UBND TỈNH THANH HÓA - BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA, THỂ THAO & DU LỊCH
HUỲNH ĐỨC NHIỆM
QUẢN LÝ DI TÍCH VÀ LỄ HỘI LĂNG BÀ CHỢ ĐƯỢC
XÃ BÌNH TRIỀU, HUYỆN THĂNG BÌNH,
TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA
THANH HÓA, 2021
UBND TỈNH THANH HÓA - BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA, THỂ THAO & DU LỊCH
HUỲNH ĐỨC NHIỆM
QUẢN LÝ DI TÍCH VÀ LỄ HỘI LĂNG BÀ CHỢ ĐƯỢC
XÃ BÌNH TRIỀU, HUYỆN THĂNG BÌNH,
TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA
Chuyên ngành: Quản lý văn hóa
Mã số: 8.319.042
Người hướng dẫn khoa học: TS Lê Thị Thảo
THANH HÓA, 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những vấn đề được trình bày trong luận văn là kết quả
nghiên cứu của tôi trong thời gian qua, dưới sự hướng dẫn của TS. Lê Thị Thảo.
Mọi số liệu, kết quả nghiên cứu và các dẫn chứng là do tôi tìm hiểu một cách
khách quan, trung thực, có sự tham khảo, sưu tầm và kế thừa những nghiên
cứu của các tác giả đi trước. Bên cạnh đó những trích dẫn trong luận văn đều
được ghi rõ nguồn gốc hoặc chỉ rõ trong phần tài liệu tham khảo.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về những nội dung đã được trình
bày trong luận văn.
Thanh Hóa, ngày 10 tháng 10 năm 2021
Tác giả Luận văn
Huỳnh Đức Nhiệm
i
MỤC LỤC
MỤC LỤC ..................................................................................................... i
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ...................................................................... iii
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................... 3
3. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 9
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 9
6. Những đóng góp của luận văn .................................................................. 10
7. Bố cục luận văn ........................................................................................ 10
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ DI TÍCH, LỄ
HỘI VÀ KHÁI QUÁT VỀ DI TÍCH, LỄ HỘI LĂNG BÀ CHỢ ĐƯỢC
XÃ BÌNH TRIỀU, HUYỆN THĂNG BÌNH, TỈNH QUẢNG NAM ....... 11
1.1. Một số vấn đề lý luận về quản lý di tích và lễ hội .................................. 11
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản..................................................................... 11
1.1.2. Nội dung quản lý di tích và lễ hội ....................................................... 19
1.2. Khái quát về di tích và lễ hội Lăng bà Chợ Được .................................. 21
1.2.1. Khái quát về vùng đất Bình Triều ....................................................... 21
1.2.2. Khái quát về di tích và lễ hội Lăng bà Chợ Được ............................... 22
*Tiểu kết chương 1....................................................................................... 38
Chương 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ DI TÍCH VÀ LỄ
HỘI LĂNG BÀ CHỢ ĐƯỢC, XÃ BÌNH TRIỀU, HUYỆN THĂNG
BÌNH, TỈNH QUẢNG NAM ..................................................................... 40
2.1. Bộ máy quản lý ..................................................................................... 40
2.2. Thực trạng các hoạt động quản lý di tích và lễ hội lăng Bà Chợ Được... 46
2.2.1. Thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý di sản văn hóa .............................. 46
ii
2.2.2. Thực trạng công tác xếp hạng, công nhận di tích và lễ hội .................. 48
2.2.3. Thực trạng công tác quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị di tích ...... 51
2.2.4. Thực trạng công tác tu bổ, tôn tạo và bảo quản di tích ........................ 51
2.2.5. Thực trạng công tác tổ chức nghiên cứu, sưu tầm, phục dựng lễ hội ... 54
2.2.6. Thực trạng công tác phát huy giá trị di tích và lễ hội Lăng Bà Chợ Được60
2.3. Đánh giá chung...................................................................................... 64
2.3.1. Ưu điểm.............................................................................................. 64
2.3.2. Hạn chế .............................................................................................. 65
2.3.3. Nguyên nhân hạn chế ......................................................................... 66
*Tiếu kết chương 2....................................................................................... 66
Chương 3. QUAN ĐIỂM, NGUYÊN TẮC VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ DI TÍCH VÀ LỄ HỘI LĂNG BÀ
CHỢ ĐƯỢC, XÃ BÌNH TRIỀU, HUYỆN THĂNG BÌNH, TỈNH
QUẢNG NAM ............................................................................................ 68
3.1. Quan điểm và nguyên tắc quản lý .......................................................... 68
3.1.1. Quan điểm quản lý.............................................................................. 68
3.1.2. Nguyên tắc quản lý ............................................................................. 70
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý di tích và lễ hội ............................ 72
3.2.1. Nhóm giải pháp chung ........................................................................ 72
3.2.2. Nhóm giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị di tích, lễ hội Lăng Bà Chợ
Được ............................................................................................................ 81
*Tiểu kết chương 3....................................................................................... 90
KẾT LUẬN ................................................................................................. 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 94
PHỤ LỤC.................................................................................................... 99
iii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TT
Số ký hiệu
Nguyên nghĩa
1
CNH-HĐH
Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa
2
DSVH
Di sản văn hóa
3
VHTTDL
Văn hóa thể thao Du lịch
4
DT LSVH
Di tích lịch sử văn hóa
5
CHXHCN
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
6
UBND
Ủy ban nhân dân
7
MTTQ
Mặt trận tổ quốc
8
BCH
Ban chấp hành
9
XHH
Xã hội hóa
10
KT - XH
Kinh tễ xã hội
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, văn hóa
đóng vai trò rất quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Một trong các thành tố tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam nói chung và văn
hóa vùng miền nói riêng, đó là di tích lịch sử văn hóa.
Di tích lịch sử văn hóa là tài sản vô giá, ẩn chứa truyền thống tốt đẹp
mà thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau các giá trị về lịch sử, văn hóa, khoa
học, thẩm mỹ, những giá trị quý báu đó biểu hiện truyền thống văn hiến, lòng
tự hào dân tộc thông qua những di sản văn hóa của mỗi địa phương, mỗi dân
tộc và của cả nhân loại. Đó là những dấu vết, dấu tích còn lại của quá khứ,
phản ảnh những biến cố, những sự kiện lịch sử, văn hóa hay nhân vật lịch sử
qua các thời kỳ. Không những thế, di tích lịch sử văn hóa còn là chứng tích, là
tài liệu sống để các thế hệ mai sau tìm hiểu, nghiên cứu về các thời kỳ lịch sử
đã đi qua, từ đó giáo dục thế hệ trẻ hôm nay và mai sau những nét truyền
thống đặc trưng của lịch sử, văn hóa và dân tộc. Di tích lịch sử và lễ hội Lăng
Bà Chợ Được xã Bình Triều, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam là một
trong những loại hình di tích lịch sử văn hóa còn tồn tại mang đậm yếu tố
truyền thống của dân tộc ta. Lăng Bà Chợ Được là nơi thờ một vị nữ thần có
vị trí và vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân xã Bình
Triều nói riêng và của huyện Thăng Bình nói chung, Bà luôn hiện hữu trong
cuộc sống của người dân như một điểm tựa tâm linh vững chắc, là một hình
thức sinh hoạt của cộng đồng dân cư, là nhu cầu không thể thiếu được trong
đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân.
Trên quan điểm kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa của cha ông và
sáng tạo ra những giá trị văn hoá mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban
hành nhiều chính sách, văn bản pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho việc bảo
2
tồn hệ thống di tích và đạt được nhiều thành tựu trong công tác bảo tồn, phát
huy di sản văn hóa dân tộc. Ở tỉnh Quảng Nam nhiều di tích lịch sử văn hóa
đã được xếp hạng, tu bổ, tôn tạo; rất nhiều cổ vật, dị vật quý trong đó được
gìn giữ, bảo vệ; các lễ hội mang tính truyền thống, diễn xướng, trò chơi dân
gian, thuần phong, mỹ tục đã được lưu giữ và phát triển. Trong những năm
qua, nhất là từ khi Luật Di sản văn hóa được ban hành (có hiệu lực năm 2001
đến nay), công tác quản lý di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn huyện Thăng
Bình, tỉnh Quảng Nam có nhiều chuyển biến tích cực. Các di tích lịch sử văn
hóa đã được quản lý, đầu tư trùng tu, tôn tạo, phát huy tác dụng nhằm đáp ứng
nhu cầu hưởng thụ văn hóa của cộng đồng không chỉ trong địa phương mà
còn trên cả nước.
Tuy nhiên, công tác quản lý di tích vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế như:
việc chống xuống cấp, chiếm đất xung quanh khu vực của di tích, khoanh
vùng bảo vệ di tích, có biện pháp bảo vệ di tích không bị mất cắp cổ vật, di
vật; việc tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước về quản lý di tích đến cộng đồng dân cư chưa đầy đủ,
kế hoạch để triển khai thực hiện giữa các cấp chưa đồng bộ. Hiện nay, huyện
Thăng Bình có tốc độ phát triển kinh tế - xã hội nhanh, quá trình CNH, HĐH
diễn ra mạnh mẽ, nhiều khu đô thị được quy hoạch và xây dựng.
Trong thời kỳ CNH, HĐH đã có nhiều tác động đến việc bảo tồn, phát
huy giá trị di tích như tăng cường nguồn ngân sách để trùng tu, tôn tạo làm
cho nhiều di tích tránh được sự xuống cấp, hủy hoại. Tuy nhiên quá trình
CNH, HĐH cũng có những tác động tiêu cực đến bản thân các di tích như các
khu dân cư, khu công nghiệp phát triển nhanh nên các di tích dễ bị xâm lấn,
hư hỏng, biến dạng hoặc bị hủy hoại; nhân dân địa phương nơi có di tích sẽ có
những thay đổi đổi rõ nét, sự liên kết sẽ chuyển sang một mối quan hệ khác,
thái độ ứng xử của cộng đồng đối với di tích cũng có sự thay đổi.
3
Vì vậy, đây là các vấn đề đặt ra đối với cơ quan quản lý di tích trong
thời kỳ phát triển CNH, HĐH. Các cơ quan quản lý đứng trước một áp lực đối
với việc bảo vệ, khai thác và phát huy các giá trị di tích và lễ hội truyền thống
một cách bền vững nhưng phải đảm bảo phục vụ phát triển kinh tế - xã hội,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân địa phương.
Trước thực trạng và sự cấp thiết của vấn đề nghiên cứu, trên cơ sở
khoa học, thực tiễn, tiếp thu những công trình khoa học đi trước, tác giả là
một người con được sinh ra và lớn lên tại mảnh đất có bề dày lịch sử và có
nhiều nét văn hóa đặc sắc này. Hơn nữa, tác giả là một người được học tập nghiên cứu về văn hóa nên nhận thấy vai trò, tầm quan trọng của công tác quản
lý nhà nước về di sản văn hóa của địa phương trong giai đoạn hiện nay là một
việc làm cần thiết. Trên cơ sở những lý do trên, tác giả quyết định chọn đề tài
“Quản lý di tích và lễ hội lăng Bà Chợ Được xã Bình Triều, huyện Thăng Bình,
tỉnh Quảng Nam làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Quản lý văn hoá.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Các công trình nghiên cứu về vấn đề quản lý di tích lịch sử - văn hóa
Trên thế giới, quản lý DSVH được các nhà nghiên cứu tiếp cận từ khá
sớm, trong cuốn “Di sản quản lý, diễn giải và bản sắc” đã cho rằng, việc quản
lý di sản xuất hiện vào khoảng đầu thế kỷ XIX. Ngày nay, các nhà nghiên cứu
cho rằng, DSVH không chỉ là một giá trị biểu tượng mà cần sống trong cộng
đồng, trong xã hội tức là phải đóng góp vào sự phát triển chung, DSVH phải
phục vụ cho cộng đồng. Trong nhiều nghiên cứu các tác giả đề cập tới hai vấn
đề của quản lý đó là bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Các nhà quản lý luôn
phải đối mặt với vấn đề cân bằng giữa hai lĩnh vực này cho hợp lý. Công tác
bảo tồn nhằm gìn giữ lại những giá trị của di sản, làm cơ sở để khai thác, phát
huy các giá trị đó trong đời sống. Việc khai thác, phát huy giá trị là điều cần
làm cho di tích và lễ hội thực sự trở thành một bộ phận của cuộc sống hiện tại.
4
Tuy nhiên, các nghiên cứu cần quan tâm đến những vấn đề về phát triển bền
vững, tránh tình trạng khai thác quá mức dẫn tới những ảnh hưởng không tốt
đến giá trị của các di tích và lễ hội đó. Khi các nhà quản lý DSVH nghiên
cứu, bàn thảo về kế hoạch bảo tồn, họ quan tâm nhiều đến việc duy trì nguồn
tài nguyên ở một mức độ bền vững. Trong công ước di sản thế giới UNESCO
yêu cầu các quốc gia thành viên phải xây dựng kế hoạch quản lý các khu di
sản thế giới với mục tiêu cơ bản như quản lý di sản phải xác định giá trị nổi
bật của khu di sản; xác định rõ những khó khăn từ tự nhiên và các hoạt động
kinh tế - xã hội tới khả năng bảo tồn và phát huy di sản; Cơ chế, chính sách
phải phù hợp để thực thi việc quản lý di sản; Thu hút các nguồn lực xã hội
cho hoạt động bảo tồn DSVH và quan trọng hơn cả là cơ chế kiểm soát việc
triển khai kế hoạch quản lý DSVH.
Ở Việt Nam những năm gần đây có nhiều bài viết, các công trình
nghiên cứu được đăng trên các tạp chí, sách chuyên ngành đề cập tới lĩnh vực
quản lý DSVH nói chung, quản lý DSVH vật thể nói riêng. Tuy nhiên, trong
bối cảnh của đất nước hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã dành sự quan tâm tới
các DSVH với nhiều chính sách nhằm bảo vệ và phát huy các giá trị của
chúng, các nghiên cứu của các tác giả trong nước tập trung xoay quanh các
vấn đề về lý luận, kinh nghiệm thực tiễn của hoạt động quản lý, bảo tồn và
phát huy giá trị của DSVH trong thời kỳ CNH - HĐH từ đó đề ra các giải
pháp, kiến nghị cho từng trường hợp cụ thể.
Trong bài Một số vấn đề về di tích lịch sử văn hóa khi đề cập đến vấn
đề quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo tồn di tích (2002), GS Lưu Trần Tiêu
cho rằng, hoạt động bảo tồn di tích thể hiện ở 3 mặt cụ thể là: bảo vệ di tích
về mặt pháp lý và khoa học, bảo vệ di tích về mặt vật chất kỹ thuật, cuối cùng
là sử dụng di tích phục vụ nhu cầu hiện đại của xã hội. Cụ thể, trong công tác
quản lý tập trung vào 3 vấn đề đó là: công nhận di tích; quản lý cổ vật và phân
5
cấp quản lý di tích. Các di tích lịch sử văn hóa chỉ có thể được bảo vệ và phát
huy giá trị văn hóa khi thực hiện một cách đồng bộ 3 mặt hoạt động này và
phải thực hiện như sau:
Một là: thiết lập cơ chế, chính sách đúng đắn để thúc đẩy sự nghiệp bảo
tồn, bảo tàng trong cả nước.
Hai là: Cần có một hệ thống tổ chức phù hợp, đủ điều kiện thực hiện
các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước.
Ba là: Cần tổ chức để đưa các hoạt động bảo tồn thực sự trở thành sự
nghiệp của toàn dân.
Từ đó đề ra 6 biện pháp mang tính cấp bách nhằm tăng cường việc quản
lý nhà nước trong lĩnh vực bảo tồn di tích như: Thể chế hóa bằng pháp luật các
chính sách, cơ chế của nhà nước; Quy hoạch toàn bộ các di tích được công nhận;
phân cấp quản lý; Đầu tư kinh phí từ ngân sách nhà nước và xã hội hóa; Nâng
cao trình độ chuyên môn và năng lực quản lý đội ngũ cán bộ [55].
Trong vấn đề quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo tồn DSVH, tác giả
Đặng Văn Bài đưa ra một số nội dung chủ yếu của công tác quản lý nhà nước
đối với DSVH, coi đây là các vấn đề then chốt, cần quan tâm. Các nội dung
bao gồm: quản lý nhà nước bằng văn bản pháp quy (gồm có các văn bản pháp
quy về bảo vệ, phát huy giá trị DS VH; quyết định về cơ chế, tổ chức quy
hoạch và kế hoạch phát triển; quyết định phân cấp quản lý...); việc phân cấp
quản lý di tích; hệ thống tổ chức ngành bảo tồn, bảo tàng và đầu tư ngân sách
cho các cơ quan quản lý di tích là yếu tố có tính chất quyết định nhằm tăng
cường hiệu quả quản lý [3]. Tác giả Nguyễn Thị Kim Loan (chủ biên) trong
giáo trình Quản lý DSVH [35], đã đưa ra một số nội dung như: Khái niệm
chung về quản lý và quản lý nhà nước về DSVH; Quan điểm phát triển văn
hóa của Đảng và Nhà nước liên quan đến quản lý DSVH dân tộc; Nội dung cơ
bản của quản lý nhà nước về DSVH.
6
Trong cuốn Quản lý văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội
nhập quốc tế do hai tác giả Phan Hồng Giang và Bùi Hoài Sơn (đồng chủ
biên) đã đề cập đến nhiều lĩnh vực cụ thể của hoạt động quản lý văn hóa ở
nước ta hiện nay trong đó có quản lý DSVH, hai tác giả đưa ra thực trạng
quản lý di tích lịch sử văn hóa, bảo tàng và DSVH phi vật thể. Nội dung được
đề cập trên hai quan điểm đó là: Công tác quản lý nhà nước: bao gồm việc
ban hành các văn bản pháp quy, các văn bản thể hiện chủ trương, đường lối
của Đảng và Nhà nước về bảo tồn DSVH dân tộc; Công tác phát triển sự
nghiệp: tập trung phân tích những ưu điểm trong hoạt động bảo tồn di tích
như nhà nước đã đầu tư toàn bộ kinh phí cho các di tích cách mạng kháng
chiến, các di tích được đầu tư tu bổ, chống xuống cấp đã trở thành các điểm
tham quan, du lịch hấp dẫn. Đồng thời nêu ra những hạn chế như chưa có quy
hoạch bảo tồn và phát huy giá trị, các dự án chưa đồng bộ, chưa đáp ứng nhu
cầu bảo tồn...
Trong thời gian qua có khá nhiều bài nghiên cứu, cuộc hội thảo và
chuyên luận của các nhà nghiên cứu tìm hiểu, phân tích về vấn đề tác động
của CNH, HĐH đối với DSVH. Năm 2000, cuốn sách Quản lý văn hóa đô thị
trong điều kiện CNH, HĐH đất nước của tác giả Lê Như Hoa đã đề cập đến
những vấn đề quản lý văn hóa đô thị ở nước ta trong bối cảnh chuyển từ cơ
chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường. Trong thời kỳ đất nước đang
phát triển về mọi mặt, có sự hội nhập quốc tế thì DSVH cũng được coi là một
trong những nguồn lực tham gia vào sự phát triển chung. Tuy nhiên, bên cạnh
mặt tác động tích cực tới nền kinh tế, đời sống xã hội thì sự phát triển đó cũng
tạo ra những tác động tiêu cực, những hạn chế nhất định, nhất là đối với các
DSVH, trong đó có các di tích lịch sử - văn hóa [27].
GS Hà Văn Tấn trong bài viết Bảo vệ di tích lịch sử văn hóa trong bối
cảnh công nghiệp hoá hiện đại hóa đất nước (2003) đã nhận xét rằng: “Các di
7
tích lịch sử - văn hóa đang trong tình trạng khẩn cấp, Nếu chúng ta không có
những chính sách bảo tồn thì ngay cả các di tích quý giá ấy cũng sẽ bị mất đi,
mà một dân tộc đánh mất đi di tích lịch sử văn hóa là một dân tộc đánh mất trí
nhớ...” [Error! Reference source not found.]. Ông phân tích các nguyên
nhân dẫn đến tình trạng di tích bị hủy hoại trong đó có mâu thuẫn giữa nhu
cầu phát triển, quá trình CNH dồn dập với yêu cầu bảo vệ nguyên trạng di
tích.
Trong bài Tầm nhìn tương lai đối với DSVH và hệ thống bảo vệ di tích ở
nước ta của tác giả Nguyễn Quốc Hùng cũng đề cập tới những tác động của
CNH, HĐH làm tổn hại tới hệ thống DSVH nói chung, di tích lịch sử văn hóa
nói riêng. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là sự thiếu đồng bộ, thiếu ý thức
và thiếu quan tâm đến việc bảo tồn di sản của một số ngành, địa phương trong
quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng các cơ sở vật chất. Tác giả bài viết
đã phân tích khá kỹ ba nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác
quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị DSVH trong điều kiện CNH hiện nay [29].
Đề tài nghiên cứu Bảo vệ DSVH trong quá trình phát triển kinh tế - xã
hội và hội nhập quốc tế của Cục Di sản văn hóa do TS Nguyễn Thế Hùng làm
chủ nhiệm cũng đã đề cập tới những ảnh hưởng của sự đổi mới, CNH, HĐH
đến việc bảo vệ DSVH [31]. Đề tài nghiên cứu về thực trạng hoạt động bảo
vệ, phát huy trên các lĩnh vực DSVH vật thể và phi vật thể trên phạm vi cả
nước với những thành tựu đạt được cũng như hạn chế trong hoạt động này.
Tác giả đề tài đề xuất 6 nhóm giải pháp chính nhằm đẩy mạnh sự nghiệp bảo
vệ và phát huy giá trị DSVH như: tăng cường công tác quản lý nhà nước;
củng cố hoàn thiện bộ máy ngành; chính sách đầu tư; xã hội hóa; đào tạo
nguồn lực con người; tăng cường hợp tác quốc tế.
2.2. Các công trình nghiên cứu về di tích lịch sử văn Lăng Bà Chợ Được.
Năm 2011, Phòng Văn hóa - Thông tin huyện Thăng Bình đã triển khai
8
đề tài nghiên cứu khoa học, xã hội và nhân văn cấp huyện “Lễ hội Bà Chợ
Được, xã Bình Triều, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam”. Đề tài đã nghiệm
thu tháng 11 năm 2011. Trong đề tài, lễ hội Bà Chợ Được được miêu tả một
cách chi tiết, sinh động, là cơ sở khoa học quan trọng để hoàn thành luận văn
của tác giả.
Ngoài ra, Sở Văn hóa - Thông tin Quảng Nam (này là Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch Quảng Nam) đã triển khai biên soạn nhiều công trình về văn
hóa của vùng đất Quảng Nam, trong đó có đề cập đến lăng và lễ hội Lăng Bà
Chợ Được. Tiêu biểu là các công trình: Văn học dân gian Quảng Nam (2001),
Phong tục - Tập quán - Lễ hội Quảng Nam (2004).
Để làm căn cứ xếp hạng cấp tỉnh đối với di tích Lăng Bà Chợ Được, Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quảng Nam đã tiến hành lập Lý lịch di tích lăng
Bà Chợ Được. Mặc dù còn ngắn gọn, nhưng tài liệu này đã khái quát về di
tích ở các nội dung: tên gọi, đường đi đến, sự kiện, nhân vật lịch sử liên quan,
mô tả di tích, các hiện vật tiêu biểu và hiện trạng bảo tồn di tích.
Thêm vào đó, năm 2014, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quảng Nam
đã lập Hồ sơ Lễ hội Lăng Bà Chợ Được. Trong đó, diễn trình lễ hội, các nghi
thức, trò diễn đã được mô tả khá kỹ lưỡng và khoa học. Trên cơ sở đó, năm
2014, lễ hội này đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Đây là những tài liệu quan trọng để tác giả hoàn thành luận văn của mình.
Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể
về vấn đề quản lý di tích và lễ hội Lăng Bà Chợ Được, nhất là là trong điều
kiện phát triển kinh tế - xã hội, quá trình CNH, HĐH với những tác động theo
cả hai chiều tích cực và tiêu cực tới các di tích, đây là một thách thức không
nhỏ đối với các cơ quan quản lý ở địa phương. Các vấn đề còn dang dở mà
những nhà nghiên cứu đi trước chưa tiếp cận sẽ là khoảng trống nhất định mà
luận văn sẽ tiếp tục tìm hiểu và nghiên cứu. Đối với nghiên cứu của các học giả
đi trước sẽ là nguồn tư liệu quan trọng, có nhiều ý nghĩa, giá trị để tác giả luận
văn tham khảo, kế thừa nhằm phục vụ cho mục đích nghiên cứu của mình.
9
3. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý di tích và lễ hội lăng Bà Chợ Được.
- Đánh giá thực trạng quản lý di tích và lễ hội lăng Bà Chợ Được.
- Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quản quản lý di tích và lễ hội lăng Bà
Chợ Được trong bối cảnh hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn đi sâu khảo sát, nghiên cứu về công tác quản lý di tích lịch sử
văn hóa và lễ hội lăng Bà Chợ Được.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian tồn tại của di tích và lễ hội lăng Bà Chợ Được, có mở
rộng nghiên cứu những đền thờ tương đồng để làm rõ hơn vấn đề nghiên cứu.
Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2008 đến nay (Năm 2008 lăng Bà Chợ
Được được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh).
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điền dã dân tộc học sử dụng nhằm thu thập tư liệu: Tác
giả luận văn quan sát, tham dự việc tổ chức quản lý và phát huy giá trị di tích
và lễ hội lăng Bà Chợ Được để có được sự đánh giá trực tiếp về công tác tổ
chức và hoạt động quản lý di tích lịch sử văn hóa; phỏng vấn khách thăm
quan, các nhà quản lý, cán bộ văn hóa về nguyện vọng, nhu cầu học tập, tìm
hiểu về di tích lịch sử - văn hóa. Ngoài ra, tác giả còn tiến hành chụp ảnh để
thu thập thêm nguồn tài liệu ở di tích này.
- Phương pháp tiếp cận liên ngành: Luận văn sử dụng phương pháp của
nhiều ngành khoa học như: sử học, dân tộc học, xã hội học, văn hóa học, nghệ
thuật học, khảo cổ học... để làm rõ vấn đề nghiên cứu.
- Đồng thời sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu: thống kê,
phân tích, tổng hợp, điều tra điền dã, chuyên gia, tiếp cận liên ngành.
10
6. Những đóng góp của luận văn
- Góp phần làm rõ cơ sở lý luận về quản lý di tích và lễ hội, chỉ ra được
những giá trị tiêu biểu của di tích và lễ hội Lăng Bà Chợ Được. Luận văn có
thể trở thành tư liệu trong việc học tập và nghiên cứu ngành Lịch sử, Văn hóa
học, Dân tộc học, Nghệ thuật học.
- Góp phần đánh giá thực trạng hoạt động quản lý di tích và lễ hội lăng
Bà Chợ Được, trong công tác quản lý, lãnh đạo chỉ đạo, trong công tác trùng
tu tôn tạo di tích, trong công tác tổ chức lễ hội…, những kết quả đạt được,
những tồn tại hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý di
tích và lễ hội lăng Bà Chợ Được gắn với phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương. Đó là cơ sở khoa học giúp xã Bình Triều, Phòng VHTTDL huyện
Thăng Bình, Sở VHTTDL tỉnh Quảng Nam có các giải pháp, các chiến lược
nâng cao chất lượng trong việc quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị của di tích
trong thời gian tới.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, đề tài có
bố cục gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quản lý di tích, lễ hội và khái quát
về di tích, lễ hội lăng bà Chợ Được xã Bình Triều, huyện Thăng Bình, tỉnh
Quảng Nam
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý di tích và lễ hội lăng bà Chợ
Được xã Bình Triều huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam
Chương 3: Quan điểm, nguyên tắc và giải pháp nâng cao hiệu quả công
tác quản lý di tích và lễ hội Lăng Bà Chợ Được, xã Bình Triều, huyện Thăng
Bình, tỉnh Quảng Nam.
11
Chương 1.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ DI TÍCH, LỄ HỘI
VÀ KHÁI QUÁT VỀ DI TÍCH, LỄ HỘI LĂNG BÀ CHỢ ĐƯỢC
XÃ BÌNH TRIỀU, HUYỆN THĂNG BÌNH, TỈNH QUẢNG NAM
1.1. Một số vấn đề lý luận về quản lý di tích và lễ hội
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Khái niệm di tích, di tích lịch sử - văn hóa
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Di tích là các loại dấu vết của quá
khứ, đối tượng nghiên cứu của khảo cổ học, sử học… Di tích là di sản văn
hóa lịch sử được pháp luật bảo vệ, không ai được tùy tiện dịch chuyển, thay
đổi, phá hủy” [ 59, tr.167].
Tác giả Trần Quốc Vượng cho rằng: “Di tích là dấu vết, dấu tích của một
công trình kiến trúc nào đó còn sót lại không nguyên vẹn từ thế kỷ 20 trở về
trước, lùi sâu cho đến thời kỳ tiền sử, sơ sử” [43].
Từ hai khái niệm trên đây có thể nhận thấy trước hết di tích ra đời gắn
với một thời kỳ lịch sử nhất định, trong quá trình tồn tại luôn có sự biến đổi
theo thời gian vì vậy so với ban đầu di tích có thể đã bị biến đổi không còn
nguyên vẹn tùy thuộc vào từng di tích cụ thể mà chúng có thể ở dạng này hay
dạng khác. Di tích luôn gắn với không gian vật chất cụ thể không được tùy
tiện chuyển dịch từ vị trí này sang vị trí khác hoặc tự ý thay đổi, chúng cần
phải được bảo vệ bằng pháp luật.
Di tích lịch sử - văn hóa là những công trình xây dựng, địa điểm, cảnh
quan thiên nhiên, khu vực thiên nhiên có giá trị về lịch sử, văn hóa, khoa học,
thẩm mỹ. Di tích lịch sử văn hóa là một thành tố quan trọng cấu thành nên di
sản văn hóa, do đó cần được bảo vệ bằng pháp luật.
Tại Điều 1 của Luật Hiến chương quốc tế về bảo tồn và trùng tu di tích
và di chỉ được thông qua tại Đại hội quốc tế lần thứ hai, các kiến trúc sư và kỹ
12
thuật gia về di tích lịch sử họp tại Vinece (1964) được ICOMOS chấp nhận
năm 1965 đã nêu ra: Di tích lịch sử không chỉ là một công trình kiến trúc đơn
chiếc mà cả khung cảnh đô thị hoặc nông thôn có chứng tích của một nền văn
minh riêng, một phát triển có ý nghĩa hoặc một sự kiện lịch sử, khái niệm này
không chỉ áp dụng đối với những công trình nghệ thuật to lớn mà cả với
những với những công trình khiêm tốn hơn vốn đã cùng thời gian, thâu nạp
được một ý nghĩa văn hóa [17, tr.145].
Luật Di sản văn hóa do Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2001 quy định: “Di tích lịch sử văn hóa là công trình xây dựng, địa
điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm có giá
trị lịch sử, văn hóa, khoa học” [41].
Tại Khoản 1, Điều 28 của Luật Di sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Di sản văn hóa quy định [41]:
Di tích lịch sử - văn hóa phải có một trong các tiêu chí sau đây:
a) Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử, văn hóa tiêu
biểu của quốc gia hoặc của địa phương;
b) Công trình xây dựng, địa điểm gắn với thân thế và sự nghiệp của anh
hùng dân tộc, danh nhân, nhân vật lịch sử có ảnh hưởng tích cực đến sự phát
triển của quốc gia hoặc của địa phương trong các thời kỳ lịch sử;
c) Địa điểm khảo cổ có giá trị tiêu biểu;
d) Công trình kiến trúc, nghệ thuật, quần thể kiến trúc, tổng thể kiến trúc
đô thị và địa điểm cư trú có giá trị tiêu biểu cho một hoặc nhiều giai đoạn phát
triển kiến trúc, nghệ thuật.
1.1.1.2. Khái niệm lễ hội
Lễ hội là một loại hình nghệ thuật có tính văn hóa, phản ánh tín ngưỡng
và sinh hoạt của con người, là những gì mà con người đã sáng tạo ra trong
quá trình sống, tồn tại và phát triển. Theo M.Granet: “ Những hội vui hòa của
13
nông dân ấy cũng là những cuộc lễ hôn thú, những hội sinh nở; đánh dấu thời
kỳ trong công việc đồng áng khánh thành kết quả sắp tới, kỷ niệm sự thành
công đã qua, đây cũng còn là những đại hội nông nghiệp…nó đột nhiên giựt
những cá nhân khỏi đời sống buồn tẻ lẻ loi… Nó kích thích đến cùng độ sự
hoạt động sáng tạo của đời sống bên trong”.
Tác giả Đinh Gia Khánh đã đưa ra quan điểm phân loại lễ hội như sau:
“Có nhiều cách phân loại lễ hội. Cách phân loại đơn giản nhất là chia hội lễ
thành hội lễ không có nguồn gốc tôn giáo và hội lễ có nguồn gốc tôn giáo. Hội
lễ mà nguồn gốc vốn không phải là tôn giáo vốn có từ rất lâu. Thí dụ như: Hội lễ
nguyên thủy gắn với nghi thức phồn thực, với sản xuất nông nghiệp. Hội lễ
tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia thành giai cấp và tôn giáo ra đời
(Bà la môn giáo, Phật giáo, Đạo giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo…” [33]
Cũng theo giáo sư Đinh Gia Khánh, “Lễ hội là hiện tượng văn hóa dân
gian đáp ứng nhu cầu tinh thần-tình cảm không thể thiếu được trong đời sống
nhân dân các dân tộc trên thế giới cũng như ở nước ta. Lễ hội là một hiện
tượng lịch sử, một hình thức văn hóa sinh động, văn hóa, tụ hội nhiều mối
quan hệ cộng đồng làng xã của dân tộc Việt Nam. Nảy sinh và bén rễ từ sinh
hoạt văn hóa làng quê xưa, nhân tố cổ truyền của nền văn minh nông nghiệp
ấy không ngừng vận động, biến thiên, bồi đắp theo tiến trình lịch sử văn hóa,
trở thành một đối tượng hấp dẫn đáp ứng được nhu cấu của con người qua các
thời đại" [33].
Dựa vào các ý kiến này, Ngô Đức Thịnh đưa ra nhận định chung về lễ
hội. “Từ nhiều năm nay, giới nghiên cứu lễ hội nước ta, từ nhiều góc độ khác
nhau, cố gắng đưa ra một cách phân loại lễ hội sao cho thỏa đáng nhất. Trước
hết người ta căn cứ vào nội dung phản ánh để chia đây là lễ hội nông nghiệp,
kia là lễ hội anh hùng lịch sử, còn kia là lễ hội tôn giáo, tín ngưỡng… căn cứ
vào phạm vi to nhỏ để phân biệt đâu là hội làng, hội vùng và hội của cả
14
nước… rồi lại căn cứ vào thời gian mở hội để chia ra lễ hội mùa xuân, lễ hội
mùa thu, hay nơi tổ chức ở chùa, đền, đình…cách phân chia nào cũng hợp lý,
nhưng cũng không tránh được những chồng chéo, bất hợp lý của nó [53].
Chính vì vậy, xét về mặt thời gian, lễ hội cũng có thời gian từ xưa cùng
tồn tại với con người và được con người quan tâm tìm hiểu từ rất sớm. Cội
nguồn sâu xa bắt nguồn từ những tín ngưỡng dân gian nguyên thủy, trải qua
quá trình hội nhập, giao lưu, tiếp biến lễ hội được hình thành và định hình như
ngày hôm nay. Cho nên từ tâm thức này đã ảnh hưởng trong các lễ hội văn
hóa và luôn có sự giao thoa, vận dụng giữa các vùng miền nói chung. Lễ hội
Bà Chợ Được-Thăng Bình nói riêng được thể hiện qua loại hình nghệ thuật
diễn xướng dân gian - rước cộ trong Lễ hội Bà Chợ Được, Bình Triều, Thăng
Bình, Quảng Nam.
Lễ và hội, cả hai khái niệm đều có nguồn gốc từ chữ Hán. Lễ và hội là
hai phạm trù hợp nhất thành một sinh hoạt văn hóa cộng đồng hoàn chỉnh,
hợp nhất, không hoàn toàn tách rời.
Lễ: là theo cái khuôn mẫu của người đã qua định các phép tắc: Từ
quan, hôn, tang, tế cho đến cách đi đứng, nói năng đều có khuôn phép nhất
định. Thuật ngữ “Lễ” được hiểu một cách khái quát là phần nghi thức bắt
buộc trong những dịp hội hè, đình đám. Lễ trong hội biểu hiện lòng tôn kính
của cộng đồng với các vị thánh. Đây là dịp để họ dâng lên vị thần những sản
vật làm ra với lòng kính trọng, biết ơn sự bảo trì của thần linh đã giúp cho họ
làm ăn phát đạt, thịnh vượng. Sự tôn kính, trang nghiêm, linh thiêng của tế lễ
đã tác động vào tâm thức tâm linh của con người làm giàu thêm cuộc sống
tinh thần, làm đẹp hơn, tốt hơn các mối quan hệ tình cảm giữa con người với
con người, giữa con người với thiên nhiên, con người với tự nhiên xã hội.
Cho nên tính ưu việt trong tế lễ là thước đo của các giá trị chuẩn mực đạo đức
truyền thống, chuẩn mực đạo đức trong miên trường sinh hóa mà văn hóa dân
- Xem thêm -