Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự từ thực tiễn thành phố ...

Tài liệu Luận văn quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự từ thực tiễn thành phố hà nội

.PDF
85
104
77

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI --------- VŨ LÊ THÀNH NAM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội, năm 2020 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI --------- VŨ LÊ THÀNH NAM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Ngành: Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự Mã số: 8380104 HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN HIỂN Hà Nội, năm 2020 LỜI CAM ĐOAN Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Văn Hiển. Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này hoàn toàn trung thực. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Học viên Vũ Lê Thành Nam MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ................................... 6 1.1 Một số vấn đề lý luận chung về quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự ............................................................................................... 6 1.2 Lịch sử hình thành và phát triển về quyền bào chữa của bị cáo trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam ........................................................ 13 1.3 Quyền bào chữa của bị cáo trong pháp luật tố tụng hình sự ở một số quốc gia trên thế giới............................................................................... 20 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ NHÌN TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI................................................................................................. 26 2.1 Thực trạng quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về quyền bào chữa của bị cáo ...................................................................... 26 2.2 Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền bào chữa của bị cáo trong thời gian qua trên địa bàn thành phố Hà Nội...... 39 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CÁO NHÌN TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ......................................................... 58 3.1 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự .............................................. 58 3.2 Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực tiễn áp dụng các quy định về quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội............................................................................................... 66 KẾT LUẬN CHUNG .................................................................................... 73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 75 DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT BCVND Bào chữa viên nhân dân BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự CQTHTT Cơ quan tiến hành tố tụng HĐXX Hội đồng xét xử HTND Hội thẩm nhân dân NBC Người bào chữa NTHTT Người tiến hành tố tụng KSV Kiểm sát viên TA Tòa án TBC Tự bào chữa TGVPL Trợ giúp viên pháp lý TGPL Trợ giúp pháp lý TP Thẩm phán TTHS Tố tụng hình sự VAHS Vụ án hình sự VKS Viện kiểm sát DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1: Bảng thống kê tình hình thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm trên phạm vi Thành phố Hà Nội các năm, từ năm 2015 đến năm 2019 ......... 39 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Bảo đảm quyền con người, quyền công dân luôn là một trong những mục tiêu hàng đầu của xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các nghị quyết của Đảng về tư pháp luôn luôn nhấn mạnh việc bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp, đặc biệt Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII đã đặt ra nhiệm vụ: “Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại; bảo vệ pháp luật, công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân”. Quán triệt quan điểm của Đảng, vấn đề bảo vệ quyền con người trong TTHS, nhất là bào chữa của bị cáo luôn được các nhà lập pháp quan tâm. Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ Chính trị Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” nhấn mạnh “Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng đảm bảo tính công khai, dân chủ, nghiêm minh nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá trong hoạt động tư pháp”. Hiến pháp 2013 cũng quy định cụ thể tại khoản 5 Điều 103 rằng “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Quyền bào chữa của bị cáo được thúc đẩy không chỉ đảm bảo tốt quyền và lợi ích chính đáng cho bị cáo mà còn có thể thúc đẩy tranh tụng tại phiên tòa hình sự được thực chất và hiệu quả, góp phần tạo đột phá trong trong hoạt động tư pháp. Ngày nay, quyền con người của bị cáo vẫn chưa thực sự được bảo đảm, vẫn còn những vụ án oan sai, những vi phạm quyền bào chữa ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo gây dư luận xấu đối với hoạt động tư pháp nói chung và cho hoạt động TTHS nói riêng. Nguyên nhân một phần xuất phát từ chính việc chưa đảm bảo quyền bào chữa cho bị cáo. Cụ thể, như sự yếu kém về kiến thức, hiểu biết pháp luật của BC; giáo dục pháp luật, quyền được thông tin pháp luật chưa được chú trọng; thủ tục nhờ NBC còn có những bất cập; tranh tụng tại phiên tòa chưa được bảo đảm... 1 Vì vậy, việc lựa chọn nghiên cứu đề tài về “Quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội” là rất cần thiết nhằm góp phần làm rõ thêm về mặt lý luận cũng như các quy định của pháp luật về quyền bào chữa của bị cáo, nâng cao chất lượng tranh tụng trong xét xử, hướng tới xây dựng một nền tư pháp hiện đại, trong sạch, vững mạnh. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Tính cho đến thời điểm nghiên cứu có thể chia các công trình nghiên cứu về quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự thành hai nhóm lớn sau: Thứ nhất, Về tài liệu nghiên cứu là luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, đề tài nghiên cứu khoa học gồm có công trình: Luận án tiến sĩ luật học “Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Hoàng Thị Sơn, năm 2003; “Nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo” của tác giả Bùi Bảo Trâm, năm 2008; Luận văn thạc sĩ “Quyền con người và vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo ở Việt Nam” của tác giả Đỗ Thị Hường, năm 2011; “Bảo vệ quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam” của TS Lại Văn Trình, năm 2011... Thứ hai, Về tài liệu nghiên cứu là bài viết tạp chí gồm có: “Những hạn chế trong việc thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo ” của tác giả Hoàng Thị Minh Sơn, đăng trên tạp chí luật học năm 2008; “Quyền bào chữa của người bị buộc tội theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015” của tác giả Tôn Thiện Phương đăng trên tạp chí Kiểm sát, năm 2016; “Đảm bảo quyền bào chữa theo quy định của Hiến pháp 2013 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015” của tác giả Hà Thái Thơ và Huỳnh Xuân Tình đăng trên tạp chí Lý luận chính trị, năm 2016; “Đảm bảo quyền bào chữa của pháp nhân bị buộc tội” của tác giả Đỗ Tiến Dũng đăng trên Tạp chí Khoa học kiểm sát, năm 2017; “Điều 79 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 dưới góc nhìn của luật sư bào chữa” của tác giả Nguyễn Thanh Long đăng trên tạp chí Khoa học kiểm sát, năm 2017… và một số công trình nghiên cứu khác. Các công trình, bài viết đã nghiên cứu về vấn đề quyền bào chữa của bị cáo ở nhiều góc độ khác nhau. Các công trình, bài viết đã nghiên cứu về vấn đề quyền tự bào chữa của bị cáo ở nhiều góc độ khác nhau. Các nghiên cứu này bước đầu đề cập đến một số nội 2 dung của quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự của bị ở những khía cạnh cụ thể. Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng các nghiên cứu kể trên còn có những hạn chế nhất định ở tính hệ thống, tính toàn diện. Có rất ít các công trình nghiên cứu chuyên sâu về quyền bào chữa của bị cáo. Hơn nữa, nhiều công trình đã nghiên cứu và được công bố từ khá lâu, chưa cập nhật được những quy định mới về quyền bào chữa trong bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Mục đích nghiên cứu của đề tài Thứ nhất, bổ sung, phát triển lý thuyết về quyền bào chữa của bị cáo trong TTHS Việt Nam. Thứ hai, làm rõ mối liên hệ giữa các yếu tố tạo nên tính đặc thù của quyền bào chữa của bị cáo gắn với giai đoạn xét xử, hoạt động tranh tụng tại phiên tòa nhằm hình thành, phát triển quyền bào chữa đối tượng này cũng như cơ chế đảm bảo thực thi quyền. Thứ ba, đưa ra một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự cũng như bảo đảm thực hiện có hiệu quả bào chữa của BC trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Để đạt được mục đích trên nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài xác định như sau: Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận về quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự như: Khái niệm, ý nghĩa, lịch sử hình thành và phát triển của quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam; nghiên cứu các chế định về quyền bào chữa của trong pháp luật tố tụng hình sự ở một số quốc gia trên thế giới… Thứ hai, nghiên cứu và phân tích, đánh giá các quy định về quyền bào chữa của bị cáo trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Thứ ba, đánh giá, phân tích thực tiễn áp dụng về quyền bào chữa của bị cáo trong thời gian qua trên địa bàn thành phố Hà Nội để làm rõ những mặt hạn chế trong thực tiễn áp dụng; chỉ ra nguyên nhân của mặt hạn chế về thực tiễn áp dụng quyền bào chữa của bị cáo trong việc giải quyết vụ án hình sự; đề xuất một số kiến 3 nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định về quyền bào chữa của bị cáo trong trong tố tụng hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu là quyền bào chữa của bị cáo được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội. 4.2 Phạm vi nghiên cứu của đề tài Về mặt thời gian: Nghiên cứu văn bản pháp luật và một số công trình khoa học liên quan đến sự hình thành và phát triển của quyền bào chữa của bị cáo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam thời gian qua, đặc biệt kể từ khi quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành. Về mặt không gian: Trọng tâm nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội, thủ đô có mật độ dân số lớn nhất cả nước. Có sự tìm hiểu chế định về quyền bào chữa của bị cáo trong pháp luật tố tụng hình sự ở một số quốc gia trên thế giới. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong Triết học Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về nhà nước và pháp luật; quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và nhà nước về chiến lược xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Đề tài nghiên cứu sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích, so sánh để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quyền bào chữa của bị cáo như khái niệm, ý nghĩa của quyền bào chữa của bị cáo trong việc giải quyết các vụ án hình sự; lịch sử hình thành và phát triển của quyền bào chữa của bị cáo trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Các quy định về quyền bào chữa của bị cáo trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cũng như quy định về quyền bào chữa của bị cáo trong pháp luật tố tụng hình sự ở một số quốc gia trên thế giới. Thêm vào đó công trình còn sử dụng phương pháp tổng hợp, thống kê để làm sáng tỏ những vấn đề về thực tiễn áp dụng của quyền bào chữa của bị cáo trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự. 4 6. Những đóng góp mới của đề tài. Đề tài với những phân tích sâu sắc các vấn đề lý luận, nội dung quy định của pháp luật về quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam, đặc biệt là những điểm mới trong BLTTHS 2015 và phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền bào chữa của bị cáo trên địa bàn thành phố Hà Nội từ đó có những kiến nghị hoàn thiện pháp luật. Chính vì vậy, đề tài sẽ đóng góp cho các nhà lập pháp những kiến nghị cụ thể để tiếp tục hoàn thiện BLTTHS năm 2015 cũng như ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành để việc áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội được thống nhất. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài gồm 03 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và lịch sử quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự Chương 2: Thực trạng quy định của pháp luật và áp dụng các quy định pháp luật về quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự nhìn từ thực tiễn thành phố Hà Nội. Chương 3: Một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực tiễn áp dụng các quy định về quyền bào chữa của bị cáo nhìn từ thực tiễn Thành phố Hà Nội. 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1 Một số vấn đề lý luận chung về quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự 1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự Quyền con người là một trong những thành tựu vĩ đại của nhân loại, có giá trị và ý nghĩa to lớn đối với tất cả mọi người trên thế giới. Quyền con người được ghi nhận ở hầu hết các văn bản pháp lý quốc tế như: Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (năm 1966); Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (năm 1966); Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (năm 1948)... Quyền con người không hoàn toàn tuyệt đối đối với mỗi con người cụ thể, nó có thể bị giới hạn theo quy định của luật pháp nhằm đảm bảo quyền con người của mọi người, giá trị đạo đức, lợi ích chung của cộng đồng, xã hội. Một trong những quyền con người cơ bản là quyền tự bảo vệ mình trước bất kỳ sự xâm phạm nào. Khẳng định con người có thể phòng ngừa, ngăn chặn hay chống lại bất kỳ hành vi nào xâm phạm tới họ trong khuôn khổ pháp luật. Pháp luật Việt Nam thừa nhận và tôn trọng các quyền con người của mọi người dân. Điều 14 Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 khẳng định: “Ở nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Và Hiến pháp cũng quy định rõ: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng”. TTHS dưới góc độ một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật quốc gia đã cụ thể hóa các quy định về quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013 nhằm bảo đảm thực hiện quyền con người trong TTHS. TTHS là quá trình áp dụng pháp luật hình sự. [52, tr18] Quá trình áp dụng đó là việc thông qua 6 cưỡng chế để bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích xã hội và phòng chống tội phạm. Có thể hiểu TTHS là quá trình thực hiện các quy định mang tính chất hình thức, trình tự, thủ tục bắt buộc trên cơ sở pháp luật hình sự nhằm xác định một hành vi nào đó có phải tội phạm hay không, xác định cá nhân, pháp nhân không có tội hay có tội. Người bị tình nghi phạm tội hay người bị buộc tội là một bên trong mối quan hệ với bên buộc tội là đại diện các Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, có nghĩa vụ chứng minh hành vi phạm tội của người bị tình nghi, người bị buộc tội. Các Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bằng kiến thức pháp luật, chuyên môn được giao nhiệm vụ buộc tội, chứng minh việc buộc tội của mình là chính xác nhằm đấu tranh phòng chống tội phạm. Tuy nhiên người bị tình nghi, người bị buộc tội chưa thể bị coi là có tội khi chưa có bản án có hiệu lực pháp luật của TA. “Để chống lại xu hướng áp đặt của các Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, pháp luật đã dành cho người bị buộc tội quyền tự bảo vệ mình, phản bác sự buộc tội, chứng minh mình vô tội trước các cáo buộc của các Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, đó chính là quyền bào chữa”[59, tr.7]. Hiện nay, quyền bào chữa được hiểu bao gồm hai quyền là quyền TBC và quyền nhờ người khác bào chữa. Cũng chưa có một khái niệm pháp lý nào về “quyền TBC và nhờ NBC” của người bị buộc tội nói chung và của BC nói riêng trong TTHS. Việc đưa ra khái niệm quyền TBC và nhờ NBC của người bị buộc tội nói chung và của BC nói riêng trong TTHS là cần thiết nhằm hiểu rõ khái niệm này trong xây dựng pháp luật và trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Trong nghiên cứu lý luận, các nhà nghiên cứu đã đưa ra một số quan điểm về khái niệm quyền bào chữa trong TTHS nhưng vẫn chưa có sự thống nhất và còn nhiều tranh luận. Quan điểm thứ nhất ủng hộ theo quan điểm của nhà luật học Xô viết Stragovic M.S cho rằng: “Quyền bào chữa là tổng hoà các hành vi tố tụng hướng tới việc bác bỏ sự buộc tội và xác định bị can (bị cáo) không có lỗi hoặc nhằm làm giảm trách nhiệm của bị can (bị cáo)” và “Quyền bào chữa của bị can (bị cáo) là tất cả các quyền năng tố tụng mà pháp luật quy định cho bị can (bị cáo) để bảo vệ khỏi mọi sự buộc tội và được bị can (bị cáo) sử dụng để bác bỏ sự buộc tội, để đưa 7 ra các lý lẽ và chứng cứ trong việc biện minh hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm của mình”. [50, tr.196] Quan điểm thứ hai cho rằng, quyền bào chữa được hiểu rộng hơn, nó không chỉ dừng lại ở việc bác bỏ sự buộc tội và xác định bị can không có lỗi hay làm giảm trách nhiệm của bị can mà nó còn được thể hiện trong cả việc đảm bảo các quyền và lợi ích được pháp luật bảo vệ của bị can kể cả khi chúng không trực tiếp liên quan tới việc làm giảm trách nhiệm của bị can trong vụ án. [18, tr.5] Quan điểm thứ ba cho rằng, quyền bào chữa còn thuộc về người bị tình nghi phạm tội, người bị kết án, bị hại, bị đơn dân sự, nguyên đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ hay NBC, giám định viên, nhân chứng... nếu quyền và lợi ích của họ bị xâm phạm. Quan điểm thứ tư theo PGS.TS Phạm Hồng Hải cho rằng: “Quyền bào chữa trong BLTTHS là tổng hoà các hành vi tố tụng do người bị tạm giữ, bị can, BC, người bị kết án thực hiện trên cơ sở phù hợp với quy định của pháp luật nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội của Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự của mình trong VAHS”. [26, tr.34] Quan điểm thứ năm cho rằng: “Quyền bào chữa của bị can, BC là tổng thể các quyền mà pháp luật quy định bị can, BC có thể sử dụng nhằm bác bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho họ.” [18, tr.5] Quan điểm thứ sáu cho rằng: “Quyền bào chữa là quyền của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử dùng để bảo vệ trước các chủ thể tiến hành tố tụng từ thời điểm bị buộc tội đến khi có quyết định của Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng về việc có tội hay không có tội.” [59, tr.7] Quan điểm thứ bảy cho rằng: “Quyền bào chữa của người bị buộc tội trong TTHS là quyền của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, BC thực hiện trên cơ sở phù hợp với quy định của pháp luật nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội của Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự trong VAHS hoặc để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình.”[60, tr.10] 8 Quan điểm thứ tám dựa trên cơ sở BLTTHS năm 2015 hiện hành thì không chỉ có người bị tạm giữ, bị can, BC có quyền tự mình bào chữa và nhờ NBC mà còn mở rộng quyền cho cả người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt. Như vậy, khái niệm quyền bào chữa trong TTHS đã được hiểu rất khác nhau. Tuy nhiên, nếu cho rằng quyền bào chữa chỉ thuộc về bị can, BC như quan điểm thứ nhất, thứ hai và thứ năm thì rất hẹp, không đảm bảo được đầy đủ quyền TBC và NBC cho người bị buộc tội trong thời gian họ bị bắt, bị tạm giữ. Nếu cho rằng quyền bào chữa còn thuộc về người bị tình nghi phạm tội, người bị kết án, người bị hại,... như quan điểm thứ ba, thứ tư thì rất rộng và không hợp lý, vì: Thứ nhất, nội dung của quyền bào chữa là quyền chứng minh sự vô tội hoặc phạm tội nhẹ hơn, do đó, quyền này chỉ thuộc về người bị buộc tội. Thứ hai, người bị hại, nguyên đơn dân sự… là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần hoặc vật chất, họ không bị Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng buộc tội, do đó, quyền bào chữa không thuộc về họ. Họ chỉ có quyền khai báo những gì họ biết về hành vi phạm tội (buộc tội) và chứng minh những thiệt hại liên quan đế họ do hành vi phạm tội gây ra, vì vậy, quyền TBC và nhờ NBC luật TTHS không đặt ra đối với các chủ thể này. Thứ ba, người bị kết án là người đã được TA tuyên bố là có tội bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật. Tôi cho rằng, về cơ bản, quyền TBC và nhờ NBC thì luật TTHS cũng không đặt ra đối với người bị kết án, trừ trường hợp đặc biệt và chỉ trong trường hợp cần thiết khi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm là thủ tục đặc biệt, là thủ tục TA xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật chứ không phải là một cấp xét xử. Tuy nhiên, để bảo đảm cho HĐXX ra quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm một cách đúng đắn, khoản 2 Điều 383 BLTTHS năm 2015 quy định “Trường hợp xét thấy cần thiết hoặc có căn cứ sửa một phần bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, TA phải triệu tập người bị kết án, NBC … tham gia phiên tòa giám đốc thẩm”. Như vậy, ở thủ tục đặc biệt này, quyền TBC 9 và nhờ NBC của người bị kết án chỉ được đặt ra trong trường hợp cần thiết và nếu họ được TA triệu tập. Về nội dung của quyền TBC và nhờ NBC bao gồm cả việc bảo vệ các quyền và lợi ích khác của đối tượng hưởng quyền không trực tiếp liên quan tới việc bác bỏ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho họ trong vụ án theo quan điểm thứ hai, thứ sáu và thứ bảy là chưa phù hợp. Bởi với định hướng tôn trọng, bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội trong TTHS nên các hoạt động tố tụng luôn mang những yếu tố bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp nói chung cho người bị buộc tội. Quy định quyền TBC và nhờ NBC cũng có ý nghĩa như vậy, việc quy định quyền TBC, quyền nhờ NBC đã bao gồm nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội nên việc giới hạn việc bảo đảm quyền và lợi ích khác không trực tiếp liên quan tới việc bác bỏ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là không cần thiết. Về thuật ngữ “quyền bào chữa” và thuật ngữ “quyền TBC và nhờ NBC”. Quyền bào chữa vẫn thường được hiểu dưới hai khía cạnh là quyền TBC và quyền nhờ NBC của chủ thể hưởng quyền. Về cơ bản có thể nhận định hai thuật trên tương đương nhau, tuy nhiên chúng tôi cho rằng nên sử dụng thuật ngữ “quyền TBC và nhờ NBC”. Thuật ngữ này cho thấy cái nhìn vừa khái quát vừa cụ thể hơn so với thuật ngữ “quyền bào chữa”, nhấn mạnh tính chủ động của đối tượng hưởng quyền bởi trước hết họ có quyền tự mình đưa ra các chứng cứ, chứng minh mình vô tội, phản bác các lập luận buộc tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cùng với đó họ có thể nhờ người khác bào chữa cho mình theo qui định pháp luật. Quyền TBC và nhờ NBC không phải hai quyền riêng biệt mà chúng có sự thống nhất, bổ sung cho nhau nhằm mục đích chung là bào chữa để phản bác sự buộc tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Bên cạnh đó quyền TBC và quyền nhờ NBC cũng có những điểm khác biệt nhất định cần phân biệt để có thể áp dụng một cách linh hoạt vào thực tiễn. Như vậy, quyền tự bào chữa và nhờ người bào chữa của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can nói chung và bị cáo nói riêng là các quyền mà pháp luật quy định cho người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể sử dụng nhằm chứng minh sự vô tội, bác bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. 10 Có thể nhận thấy các nghiên cứu về quyền TBC và nhờ NBC chủ yếu theo hướng khái quát về chủ thể, ví dụ như quyền bào chữa của người bị buộc tội; quyền bào chữa của bị can, BC; quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, BC... Hoặc các nghiên cứu theo hướng nguyên tắc quyền bào chữa, nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc tranh tụng... Như vậy, có thể nhận thấy rất ít các nghiên cứu về quyền TBC và nhờ NBC theo làm rõ giá trị quyền con người mà chưa chú trọng đến nghiên cứu qui phạm pháp luật về quyền TBC và nhờ NBC. Hoặc các nghiên cứu dưới dạng tìm hiểu các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS, ví dụ từng chủ thể cụ thể như người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can hoặc BC trong khi việc nghiên cứu này có những ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với mỗi thời điểm, giai đoạn giải quyết VAHS. Quyền TBC và nhờ NBC là vô cùng cần thiết khi BC bước vào giai đoạn xét xử VAHS, việc đưa ra lời khai, chứng cứ, chứng minh sự vô tội, phản bác lại các lập luật buộc tội của bên buộc tội trước HĐXX... giúp BC có thể tránh phải chịu tội oan, sai. Bị cáo là cá nhân hoặc pháp nhân đã bị TA có quyết định đưa ra xét xử. Sau khi nhận hồ sơ và quyết định truy tố (bản Cáo trạng) của Cơ quan công tố, TA xem xét thấy rằng đủ điều kiện đưa vụ án ra xét xử mà không phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung, không có căn cứ tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án thì TA ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Từ thời điểm này bị can trở thành BC trong TTHS. Về bản chất người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, BC là một người nhưng ở mỗi thời điểm, giai đoạn tố tụng khác nhau mà có tên gọi khác nhau. Có thể thấy bị cáo gắn với giai đoạn xét xử VAHS, giai đoạn vô cùng quan trọng với hoạt động tranh tụng tại phiên tòa và hoạt động xét xử, đưa ra phán quyết của TA trong việc giải quyết VAHS. Quyền TBC và nhờ NBC trong giai đoạn này có ảnh hưởng và ý nghĩa to lớn trong việc bác bỏ sự buộc tội của Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thẩm quyền, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho chính BC. Đặc điểm để phân biệt quyền bào chữa của bị cáo khác với quyền bào chữa của người bị buộc tội, quyền bào chữa của bị can. Theo đó bị cáo là cá nhân hoặc pháp nhân đã bị TA có quyết định đưa ra xét xử. Sau khi nhận hồ sơ và quyết định truy tố (bản Cáo trạng) của Cơ quan công tố, TA xem xét thấy rằng đủ điều kiện 11 đưa vụ án ra xét xử mà không phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung, không có căn cứ tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án thì TA ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Từ thời điểm này bị can trở thành BC trong TTHS. Về bản chất người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, BC là một người nhưng ở mỗi thời điểm, giai đoạn tố tụng khác nhau mà có tên gọi khác nhau. Có thể thấy bị cáo gắn với giai đoạn xét xử VAHS, giai đoạn vô cùng quan trọng với hoạt động tranh tụng tại phiên tòa và hoạt động xét xử, đưa ra phán quyết của TA trong việc giải quyết VAHS. Quyền TBC và nhờ NBC trong giai đoạn này có ảnh hưởng và ý nghĩa to lớn trong việc bác bỏ sự buộc tội của Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thẩm quyền, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho chính BC. Có thể đưa ra khái niệm quyền TBC và nhờ NBC của BC như sau: Quyền tự bào chữa và nhờ người bào chữa của bị cáo là các quyền mà pháp luật quy định bị cáo có thể sử dụng trong giai đoạn xét xử nhằm chứng minh sự vô tội, bác bỏ một phần hoặc toàn bộ sự buộc tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự 1.1.2 Ý nghĩa của quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự Quyền TBC và nhờ NBC của Bị cáo trong TTHS có một số ý nghĩa sau đây: Thứ nhất, việc quy định quyền TBC và nhờ NBC thể hiện sự tôn trọng, công nhận quyền con người cơ bản, đảm bảo nhân quyền cho người bị buộc tội nói chung và BC nói riêng. Vấn đề nhân quyền luôn là điểm nóng của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Vấn đề lợi dụng dân chủ, nhân quyền nhằm chống phá, gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ của một quốc gia là không thể chấp nhận. Theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013, Nhà nước ta công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền con người cơ bản theo Hiến pháp và pháp luật đồng thời quy định quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng. Thứ hai, việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền TBC và nhờ NBC của bị cáo thể hiện tính nhân đạo Xã hội chủ nghĩa trong TTHS. Cơ quan, Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm tạo điều kiện và không được hạn chế quyền TBC và nhờ NBC của chủ thể hưởng quyền. Ngoài ra trong trường 12 hợp nhất định như không có khả năng TBC, người dưới 18 tuổi, người bị xét xử về tội phạm có mức hình phạt cao... thì Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định NBC cho người bị buộc tội. Thứ ba, bảo đảm quyền TBC và nhờ NBC thể hiện tính dân chủ xã hội chủ nghĩa trong TTHS. Xuyên suốt quá trình từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, quyền TBC và nhờ NBC của người bị buộc tội được bảo đảm. Người bị buộc tội, NBC cho người bị buộc tội có các quyền cơ bản như thu thập chứng cứ, trình bày quan điểm, ý kiến, tranh luận... Đặc biệt tại phiên tòa công khai, bình đẳng, tranh tụng, có đầy đủ các bên tham gia tố tụng và tiến hành tố tụng thì BC và NBC của BC càng có điều kiện thuận lợi để thực hiện quyền của mình. Thứ tư, bảo đảm quyền TBC và nhờ NBC của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, BC góp phần tích cực vào việc bảo vệ pháp luật, củng cố lòng tin của quần chúng nhân dân vào hoạt động của hệ thống tư pháp. Ngoài ra việc bảo đảm quyền TBC và nhờ NBC còn góp phần vào việc xác định sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm trong quá trình tố tụng không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo đảm khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật 1.2 Lịch sử hình thành và phát triển về quyền bào chữa của bị cáo trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam 1.2.1 Quyền bào chữa của bị cáo từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi BLTTHS năm 1988 có hiệu lực thi hành. Từ khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ được thành lập, nhiệm vụ chính của thời kỳ này là chống thù trong giặc ngoài, xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, đấu tranh giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Về quyền TBC và nhờ NBC chưa được quan tâm đúng mức, kể cả từ phía bản thân người bị buộc tội, của BC nói riêng lẫn từ phía các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đồng thời nghề bào chữa cũng chưa phát triển, số lượng LS từ thời Pháp thuộc là rất hạn chế và ít được sử dụng. 13 Mặc dù có rất nhiều khó khăn nhưng việc đảm bảo quyền bào chữa trong TTHS vẫn được phát triển theo hướng dân chủ. Quyền bào chữa của BC đã ngày càng hoàn thiện, đảm bảo được tính nhân đạo của pháp luật nước ta. Vụ án Tạ Đình Đề là một trong những vụ án điển hình về thực trạng áp dụng quyền nhờ người bào chữa trong giai đoạn này khi ông là người 2 lần vướng vào vòng lao lý. Quá trình giải quyết vụ án đã để lại nhiều bài học sâu sắc cho nền tư pháp nước ta, đặc biệt là ở vụ án thứ nhất. Trong vụ án này, Tạ Đình Đề phạm vào tội cố ý làm trái chế độ và tội hối lộ. Tại Cơ quan điều tra, định kiến trong khi điều tra là một phần lý do dẫn đến oan trái cho ông. Nội dung vụ việc là: Trước tình hình nhiều công nhân trong đơn vị không mặn mà với công việc được giao khiến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm rất thấp. Sau nhiều đêm trằn trọc suy nghĩ, ông Đề đã đưa ra sáng kiến áp dụng hình thức khoán sản phẩm, khoán công việc đến từng tổ sản xuất, từng người công nhân và được công nhân viên nhất trí. Sau đó, ông Đề chi thưởng cho người nào có sáng kiến, cải tiến, chi mua kỹ thuật, chi tiếp khách, chi bồi dưỡng và chi thưởng cho mỗi cán bộ, công nhân viên của xưởng dụng cụ cao su, mỗi người 1/2 tháng lương hết 10.000 đồng. Ông nói về việc mình từng khai nhận: “tôi không chuẩn bị gì đâu. Sự thật diễn ra trong thực tế ra sao thì khai báo đúng thế”. Thế nhưng tại Cơ quan điều tra, mỗi lần ông Đề đưa ra các chứng cứ để bảo vệ quan điểm của mình thì sự buộc tội của Cơ quan điều tra lại càng gay gắt hơn. Khi vụ án chuyển sang cơ quan truy tố, Tạ Đình Đề đặt niềm tin rất lớn vào cơ quan giám sát pháp luật, thành khẩn khai báo. Tuy nhiên, khi đọc bản cáo trạng, ông Đề đã bị choáng váng về những quy kết mà ông cho là suy diễn. Cơ quan truy tố quyết định việc Tạ Đình Đề bị đưa ra TA sơ thẩm với bản cáo trạng: “thấy việc gì có lợi cho đơn vị mình phụ trách thì bất kể là móc ngoặc, xin nhượng, mua bán đổi chác…là tiến hành. Thấy mặt hàng gì có khả năng tổ chức sản xuất thì tung tiền ra mua kỹ thuật về sản xuất”. Theo quy định của pháp luật, “Cán bộ tư pháp phải tự kiểm nghiệm, đảm bảo cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử phải công khai, minh bạch, dân chủ, công tâm, khách quan; vừa đấu tranh kiên quyết, kịp thời với các loại tội phạm, vừa không được làm oan cho bất cứ người nào, thực hiện có hiệu quả Chiến lược Cải cách tư pháp trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan