1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGÔ THÁI LỄ
SỰ VẬN ĐỘNG CỦA CÁI TÔI TRỮ
TÌNH
TRONG THƠ CHẾ LAN VIÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
VINH - 2010
LỜI CẢM ƠN
2
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Hoàng Mạnh
Hùng, TS. Nguyễn Đức Mậu và PGS.TS. Biện Minh Điền đã tận tình giúp đỡ
tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Ngữ Văn
- Trường Đại học Vinh đã quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá
trình học tập, nghiên cứu.
Tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã quan tâm, giúp đỡ, tạo
điều kiện tốt để tôi nghiên cứu, học tập và hoàn thành luận văn này.
Vinh, tháng 12 năm 2010
Tác giả
Ngô Thái Lễ
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
3
1.
Lý do chọn đề tài ............................................................................................1
2.
Lịch sử nghiên cứu .........................................................................................3
3.
Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát của đề tài ....................................8
4.
Nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................................8
5.
Phương pháp nghiên cứu ................................................................................9
6.
Đóng góp của luận văn ...................................................................................10
7. Cấu trúc luận văn ............................................................................................10
Chương 1. Tổng quan về sự hình thành cái tôi trữ tình trong thơ
Chế Lan Viên qua các thời kì sáng tác .............................................12
1.1. Những vấn đề lí luận cơ bản xung quanh khái niệm cái tôi trữ
tình .........................................................................................................................12
1.1.1.
Khái niệm cái tôi trữ tình ..................................................................12
1.1.2.
Bản chất cái tôi trữ tình .....................................................................14
1.1.3.
Những nhân tố tạo nên sự vận động của cái tôi trữ tình
trong thơ ........................................................................................................21
1.2 Vị trí văn học sử của nhà thơ Chế Lan Viên trong nền thơ ca
Việt Nam hiện đại ........................................................................................25
1.3. Sự hình thành cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên ............................31
1.3.1.
Thời kì trước Cách mạng tháng Tám - 1945 .....................................32
1.3.2.
Thời kì 1945 - 1975 ...........................................................................33
1.3.3.
Thời kì sau 1975 ................................................................................36
Chương 2. Từ cái tôi lãng mạn đến cái tôi hiện thực cách mạng
mang
khuynh hướng sử thi và ngợi ca cuộc sống mới ...............39
2.1. Từ cái tôi trữ tình lãng mạn trước cách mạng ...........................................39
2.1.1.
Vị trí văn học sử của tập thơ Điêu tàn trong sự nghiệp sáng
tác của Chế Lan Viên .......................................................................39
4
2.1.2.
Ảnh hưởng của thời đại đối với việc hình thành cái tôi trữ
tình trong Điêu tàn ...........................................................................42
2.1.3.
Những biểu hiện của cái tôi trữ tình trong Điêu tàn .........................44
2.2. Đến cái tôi hiện thực cách mạng mang khuynh hướng sử thi
và ngợi ca cuộc sống mới trong giai đoạn 1945 - 1975 ...............................54
2.2.1.
Sự hình thành cái tôi trữ tình kiểu mới trong thơ Việt Nam .............55
2.2.2.
Cái tôi hiện thực cách mạng mang khuynh hướng sử thi và
ngợi ca cuộc sống mới trong thơ Chế Lan Viên ..............................61
Chương 3. Từ cái tôi sử thi và ngợi ca cuộc sống mới sang cái tôi
suy ngẫm về đời tư thế sự ...............................................................85
3.1. Những đổi mới của văn học Việt Nam sau 1975 và sự phân hóa
các kiểu cái tôi trữ tình trong thơ ................................................................85
3.1.1.
Hoàn cảnh xã hội sau 1975 ..................................................................... 85
3.1.2.
Những đổi mới của văn học sau 1975 ...............................................88
3.1.3.
Sự phân hóa các kiểu cái tôi trữ tình trong thơ sau 1975 ..................90
3.2. Sự chuyển biến từ cái tôi chính trị sang cái tôi suy ngẫm
về đời tư thế sự .............................................................................................94
3.2.1.
Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Chế Lan
Viên sau 1975 ....................................................................................94
3.2.2.
Những nét biểu hiện độc đáo của cái tôi trữ tình trong thơ
Chế Lan Viên sau 1975 qua ba tập Di cảo ........................................97
KẾT LUẬN .............................................................................................................111
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................113
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN ............................................................................ 119
MỞ ĐẦU
5
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Vận động và phát triển là phương thức tồn tại của văn học nghệ
thuật. Quy luật ấy mang tính phổ quát cho mọi nền văn học trên thế giới và ở
mọi thời đại. Đối với những nhà văn, nhà thơ lớn đã từng sống và sáng tác
vào những thời điểm lịch sử và văn học chuyển mình mang ý nghĩa bước
ngoặt thì dấu ấn của chủ thể sáng tạo càng thể hiện rõ nét trong tác phẩm. Nền
văn học viết Việt Nam đã có lịch sử hình thành và phát triển trên một nghìn
năm nay. Qua bao nhiêu bước thăng trầm, các thế hệ nhà văn Việt Nam đã
xây dựng nên một nền văn học tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc như bây giờ.
Trong cả chặng đường dài phát triển, có thể khẳng định văn học Việt Nam từ
đầu thế kỷ XX đến nay được xem là giai đoạn có nhiều bước biển chuyển
mạnh mẽ nhất. Đây là thời kỳ văn học vận động và không ngừng đổi mới theo
xu hướng hiện đại hóa và dân chủ hóa cả về nội dung và hình thức biểu hiện.
Sự chuyển biến này có ý nghĩa cách mạng, làm thay đổi phạm trù văn học,
chuyển văn học Việt Nam từ trung đại sang hiện đại.
Nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, để chiếm lĩnh những
giá trị nhân văn và giá trị thẩm mĩ của nó chúng ta không thể không chú ý đến
sự vận động và phát triển chung của cả nền văn học và cụ thể hóa ở những tác
gia tiêu biểu.
1.2. Những người có công đóng góp vào quá trình đổi mới của văn học
dân tộc trong hơn một thế kỷ qua, có rất nhiều tác giả thuộc nhiều thể loại
khác nhau. Trên lĩnh vực thơ ca, chúng ta có cả một đội ngũ nhà thơ hùng hậu
bao gồm nhiều thế hệ. Có nhiều người rất nổi tiếng, có tầm ảnh hưởng sâu sắc
trong đời sống tinh thần của dân tộc và trên trường quốc tế như Xuân Diệu,
Huy Cận, Chế Lan Viên, Tế Hanh… Trước Cách mạng tháng Tám, họ là
những nhà thơ tiêu biểu và nổi tiếng của phong trào Thơ mới. Sau Cách
6
mạng, sáng tác của họ rất phong phú, có nhiều thành tựu, đã được độc giả và
giới nghiên cứu phê bình khẳng định.
Với nhà thơ Chế Lan Viên, có thể khẳng định rằng ông là một trong
những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế kỷ XX. Sự nghiệp sáng tác của Chế Lan
Viên kéo dài hơn nửa thế kỷ, qua ba thời kỳ: thời kỳ trước cách mạng, thời kỳ
“Ba mươi năm dân chủ cộng hòa” và thời kỳ sau 1975. Trong tiến trình phát
triển của thơ Việt Nam hiện đại, hiếm có một nhà thơ nào chiếm lĩnh được cả
ba đỉnh cao ở cả ba thời kỳ sáng tác như Chế Lan Viên. Chính tài năng và
những thành tựu to lớn trong sự nghiệp sáng tác mà Chế Lan Viên đã được
nhiều người quan tâm nghiên cứu.
1.3. “Trong thơ, vấn đề chủ thể cái tôi trữ tình có một ý nghĩa đặc biệt
quan trọng” [14, 61]. Thơ trữ tình luôn luôn gắn với cái “tôi”. Bởi vậy khi
nghiên cứu cái tôi trữ tình trên các phương diện thuộc về thể loại, các trào
lưu, khuynh hướng, các chặng đường sáng tác, các tác giả hay ngay cả một
tác phẩm thơ cụ thể, người ta thường quan tâm nhiều đến việc tìm hiểu cái tôi
trữ tình. Việc nghiên cứu cái tôi trữ tình trong thơ rất rộng, rất phức tạp và
chưa được nghiên cứu nhiều. Nghiên cứu đề tài Sự vận động của cái tôi trữ
tình trong thơ Chế Lan Viên là một việc làm hữu hiệu để thấy được nét độc
đáo trong phong cách, những tiến bộ nghệ thuật, những đóng góp của Chế
Lan Viên trong nền thơ Việt Nam.
1.4. Có nhiều căn cứ để khảo sát sự vận động của cái tôi trữ tình trong
thơ. Đó là căn cứ triết học về sự vận động biện chứng của mọi hiện tượng tự
nhiên và xã hội, như một quá trình không ngừng của sự sinh thành và sự tiêu
vong, của sự tiến triển vô tận từ thấp đến cao. Ngoài căn cứ triết học còn phải
có căn cứ từ thực tế. Trong sáng tạo thơ, tác giả nào cũng có sự vận động và
sự trưởng thành. Tuy nhiên, có những nhà thơ chỉ sáng tác trong một thời gian
ngắn, số lượng tác phẩm không nhiều thì dấu ấn của sự vận động này ít có
7
điều kiện thể hiện. Thơ Chế Lan Viên đã trải qua một quá trình sáng tác rất
dài, qua ba thời kỳ và đã thể hiện rất rõ sự vận động của cái tôi trữ tình. Chế
Lan Viên luôn luôn đề cao ý thức trách nhiệm người cầm bút, luôn luôn mong
muốn cung cấp cho đời nhiều tác phẩm. Với quan niệm “thơ cần có ích cho
đời, cho nhân dân”, Chế Lan Viên đã không ngừng phấn đấu. Cuộc “đấu tranh
bản thân” trong con người công dân và con người nghệ sĩ ở ông làm cho ông
hay “sám hối”, không tự bằng lòng về những gì thơ mình chưa hoàn thiện.
Cuộc chiến đấu ấy dầu gian nan nhưng ông đã vượt qua và đạt được những
thành công. Trong một số tiểu luận, trong rất nhiều bài thơ, ông đã nói rõ quá
trình phấn đấu, trưởng thành, nói rõ sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ
mình.
Lý do nghiên cứu đề tài có cơ sở thực tiễn đó là thơ Chế Lan Viên tồn tại
một cái tôi trữ tình không ngừng vận động, không ngừng biến đổi trên cơ sở
kế thừa và cách tân. Đó là sự vận động từ một cái tôi lãng mạn trước cách
mạng đến cái tôi trữ tình chính trị giai đoạn 1945 - 1975 và đến cái tôi đời tư
thế sự mang nặng cảm xúc trầm tư suy ngẫm trong những bài thơ được sáng
tác sau 1975, đặc biệt là những bài thơ được sáng tác những năm cuối đời.
Quả là, trong lịch sử phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại thế kỷ XX, hiếm
có một nhà thơ nào tạo ra sự vận động liên tục trong suốt cả sự nghiệp sáng
tác, tạo nên được sức hấp dẫn đối với công chúng yêu thơ như Chế Lan Viên.
1.5. Chế Lan Viên là một tác giả lớn, có nhiều tác phẩm được đưa vào
giảng dạy trong chương trình văn ở các cấp học từ phổ thông đến đại học.
Nhiều bài thơ của ông đã để lại những ấn tượng sâu sắc đối với bao thế hệ học
sinh như Người đi tìm hình của nước, Tiếng hát con tàu, Tình ca ban mai…
Nghiên cứu đề tài này cũng là để bổ sung thêm kiến thức về thân thế, sự
nghiệp sáng tác của Chế Lan Viên, để giảng dạy tốt hơn tác giả này ở nhà
trường.
8
2. Lịch sử nghiên cứu
Đề tài vừa mang tính lý luận vừa mang tính văn học sử, cả hai vấn đề
này đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu.
2.1. Những vấn đề về lý luận xung quanh khái niệm cái tôi và cái tôi
trữ tình
Khái niệm cái tôi và cái tôi trữ tình đã được đề cập và được nghiên cứu
trong mĩ học cổ điển cận đại phương Tây và phương Đông. Các nhà thơ cổ
điển Trung Quốc và Việt Nam, trong các ý kiến bình giải về tình, tâm, trí, đạo
trong thơ, tuy chưa sử dụng thuật ngữ cái tôi trữ tình nhưng phần nào cũng
thể hiện ý nghĩa của nó.
Cái tôi được Hoài Thanh trực diện đề cập đến trong bài Một thời đại
trong thi ca (Thi nhân Việt Nam) có ý nghĩa tổng kết phong trào Thơ mới.
Theo Hoài Thanh, chữ “tôi” xuất hiện trên thi đàn Việt Nam đã đem lại một
quan niệm hoàn toàn mới về con người cá nhân: “Ngày thứ nhất ai biết đích
xác là ngày nào - chữ tôi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó thực sự bỡ ngỡ.
Nó như lạc loài nơi đất khách. Bởi nó mang theo một quan niệm chưa từng
thấy ở xứ này: Quan niệm cá nhân” [54, 45]. Cái tôi là linh hồn của Thơ mới,
“Thời đại Thơ mới là thời đại của chữ tôi” [54, 47]. Cái tôi là một phạm trù
đối lập với cái ta của “thơ cũ”. Khái niệm cái tôi cũng được Hoài Thanh vận
dụng uyển chuyển để nhận dạng phong cách hồn thơ của mỗi nhà thơ.
Từ những năm 70 của thế kỷ XX, vấn đề cái tôi được đặt ra như một
đối tượng nghiên cứu ở một số chuyên khảo về thơ. Trong công trình Thơ và
mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Hà Minh Đức đã dành một số
chương bàn về cái tôi trữ tình, tác giả đặt cái tôi trữ tình vào một hệ thống và
phân tích nó trong mối quan hệ với nhà thơ, các hình thức biểu hiện cái tôi trữ
tình trong thơ.
9
Trần Đình Sử với chuyên luận Thi pháp thơ Tố Hữu đã đưa ra một khái
niệm kiểu nhà thơ. Đó cũng là một hình thức trực diện bàn đến cái tôi trữ tình
trong thơ. Ngoài ra, trong cuốn Những thế giới nghệ thuật thơ, Trần Đình Sử
cũng đã trình bày các loại hình nghệ thuật thơ ca và nêu lên đặc trưng của cái
tôi trữ tình trong các loại hình thơ. Ông phân biệt cái tôi trữ tình trong thơ
cách mạng khác với cái tôi trữ tình trong các loại hình thơ dân gian, cổ điển,
lãng mạn…
Đã có hai luận án tiến sĩ đề cập đến cái tôi trữ tình trong thơ. Đó là luận
án Cái tôi trữ tình trong thơ (qua một số hiện tượng thơ trữ tình Việt Nam
1975 - 1990) của tác giả Lê Lưu Oanh và luận án Nửa thế kỷ thơ Việt Nam
1945 - 1995 (nhìn từ phương diện sự vận động của cái tôi trữ tình) của tác giả
Vũ Tuấn Anh. Điểm chung của hai công trình này là đều nghiên cứu về cái tôi
trữ tình trong thơ và đều lấy cả một chặng đường phát triển của thơ Việt Nam
làm đối tượng khảo sát. Điểm riêng tạo nên nét khác biệt đó là tác giả Vũ
Tuấn Anh thì khảo sát sự vận động của cái tôi trữ tình suốt cả một chặng
đường thơ Việt Nam nửa thế kỷ (1945 - 1995), còn tác giả Lê Lưu Oanh thì
chỉ khảo sát qua một số hiện tượng thơ trong vòng mười lăm năm (1975 1990). Phần lý luận về cái tôi trữ tình, các tác giả đã trình bày quan niệm về
cái tôi và cái tôi trữ tình trong các lĩnh vực triết học, tâm lý học và lý luận văn
học. Từ đó các tác giả nêu lên những vấn đề liên quan đến khái niệm cái tôi
trữ tình như bản chất, các kiểu cái tôi trữ tình và những nhân tố thúc đẩy sự
vận động của cái tôi trữ tình.
Đề tài Sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên cũng
là một hướng đi riêng. Đó là vận dụng lý luận về cái tôi trữ tình vào việc
nghiên cứu một tác giả cụ thể. Hướng này có thể áp dụng rộng rãi để nghiên
cứu bất kỳ một tác giả thơ nào.
2.2. Những vấn đề về văn học sử
10
Chế Lan Viên với vị trí văn học sử đứng hàng đầu trong đội ngũ các
nhà thơ Việt Nam đã thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu phê bình văn
học trước và sau Cách mạng tháng Tám với rất nhiều ý kiến khen, chê, thậm
chí có lúc trái ngược nhau. Xin nêu lên đây một số ý kiến tiêu biểu của các
nhà nghiên cứu bàn về thơ Chế Lan Viên, trong đó nhấn mạnh cái tôi trữ tình.
Trong Đôi điều suy nghĩ bộc bạch cùng bạn đọc, cuốn Chế Lan Viên - Người
làm vườn vĩnh cửu, Phong Lan viết: “Cũng giống như bất kỳ nhà văn, nhà thơ
lớn hiện đại nào khác, việc đánh giá từng tác phẩm nói riêng hay toàn bộ sự
nghiệp văn chương của Chế Lan Viên nói chung trải dài trong suốt sáu mươi
năm, hẳn không tránh khỏi ở thời kỳ này hay thời kỳ khác, ở tác giả này hay
tác giả khác, do chi phối của lịch sử hay sự ràng buộc của điều kiện khách
quan, chủ quan nào đó mà đã có nhiều cách đánh giá thơ ông khác biệt nhau,
thậm chí trái ngược nhau tùy theo quan điểm thẩm định riêng của mỗi thời và
mỗi người. Đó cũng là điều bình thường và là quyền của người viết. Lẽ
thường xưa nay, nhà văn tầm vóc càng lớn, các tác phẩm của họ càng đa diện,
đa thanh, đa sắc, đa tầng bao nhiêu thì sự đánh giá họ càng phong phú, phức
tạp bấy nhiêu. Tuy nhiên, rồi sự định giá công tâm sáng suốt và đáng tin cậy
nhất bao giờ cũng là của thời gian và các thế hệ độc giả hôm nay và mai sau”
[26, 7].
Trao đổi với tác giả bài Chế Lan Viên và Di cảo thơ, Phạm Quang
Trung viết: “Không ai phủ nhận có một thời ta sống cho riêng ta không
nhiều. Thơ cũng vậy. Chế Lan Viên cũng vậy… Cái chung có phần lấn át cái
riêng, ấy là do cuộc sống đòi hỏi như vậy. Ở đây không có sự đối lập giữa cái
riêng và cái chung, giữa cá nhân và xã hội. Hơn thế, như những tài năng thơ
ca khác, con người công dân Chế Lan Viên đi vào trong thơ đã thực sự tạo lập
nên bản sắc riêng của mình” [64].
11
Nguyễn Bá Thành là một chuyên gia nghiên cứu về Chế Lan Viên. Ông
có một chuyên luận gần 400 trang với nhan đề Thơ Chế Lan Viên với phong
cách suy tưởng cũng đã khảo sát các chặng đường thơ Chế Lan Viên, trong đó
đặc biệt chú ý đến chất trí tuệ, phong cách suy tưởng trong thơ Chế Lan Viên.
Theo Nguyễn Bá Thành, Chế Lan Viên cuối đời “quay lại điểm xuất phát,
quay lại với cái đài thơ, cái tháp nghỉ của thi nhân thuở xưa. Đó không phải là
sự cách tân mà chủ yếu là sự phục hồi cách cảm và cách nghĩ của nhà thơ thời
trước cách mạng tháng Tám. Phương pháp tư duy ấy được Chế Lan Viên đúc
kết thành phương pháp “lộn trái”, hay là “thêu bề trái” [55, 165]. Nguyễn Bá
Thành đánh giá cao thơ Chế Lan Viên giai đoạn ông trở về với nhân dân, với
Đảng và Bác Hồ từ ngày đầu kháng chiến chống Pháp, quả nhiên như có phép
mầu, thơ ông từ khi có định hướng “vì ai” đã gặt hái được nhiều thành tựu.
Một loạt bài thơ vào loại đặc sắc nhất thơ Việt Nam hiện đại đã nối tiếp nhau
xuất hiện hồi ấy.
Luận văn này đã tập hợp và khảo sát hầu hết các công trình nghiên cứu
về thơ Chế Lan Viên, trong đó đặc biệt chú ý đến các giáo trình, các chuyên
luận, các luận án tiến sĩ về Chế Lan Viên.
Giáo trình Văn học Việt Nam 1945 - 1975 của nhiều tác giả do Nguyễn
Đăng Mạnh chủ biên có hẳn một chương về Chế Lan Viên do Nguyễn Văn
Long viết. Chương đó cũng đã tìm hiểu những chặng đường thơ và phong
cách nghệ thuật của thơ Chế Lan Viên.
Có nhiều luận án và luận văn về Chế Lan Viên, đáng kể nhất là luận án
Những nét đặc sắc cơ bản của hình thức nghệ thuật thơ Chế Lan Viên từ sau
1945 của Đoàn Trọng Huy. Luận án này chủ yếu nghiên cứu về nghệ thuật
thơ Chế Lan Viên và cũng chỉ dừng lại trong một chặng đường sáng tác ngắn
1945 - 1975. Tuy vậy, tác giả đã nêu lên được những nét đặc sắc trong phong
cách nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, đó là tính triết lý.
12
Có một công trình về Chế Lan Viên được đánh giá cao, nghiên cứu một
cách toàn diện hơn, đó là công trình của Hồ Thế Hà với nhan đề Thế giới
nghệ thuật thơ Chế Lan Viên. Chuyên luận được phát triển trên cơ sở luận án
tiến sĩ. Hồ Thế Hà đi sâu vào quan niệm nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, tính
triết lý, không gian, thời gian nghệ thuật, phương thức thể hiện và thể loại thơ
Chế Lan Viên. Bấy nhiêu vấn đề đã làm hiện lên phong cách thơ độc đáo phong cách triết lý thơ Chế Lan Viên.
Ngoài các công trình nêu trên, phải kể đến các công trình của các nhà
nghiên cứu khác có tên tuổi được tập hợp trong các công trình như:
- Chế Lan Viên - Người làm vườn vĩnh cửu
- Chế Lan Viên giữa chúng ta
- Chế Lan Viên, tác gia và tác phẩm
Mỗi tác giả trong ba cuốn sách vừa nêu chủ yếu nghiên cứu một vấn đề,
thậm chí là vấn đề rất nhỏ. Nhưng tập hợp lại, chúng ta thấy một cái nhìn khá
toàn diện về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Chế Lan Viên.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát của đề tài
3.1. Đối tượng
Sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên.
3.2. Phạm vi khảo sát
Toàn bộ các tập thơ của Chế Lan Viên, trong đó chủ yếu là các tập thơ:
Điêu tàn, Gửi các Anh, Ánh sáng và phù sa, Hoa ngày thường - Chim báo
bão, Những bài thơ đánh giặc, Hoa trên đá và ba tập Di cảo thơ.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài Sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên là một
đề tài vừa mang tính lý luận (những vấn đề lý luận xung quanh khái niệm về
cái tôi trữ tình), vừa mang tính văn học sử (gắn với tìm hiểu cuộc đời và sự
nghiệp sáng tác của tác giả Chế Lan Viên). Với mức độ là một luận văn thạc
13
sĩ và với tư cách là một đề tài khoa học chuyên ngành văn học Việt Nam
thuộc loại hình nghiên cứu tác giả, chúng tôi xác định tính văn học sử vẫn là
chính. Bởi vậy, trong cấu trúc luận văn, chúng tôi không dành riêng hẳn một
chương để tìm hiểu những vấn đề lý luận về khái niệm cái tôi trữ tình. Mặc
dầu vậy, những vấn đề lý luận này cũng phải đặt ra như là một nhiệm vụ, một
mục tiêu của luận văn.
4.1. Về lý luận
Vấn đề quan trọng là nêu lên được các quan niệm về cái tôi trữ tình,
tìm hiểu bản chất, những nhân tố thúc đẩy sự vận động cái tôi trữ tình và đưa
ra được các kiểu biểu hiện cái tôi trữ tình có liên quan đến tác giả Chế Lan
Viên như kiểu cái tôi trữ tình lãng mạn, hiện thực cách mạng, cái tôi trữ tình
chính trị mang khuynh hướng sử thi, cái tôi đời tư thế sự,… Từ đó, áp dụng
những vấn đề lý luận này vào việc khảo sát sự vận động của cái tôi trữ tình
trong một tác giả cụ thể.
4.2. Về văn học sử
Trên cơ sở cái nền của lý luận, vận dụng nó vào tìm hiểu cái tôi trữ
tình trong các chặng đường thơ Chế Lan Viên. Từ đó, chỉ ra quá trình vận
động của thơ Chế Lan Viên, từ cái tôi lãng mạn trong Điêu tàn đến cái tôi sử
thi trong thơ giai đoạn 1945 - 1975 (Gửi các Anh, Ánh sáng và phù sa, Hoa
ngày thường, Chim báo bão,…) và cái tôi suy ngẫm về đời tư thế sự trong các
tập Di cảo thơ.
Trong sáng tác thơ, nhất là ở các nhà thơ lớn có quá trình sáng tác dài
qua các thời kỳ lịch sử và văn học khác nhau, không chỉ nhà thơ Chế Lan
Viên mới có sự vận động. Lấy ngay hiện tượng các nhà thơ cùng thế hệ với
ông như Xuân Diệu, Huy Cận, Tế Hanh..., ta cũng thấy có quá trình vận động
và biến chuyển này. Từ đây đặt ra thêm một mục tiêu là tìm hiểu quá trình
chuyển biến của thơ Chế Lan Viên có những gì giống và khác với các nhà thơ
14
cùng thời. Có như vậy mới thấy được nét độc đáo trong sự vận động của Cái
tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn này có sự phối hợp đồng bộ các phương pháp nghiên cứu sau:
5.1 Phương pháp thống kê, phân loại
5.1.1 Thống kê các ý kiến về thơ trữ tình và cái tôi trữ tình trong thơ,
từ những quan niệm của các nhà triết học duy tâm như Hêghen, Phoiơbắc đến
các nhà duy vật biện chứng như Mác - Lênin, quan niệm của các nhà lý luận
văn học về vấn đề này qua các thời kỳ.
5.1.2. Thống kê các tập thơ của Chế Lan Viên để phân loại, chọn những
tập thơ nào, bài thơ nào là tiêu biểu nhất thể hiện rõ sự vận động.
5.1.3. Thống kê thơ của các nhà thơ cùng thời với Chế Lan Viên.
5.1.4. Thống kê các ý kiến thẩm bình thơ Chế Lan Viên. Cần phân loại
các ý kiến đúng và sai.
5.2. Phương pháp phân tích
Thống kê chỉ là một phương tiện, còn nhiệm vụ chính là phân tích các ý
kiến, các chi tiết nghệ thuật, từ đó đưa ra sự nhìn nhận đánh giá về sự vận
động của cái tôi trữ tình.
5.3. Phương pháp so sánh
Vấn đề của luận văn là chỉ ra quá trình vận động của cái tôi trữ tình
trong thơ Chế Lan Viên. Muốn thấy được quá trình vận động, chuyển biến tất
yếu phải dùng biện pháp so sánh để thấy được cái tôi trữ tình trong thơ Chế
Lan Viên giữa giai đoạn này và giai đoạn kia có nét tương đồng và khác biệt,
có nét kế thừa và cách tân. Phương pháp so sánh không chỉ được dùng trong
quá trình tìm hiểu sáng tác của Chế Lan Viên mà còn mở rộng so sánh với các
nhà thơ cùng thời để chỉ ra nét độc đáo của Chế Lan Viên với các nền thơ
khác.
15
5.4. Phương pháp tổng hợp
Các ý kiến phân tích, so sánh sau khi được đưa ra cần phải đi tới sự
tổng hợp khái quát nâng lên thành vấn đề.
6. Đóng góp của luận văn
Chỉ ra những biểu hiện cái tôi trữ tình của thơ Chế Lan Viên qua các
thời kỳ, từ đó nêu lên quá trình vận động của nó. Từ đây có thể thấy được:
- Thơ Chế Lan Viên qua các tập thơ có sự vận động của cái tôi trữ tình.
- Sự vận động này rất tiêu biểu cho quá trình chuyển biến từ một nhà
thơ lãng mạn thành nhà thơ hiện thực.
7. Cấu trúc luận văn
Tương ứng với những nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, ngoài phần Mở đầu,
Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được triển khai
trong ba chương
Chương 1. Tổng quan về sự hình thành cái tôi trữ tình trong thơ Chế
Lan Viên.
Chương 2. Từ cái tôi lãng mạn đến cái tôi hiện thực cách mạng mang
khuynh hướng sử thi và ngợi ca cuộc sống mới.
Chương 3. Từ cái tôi sử thi và ngợi ca cuộc sống mới chuyển thành
cái tôi suy ngẫm về đời tư thế sự.
16
17
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ SỰ HÌNH THÀNH
CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ CHẾ LAN VIÊN
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản xung quanh khái niệm cái tôi trữ tình
Đề tài Sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên là một
đề tài vừa mang tính lý luận vừa mang tính văn học sử. Với mức độ là một
luận văn thạc sĩ và với tư cách là đề tài khoa học chuyên ngành văn học Việt
Nam thuộc loại hình nghiên cứu tác giả, chúng tôi xác định tính văn học sử
vẫn là chính. Những vấn đề lý luận xung quanh khái niệm về cái tôi trữ tình
được xem là những phương tiện cần thiết.
Những vấn đề lý luận này đã được nhiều người nghiên cứu và được
công bố thành những công trình có giá trị. Trong phần lịch sử nghiên cứu
chúng tôi đã có dịp khảo sát. Vấn đề của luận văn này là vận dụng những kết
quả nghiên cứu đó để tìm hiểu con đường vận động của cái tôi trữ tình ở một
tác giả thơ cụ thể.
Lý luận về cái tôi trữ tình trong thơ bao gồm những vấn đề cơ bản sau:
1.1.1. Khái niệm cái tôi trữ tình
Sáng tác thơ là một nhu cầu tự biểu hiện, một sự thôi thúc bên trong
nhiều khi mãnh liệt, dồn dập do sự tác động của đời sống gây nên. Trong lời
đề tựa tập thơ của mình, nhà thơ Sóng Hồng viết: “Người làm thơ phải có tình
cảm mãnh liệt, thể hiện sự nồng cháy trong lòng” [21]. Trong thơ, dấu ấn chủ
quan của tác giả thể hiện rất rõ nét, nói như Hàn Mặc Tử: “Người thơ phong
vận như thơ ấy”. Từ rất lâu, khoa nghiên cứu văn học đã khẳng định thể loại
thơ trữ tình: “vương quốc chủ quan” (Biêlinxki), là “sự biểu hiện và cảm thụ
của chủ thể” [45, 17], trong đó tính chủ quan vừa là nguyên tắc tiếp cận đời
sống vừa là nguyên tắc xây dựng thế giới nghệ thuật.
18
+
Khái niệm “chủ quan” như Lê Lưu Oanh quan niệm: “Là một khái
niệm triết học rất rộng có thể vận dụng vào rất nhiều lĩnh vực không chỉ ở thể
loại trữ tình. Do đó cần phải tìm đến một khái niệm mang nội dung xác định
bản chất thể loại hơn. Khái niệm đó là cái tôi trữ tình” [45, 25].
Khái niệm cái tôi trữ tình gắn với bài thơ trữ tình. Bài thơ trữ tình “là
một bài thơ, trong đó nhà thơ viết về những suy nghĩ và cảm xúc của mình,
trong đó nhà thơ cố gắng điều khiển và tổ chức các cảm xúc và ấn tượng của
mình” [1, 31].
Đã có nhiều người nói đến mối quan hệ giữa nhà thơ và cái tôi trữ tình
trong thơ. Từ những năm 70 của thế kỷ XX, khi mà vấn đề cái tôi trữ tình
được đặt ra như một đối tượng nghiên cứu ở một số chuyên luận về thơ, Hà
Minh Đức trong công trình Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại đã
dành một số chương nói về cái tôi trữ tình, đặt nó trong một cái nhìn hệ thống.
Trong công trình đó ông viết: “Trong thơ vấn đề chủ thể cái tôi trữ tình có
một ý nghĩa đặc biệt quan trọng” [14, 61].
Từ những điều trình bày trên đây, có thể rút ra một cách quan niệm về
cái tôi trữ tình. Nhà nghiên cứu phê bình văn học Vũ Tuấn Anh nêu lên quan
niệm: “Cái tôi trữ tình là sự thể hiện một cách nhận thức và cảm xúc đối với
thế giới và con người thông qua lăng kính cá nhân của chủ thể và thông qua
việc tổ chức các phương tiện của thơ trữ tình, tạo ra một thế giới tinh thần
riêng biệt độc đáo mang tính thẩm mĩ nhằm truyền đạt tinh thần ấy đến người
đọc” [1, 32].
Ý kiến trên đây như là sự tổng hợp các quan niệm về cái tôi trữ tình của
nhiều học giả quan tâm nghiên cứu vấn đề này. Như vậy, nói đến cái tôi trữ
tình là nói đến hai yếu tố. Yếu tố thứ nhất: cách nhìn, cách cảm thụ của tác
giả. Yếu tố thứ hai: tổ chức các yếu tố để tạo nên một văn bản trữ tình.
19
Do cái tôi trữ tình có những yếu tố đó cho nên người ta thường vận
dụng nó để nghiên cứu thể loại thơ trữ tình, để phát hiện ra những vấn đề cá
tính sáng tạo, phong cách nhà thơ, kiểu nhà thơ, tiến trình phát triển của văn
học.
1.1.2. Bản chất của cái tôi trữ tình
Để hiểu rõ hơn khái niệm cái tôi trữ tình, chúng ta cần phải đi sâu tìm
hiểu bản chất của nó. Cái tôi trữ tình là một khái niệm tổng hợp nhiều yếu tố,
có thể nêu lên đây các bản chất cơ bản của cái tôi trữ tình.
1.1.2.1. Bản chất chủ quan cá nhân
Điều mà Biêlinxki khẳng định thể loại thơ tình “là vương quốc chủ
quan” được thể hiện rõ ở bản chất này. Người làm thơ bao giờ cũng có nhu
cầu tự biểu hiện, giải bày tâm tư, tình cảm của riêng mình. Hiện thực cuộc
sống rất rộng lớn, nhưng quan tâm đến vấn đề gì, nhìn nhận nó như thế nào và
chọn lọc đưa nó vào trong tác phẩm theo một phương thức biểu hiện nào là do
nhà thơ thể hiện dựa trên sự trải nghiệm cuộc sống cùng với sự thôi thúc niềm
cảm hứng sáng tạo và tài năng thi nhân. Có chất liệu rồi đến lượt xây dựng
văn bản trữ tình, cũng có nhiều sự lựa chọn. Sự lựa chọn, cách thể hiện nào
cũng mang rõ nét cá tính sáng tạo của chủ thể. Do thơ trữ tình in đậm dấu vết
cá nhân nên những gì liên quan đến cuộc đời tác giả, từ tiểu sử đến tính cách
đều đóng một trò nhất định trong sáng tác. Chế Lan Viên, cuộc đời và sự
nghiệp sáng tác đã tạo nên được nét cá tính độc đáo. Cao Bá Quát đã từng nói:
“Xem người có thể biết được thơ”. Hàn Mặc Tử cũng khẳng định: “Người thơ
phong vận như thơ ấy”. Nghiệm vào đời và thơ Chế Lan Viên, ta cũng thấy rõ
toàn bộ sáng tác của ông vừa là tấm gương phản chiếu thời đại vừa là những
bức chân dung tự họa sinh động về con người ông từ thưở niên thiếu cho đến
những năm cuối đời.
20
Từ bản chất chủ quan cá nhân của cái tôi trữ tình, ta thấy cái tôi tác giả
và cái tôi trữ tình có mối quan hệ với nhau. Tiểu sử và những trải nghiệm
cuộc đời riêng là một bộ phận cấu thành nhân cách trữ tình. Cái tôi trữ tình,
trước hết là tính cách của bản thân người mang lời nói. Một Chế Lan Viên sắc
sảo nặng về suy tư triết lý nên những vần thơ ông viết ngay từ buổi đầu ở tuổi
thiếu niên đã thể hiện rõ khát khao tìm hiểu đời, tìm hiểu bản thân mình:
Ai bảo giùm ta có, có ta không?
Tuy cái tôi nhà thơ và cái tôi trữ tình có mối quan hệ gần gũi nhưng
chúng ta không nên đồng nhất nó. Từ thực tế những bài thơ được viết trong
những năm cuối đời, ta có thể suy luận giữa đời và thơ còn có một khoảng
cách. Chẳng hạn như Chế Lan Viên có bài Tháp Bayon bốn mặt:
Anh là tháp Bayon bốn mặt
Dấu đi ba còn lại đấy là anh
Chỉ mặt đó mà nghìn trò cười khóc
Làm đau ba mặt kia trong cõi ẩn hình
Không phải mọi suy nghĩ về cuộc đời được bộc bạch một cách đầy đủ
trong thơ. Sau 1975 đã có nhà thơ nói rõ điều này:
Đã có một thời nỗi đau ta phải giấu
Ta đánh mất ta trong mỗi con người
Trong thực tế, tiểu sử nhà thơ luôn ẩn hiện trong những vần thơ trữ
tình, nhưng tự thân nó không đủ làm nên cái tôi trữ tình. “Cái tôi trữ tình khác
về chất lượng với cái tôi nhà thơ. Đó là sự khác nhau giữa cuộc đời và nghệ
thuật, giữa chủ nghĩa tự nhiên và chủ nghĩa hiện thực, giữ nguyên mẫu và
điển hình, giữa gốc rễ và cành lá nảy nở sinh động” [1, 38].
Do yếu tố chủ quan cá nhân nên trong thơ trữ tình thường có hình thức
tự biểu hiện được xưng danh ở đại từ ngôi thứ nhất: Tôi, ta hoặc chúng tôi,
chúng ta:
- Xem thêm -