo điều kiện cho yếu tố bên trong; yếu tố bên trong tạo sự chú ý và điều kiện thuận lợi cho yếu tố bên ngoài. Trong đó, ”tự chuyển hóa” bên trong sẽ quyết định sự thay đổi về chính trị nên hết sức nguy hiểm. Do vậy, phương châm, nguyên tắc đảm bảo an ninh nội bộ, phòng chống chuyển hóa chính trị là phải chủ động phòng ngừa, giữ vững bên trong là chính. Có 3 mức độ của ”tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Thực tế hiện nay trong khi triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, băn khoăn, trăn trở của đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân ta là sự khó nhận diện gọi tên những đối tượng đang ”tự diễn biến” khi họ chưa tới mức công khai đối lập. Tuy nhiên có thể nhận diện quá trình này diễn ra ở 3 giai đoạn ứng với 3 mức độ. Ở giai đoạn đầu, đối tượng thể hiện sự hoang mang, dao động về tư tưởng chính trị, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, về Chủ nghĩa Mác Lê nin. Giai đoạn 2, biểu hiện ở mức độ thấp của ”tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đối tượng bắt đầu chủ động hơn trong tiếp nhận những thông tin trái chiều, những luận điệu chống đối, những lý luận phản động, bắt đầu thích nghe, thích kể, thích mọi người nói về tiêu cực. Về hành động, đối tượng có các hoạt động cấu kết với một số phần tử chống đối thù địch bên ngoài để tiếp tay cho chúng hoạt động chống phá Đảng và Nhà nước ta. Biểu hiện rõ nhất là hoạt động thu thập, tổng hợp thông tin từ nội bộ ta để chuyển ra bên ngoài, giúp các phần từ phản động, thù địch từ bên ngoài thông qua các phương tiện Internet, các hoạt động quốc tế để chống phát ta. Những đối tượng ”tự diễn biến” trở thành những đối tượng hành động có tính chất nội gián. Bản chất của hoạt động này là chống đối. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan