Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn quản lý nhà nước về tôn giáo từ thực tiễn quận hai bà trưng,...

Tài liệu Luận văn quản lý nhà nước về tôn giáo từ thực tiễn quận hai bà trưng, thành phố hà nội

.PDF
97
170
111

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ KIM OANH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÔN GIÁO TỪ THỰC TIỄN QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH HÀ NỘI, 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ KIM OANH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÔN GIÁO TỪ THỰC TIỄN QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số : 8.38.01.02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS PHẠM TUẤN ANH HÀ NỘI, 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn: “Quản lý nhà nước về tôn giáo từ thực tiễn quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tài liệu, số liệu sử dụng trong luận văn là trung thực, chính xác và có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình khoa học nào. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Kim Oanh MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ 9 NƯỚC VỀ TÔN GIÁO 1.1. Khái niệm, vai trò và nguyên tắc của quản lý nhà nước về 9 tôn giáo 1.2. Mục tiêu, chủ thể, khách thể và nội dung quản lý nhà nước 17 về tôn giáo Chương 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÔN 30 GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY 2.1. Khái quát về vị trí địa lý, tình hình kinh tế - xã hội và tôn 30 giáo trên địa bàn quận Hai Bà Trưng 2.2. Thực tiễn quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn quận 43 Hai Bà Trưng và những vấn đề đặt ra 2.3. Đánh giá chung Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU 54 61 QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI 3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về tôn 61 giáo trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội 3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về 64 tôn giáo trên địa bàn quận Hai Bà trưng, thành phố Hà Nội trong thời gian tới KẾT LUẬN 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 79 PHỤ LỤC 86 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Nghĩa đầy đủ BCHTW Ban Chấp hành Trung ương CTTG Công tác tôn giáo CSVN Cộng sản Việt Nam GHPGVN Giáo hội Phật Giáo Việt Nam HĐND Hội đồng nhân dân MTTQ Mặt trận Tổ quốc QLNN Quản lý nhà nước TTCP Thủ tướng Chính phủ UBND Ủy ban nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 1.1 Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước đối với hoạt động 20 tôn giáo MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tôn giáo là một thực thể xã hội xuất hiện sớm trong lịch sử loài người, có nguồn gốc hình thành, phát triển và ảnh hưởng đến đời sống chính trị, văn hoá, xã hội khác nhau trong mỗi quốc gia và trên toàn thế giới. Tự do tôn giáo là một trong những quyền tự nhiên của con người và phải được pháp luật bảo vệ, đồng thời đó cũng là một mặt của giá trị dân chủ trên thế giới hiện nay. Tín ngưỡng, tôn giáo là một nhu cầu tinh thần của nhân dân, nhưng tôn giáo với tư cách là một thực thể xã hội, là một lĩnh vực của đời sống xã hội thì tôn giáo cũng phải được Nhà nước quản lý như quản lý các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Quản lý nhà nước (QLNN) về tôn giáo là một yêu cầu khách quan, cần thiết, bởi chỉ có được quản lý thì hoạt động tôn giáo mới thực sự diễn ra bình thường, quan hệ giữa các tôn giáo, giữa các tín đồ mới thực sự bình đẳng, quyền tự do theo hoặc không theo tôn giáo nào của công dân mới được đảm bảo và tôn giáo không bị lợi dụng để nhằm mục đích chính trị hay ý đồ xấu. Việt Nam là đất nước có nhiều tôn giáo, đa dạng về tổ chức, khác nhau về số lượng, có nguồn gốc phát sinh, du nhập, phát triển và ảnh hưởng khác nhau trong đời sống chính trị, văn hoá, xã hội. Kể từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời (tháng 8/1945) đến nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo luôn được thực hiện nhất quán đó là: đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; mọi tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, các hành vi lợi dụng tôn giáo vào mục đích chính trị gây mất an ninh, trật tự và chủ quyền quốc gia đều bị nghiêm trị. Điều này được thể hiện rõ trong các văn kiện của Đảng và các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992, 2013. QLNN về tôn giáo luôn giữ vai trò quan trọng trong thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước; góp phần củng cố, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc; giữ vững an ninh - quốc phòng; phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao dân trí cho nhân dân, trong đó có tín đồ các tôn giáo; phát huy dân chủ, tiếp thu những nhu cầu, nguyện vọng 1 chính đáng của chức sắc, tín đồ các tôn giáo để đề ra những chủ trương, chính sách phù hợp với tình hình thực tế, góp phần tạo ra sự ổn định chính trị xã hội, phát huy tinh thần đoàn kết trong nhân dân. QLNN về tôn giáo khuyến khích chức sắc, tín đồ các tôn giáo tham gia các hoạt động từ thiện xã hội có lợi cho sự phát triển đất nước, phù hợp với pháp luật và đạo lý. Đồng thời, ngăn chặn được những hoạt động lợi dụng công việc từ thiện nhân đạo để tiến hành hoạt động tôn giáo trái pháp luật. QLNN về tôn giáo giúp tạo ra tinh thần phấn khởi, tin tưởng vào chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Quận Hai Bà Trưng nằm ở phía đông nam thành phố Hà Nội, là quận trung tâm của thành phố. Với vị trí địa lý quan trọng và đặc điểm dân cư đông, nhiều thành phần, công tác QLNN tại quận Hai Bà Trưng luôn được quan tâm; đặc biệt là QLNN đối với hoạt động tôn giáo. Số lượng các tôn giáo hoạt động trên địa bàn quận Hai Bà Trưng tương đối đa dạng nhưng quy mô các tôn giáo không giống nhau, trong đó Phật giáo và Công giáo là hai tôn giáo có số lượng tín đồ đông nhất. Hoạt động của các tín đồ, chức sắc trên địa bàn quận Hai Bà Trưng về cơ bản chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; tích cực tham gia các hoạt động xã hội, ủng hộ các phong trào của địa phương. Tuy nhiên, bên cạnh những tôn giáo được Nhà nước công nhận, tuân thủ pháp luật; trên địa bàn Quận vẫn có tôn giáo hoạt động trái phép; việc xây dựng, sửa chữa các cơ sở thờ tự vẫn còn vi phạm,... Do đó, QLNN đối với hoạt động tôn giáo là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Quận. Từ những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài “Quản lý nhà nước về tôn giáo từ thực tiễn quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Luật học, chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. Đây là vấn đề có tính cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài QLNN là chức năng cơ bản của Nhà nước được thể hiện trên nhiều phương diện như kinh tế, văn hóa, xã hội,... Đảng và Nhà nước ta nhận định: tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài; tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ 2 phận nhân dân. Với vai trò và sự ảnh hưởng đa chiều, tôn giáo và vấn đề QLNN đối với các hoạt động tôn giáo trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khoa học và được đề cập trong các công trình khoa học khác nhau. Tác giả tổng quan tình hình nghiên cứu theo các vấn đề sau: 2.1. Nhóm công trình nghiên cứu về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo nói chung Cuốn sách “Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trong điều kiện xây dựng Nhà nước dân chủ, pháp quyền Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Hữu Khiển [52], đã làm rõ ưu điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo; sự ra đời, vận động và phát triển của tôn giáo, các yếu tố cấu thành của tôn giáo; tình hình tôn giáo ở Việt Nam; Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) về công tác tôn giáo và những nguyên tắc trong QLNN đối với những hoạt động tôn giáo. Cuốn sách “Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam” của tác giả Đặng Nghiêm Vạn [82], cung cấp những kiến thức căn bản và quan trọng về lý luận tôn giáo học mác - xít đồng thời người đọc có thể nhìn nhận được khái quát thực trạng một số tôn giáo ở Việt Nam. Tác phẩm “Quản lý xã hội về tôn giáo” của tác giả Hoàng Quốc Bảo [17], đã phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng về quản lý tôn giáo. Giới thiệu một số tôn giáo ở Việt Nam như đạo Phật, đạo Công Giáo, đạo Tin Lành, đạo Hồi, đạo Cao Đài, đạo Hoà Hảo. Các nguyên tắc và phương pháp quản lý xã hội về tôn giáo. Tổ chức và nội dung quản lý xã hội về tôn giáo. Đề tài cấp Bộ “Quản lý Nhà nước về tôn giáo ở các tỉnh Tây Nguyên” của tác giả Ngô Văn Minh [57], đã làm rõ một số vấn đề về lý luận QLNN đối với hoạt động tôn giáo trong thời kỳ đổi mới ở nước ta. Khảo sát hoạt động tôn giáo và công tác QLNN về tôn giáo tại các tỉnh Tây Nguyên từ tháng 6/2004 đến tháng 6/2009. Qua đó, đề xuất một số giải pháp cơ bản để tăng cường công tác QLNN về tôn giáo tại Tây Nguyên. Đề tài đã góp phần vào việc tổng kết thực 3 tiễn 5 năm thực hiện Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo tại một khu vực có tính đặc thù về vấn đề tôn giáo - dân tộc là Tây Nguyên. Cuốn sách “Quan điểm đường lối của Đảng về tôn giáo và những vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Hồng Dương [31], đã phân tích những quan điểm, đường lối của Đảng về tôn giáo; phác họa nên bức tranh tôn giáo ở Việt Nam hiện nay đồng thời phân tích kinh nghiệm giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam từ cái nhìn đối sánh với một số nước như so sánh kinh nghiệm giải quyết vấn đề tôn giáo của Trung Quốc, Thái Lan và Singapore. Trên cơ sở đó, tác giả phân tích những vấn đề đặt ra và đề xuất một số khuyến nghị đối với công tác tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. Cuốn sách “Tiếp tục đổi mới chính sách về tôn giáo ở Việt Nam hiện nay Những vấn đề lý luận cơ bản” của tác giả Nguyễn Hồng Dương (Chủ biên) [32], đã phân tích, đánh giá, tiến trình nhận thức, hình thành quan điểm của Đảng về tôn giáo từ năm 1930 đến nay, đưa ra những vấn đề còn bất cập về CTTG và chính sách tôn giáo hiện nay. Hơn nữa, tác giả cũng đưa ra cụ thể được những thành tựu và những vấn đề mới đặt ra trong thực hiện chính sách tôn giáo, đòi hỏi Đảng và Nhà nước tiếp tục đổi mới chính sách đối với tôn giáo trong tình hình mới. Tác phẩm “Chính sách tôn giáo và nhà nước pháp quyền” của tác giả Đỗ Quang Hưng [50], là một công trình tổng kết thực tiễn đời sống tôn giáo và thực hiện chính sách tôn giáo ở nước ta trong thời kỳ đổi mới. Ngoài những vấn đề thuộc khung lý thuyết cơ bản, tác giả đã trình bày toàn cảnh đời sống tôn giáo Việt Nam hiện nay, làm rõ những vấn đề đặt ra trong mối quan hệ Nhà nước với các giáo hội, khảo sát, đánh giá những chuyển biến trong quá trình thực hiện chính sách tôn giáo, nêu lên những vấn đề đặt ra cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách tôn giáo. Tác giả cũng gợi mở một vấn đề quan trọng khác là nỗ lực mô hình hóa một nhà nước pháp quyền về tôn giáo trong điều kiện Việt Nam hiện nay. Luận án tiến sĩ “Quản lý nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam từ năm 1975 đến nay” của tác giả Bùi Hữu Dược [30], đã góp phần làm rõ tính tất yếu và yêu cầu 4 đổi mới QLNN về tôn giáo trong quan hệ giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) với tôn giáo ở Việt Nam, đồng thời làm rõ thực trạng, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra trong QLNN về tôn giáo ở Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2013. Từ đó, đưa ra dự báo tình hình tôn giáo ở Việt Nam và khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả QLNN về tôn giáo ở Việt Nam trong thời gian tới. Luận án tiến sĩ “Tôn giáo và luật pháp về tôn giáo trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Vân Hà [46], đã nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện công tác xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực tôn giáo ở Việt Nam, đưa ra được thành tựu và hạn chế trong ban hành các chính sách liên quan đến tôn giáo ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Từ đó, nêu lên một số vấn đề đặt ra và đề xuất các khuyến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tính khả thi trong quá trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền về lĩnh vực tôn giáo ở Việt Nam, góp phần bổ sung, phong phú thực tiễn nâng cao hiệu quả CTTG ở Việt Nam. Giáo trình “Quản lý xã hội về tôn giáo” của tác giả Hoàng Quốc Bảo[17], đã chỉ ra đối tượng và phương pháp nghiên cứu quản lý xã hội về tôn giáo, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng CSVN về quản lý tôn giáo. Giới thiệu một số tôn giáo ở Việt Nam và nguyên tắc, phương pháp, tổ chức, nội dung quản lý xã hội về tôn giáo và công tác QLNN đối với các hoạt động tôn giáo. 2.2. Nhóm công trình nghiên cứu quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội Luận văn thạc sĩ “Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn Thành phố Hà Nội hiện nay” của tác giả Dương Ngọc Kiên [53], đã tập trung nghiên cứu trên phương diện QLNN của chính quyền và hệ thống chính trị của thành phố Hà Nội đối với hoạt động của các tôn giáo, gồm: Phật Giáo, Công Giáo, Tin Lành, Cao Đài, Baha’i, Hồi Giáo, Minh Sư Đạo trên địa bàn thành phố Hà Nội trong giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2014. Từ đó, đề xuất giải pháp 5 nhằm góp phần nâng cao hiệu quả QLNN đối với các hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội thời gian tới. Luận văn thạc sĩ “Quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Phạm Thị Phương Mai [56], đã phân tích tình hình tôn giáo ở thành phố Hà Nội và các hoạt động có liên quan; Liên hệ trong sự phát triển vào xu thế chung của đất nước và thành tựu của địa phương, đồng thời đánh giá thực trạng hoạt động tôn giáo và QLNN đối với hoạt động tôn giáo ở thành phố Hà Nội. Từ đó, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện QLNN đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội. Luận án tiến sĩ “Tôn giáo và công tác tôn giáo ở Hà Nội hiện nay” của tác giả Đàm Tuấn Anh [1], đã phân tích, đánh giá một cách tổng thể về tình hình, đặc điểm cùng với hoạt động của các tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội và công tác tôn giáo ở Hà Nội hiện nay. Luận án đã rút ra một số kinh nghiệm trong công tác tôn giáo ở Hà Nội. Đồng thời đề xuất một số khuyến nghị giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến những nội dung cơ bản về tôn giáo, cơ sở lý luận cũng như thực tiễn về công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo dưới những khía cạnh nghiên cứu khác nhau và là nguồn tài liệu vô cùng hữu ích hỗ trợ cho công tác QLNN về tôn giáo. Đồng thời, sẽ cung cấp cho tác giả những tư liệu quan trọng và xác thực để phân tích nhằm rút ra những thành tựu và hạn chế trong QLNN về tôn giáo. Trên cơ sở đó, đưa ra được những dự báo và đề xuất một số quan điểm, giải pháp để nâng cao hiệu quả QLNN về tôn giáo trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Làm rõ một số vấn đề lý luận về công tác QLNN về tôn giáo; đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn quận Hai Bà Trưng. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác QLNN về tôn giáo trên địa bàn quận Hai Bà Trưng trong thời gian tới. 6 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ: - Làm rõ khái niệm, nguyên tắc, vai trò, mục tiêu, chủ thể, khách thể và nội dung của quản lý nhà nước về tôn giáo. - Phân tích và đánh giá thực trạng QLNN về tôn giáo trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, chỉ ra những kết quả đạt được, những vấn đề hạn chế, bất cập và nguyên nhân. - Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả QLNN về tôn giáo trên địa bàn quận Hai Bà Trưng trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Công tác quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về không gian: Đề tài giới hạn nghiên cứu trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu trong giai đoạn từ năm 2003 đến nay (đây là thời điểm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 12 tháng 3 năm 2003 cho đến nay khi mà Luật Tín ngưỡng, tôn giáo được Quốc hội thông qua ngày 18/11/2016 có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2018). 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo; các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo và công tác tôn giáo. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, để giải quyết mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng các 7 phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: phương pháp lịch sử cụ thể; phương pháp nghiên cứu tôn giáo học như xuất phát từ cấu trúc, chức năng tôn giáo; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê, so sánh v.v... Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành và chuyên ngành như: luật học, chính trị học, sử học, triết học, xã hội học, dân tộc học,… 6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả luận văn sẽ cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện hơn nữa chính sách và pháp luật về tôn giáo và công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo trong tình hình mới trên phạm vi cấp quận nói chung, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội nói riêng. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung vào kinh nghiệm thực tiễn trong công tác QLNN về tôn giáo tại một địa phương nhất định; có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy về tôn giáo và công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, cũng như việc hoạch định chính sách ở nhiều phương diện liên quan đến QLNN đối với hoạt động tôn giáo. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 7 tiết. Chương 1: Những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về tôn giáo Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội hiện nay Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội trong thời gian tới 8 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÔN GIÁO 1.1. Khái niệm, vai trò và nguyên tắc của quản lý nhà nước về tôn giáo 1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về tôn giáo QLNN nói chung và QLNN về tôn giáo nói riêng là hoạt động chức năng của Nhà nước. Để hiểu rõ hơn về QLNN đối với hoạt động tôn giáo trước hết ta cần hiểu về các khái niệm quản lý, QLNN, tôn giáo, hoạt động tôn giáo và QLNN về tôn giáo. * Quản lý Thuật ngữ “Quản lý” đã được nhiều tác giả định nghĩa khác nhau dựa theo mục tiêu và góc độ nghiên cứu. Có quan điểm coi quản lý là quá trình bao gồm các khâu lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo, kiểm tra những nỗ lực của các thành viên trong tổ chức và sử dụng tất cả các nguồn lực khác nhau của tổ chức để đạt được mục tiêu đã định trước. Cũng có quan điểm cho rằng quản lý là sự tác động định hướng bất kỳ lên một hệ thống nào đó nhằm trật tự hoá nó và hướng nó phát triển phù hợp với những quy luật nhất định. Mặc dù, có nhiều quan niệm khác nhau, song thuật ngữ quản lý đều được các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, nhà quản lý thống nhất ở hai nội dung: Thứ nhất, quản lý là sự tác động mang tính tổ chức, tính mục đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý. Thứ hai, mục tiêu là nhằm làm cho đối tượng quản lý hoạt động vận hành phù hợp với ý chí của chủ thể quản lý đã định ra từ trước. Như vậy, nói đến quản lý trước hết đó là sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý. Sự tác động này không phải mang tính đơn lẻ, tự phát mà nó mang tính tổ chức, tính mục đích rõ ràng. Mục đích mà chủ thể quản lý đặt ra là hướng tới đối tượng quản lý hoạt động phù hợp với ý chí của mình. 9 Từ hai nội dung nêu trên có thể hiểu: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đặt ra từ trước. * Quản lý nhà nước “Quản lý nhà nước” là hoạt động quản lý xã hội của Nhà nước, trong đó quản lý xã hội được hiểu là sự tác động có ý thức để chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người phù hợp với ý chí của chủ thể quản lý và quy luật khách quan. Quản lý xã hội do nhiều chủ thể tiến hành khi nhà nước xuất hiện, những công việc quản lý xã hội quan trọng nhất do nhà nước đảm nhiệm. QLNN là một chức năng cơ bản của Nhà nước, gắn liền với sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của Nhà nước, đồng thời quyết định sự hưng thịnh, ổn định hay rối ren, thụt lùi, thậm chí suy vong của một quốc gia, dân tộc. Thuật ngữ QLNN thường được tiếp cận theo hai góc độ: Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước là dạng quản lý xã hội của Nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người do tất cả các cơ quan nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp) tiến hành để thực hiện các chức năng của Nhà nước đối với xã hội. Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước là dạng quản lý xã hội mang quyền lực nhà nước với chức năng chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ, UBND các cấp). * Tôn giáo “Tôn giáo” là một hiện tượng lịch sử, xã hội đã xuất hiện từ rất lâu (Phật Giáo khoảng thế kỷ thứ VI trước công nguyên, Công Giáo thế kỷ I trước công nguyên,…) và có nhiều cách hiểu khác nhau. Chủ nghĩa Mác - Lênin coi tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội duy tâm thần bí nhưng chủ nghĩa Mác - Lênin cũng thừa nhận tính chất, vai trò của tôn giáo, thừa nhận tôn giáo còn tồn tại lâu dài đồng thời chỉ rõ nguồn gốc của tôn giáo chính là xã hội, là tồn tại xã hội, là cuộc sống của con người lại được phản ánh một cách hoang đường kỳ dị. 10 Theo C.Mác, tôn giáo là một sản phẩm xã hội, nó được quy định và quyết định bởi lịch sử vì cơ sở của quá trình lịch sử là sự phát triển của các điều kiện vật chất của đời sống xã hội nên nguồn phát sinh của biểu tượng tôn giáo cũng ở ngay trong điều kiện sinh sống của con người. Những lực lượng trần tục thống trị con người, đè nặng lên ý thức của họ một cách hoang đường đã sinh ra những biểu tượng siêu nhiên. Những hình ảnh và biểu tượng tôn giáo trong ý thức của con người chính là tồn tại được phản ánh. Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Ph.Ăngghen đã viết: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào trong đầu óc của con người - của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế” [22, tr.437]. Ở Việt Nam, vẫn phổ biến một quan điểm về tôn giáo theo loại hình tôn giáo của giáo hội, vẫn phân biệt tôn giáo và tín ngưỡng dân gian như là hai cấp độ phát triển, như nhận xét của một tác giả nghiên cứu tôn giáo: “Hiện nay, ở nước ta và một số nước dường như chỉ coi các hình thức tôn giáo nảy sinh ra từ xã hội có giai cấp, hay đúng hơn nữa là phải có tổ chức, giáo lý, giáo luật, mới được coi là tôn giáo [81, tr.29]. Như vậy, tôn giáo không phải là cái tự có mà là sản phẩm của con người. Nói cách khác, tôn giáo là sự phản ánh xã hội vào ý thức con người. Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, phản ánh tồn tại xã hội đã sinh ra nó. Song sự phản ánh đó chỉ là sự phản ánh phi lý tính, hoang đường để giải thích hoặc chi phối hiện thực. Tôn giáo là sản phẩm của con người, nhưng không phải con người cá nhân, riêng lẻ mà là con người xã hội (hay xã hội con người), do đó tôn giáo là một hiện tượng xã hội. Xét về mặt bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội vừa thể hiện sự phản kháng trước những đau khổ, bất hạnh của con người, vừa biểu thị sự bất lực của con người trước sức mạnh của tự nhiên và xã hội. Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo, Đảng ta nhận định tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân 11 dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Quan điểm này là cơ sở cho việc quản lý, xem xét, giải quyết các vấn đề tôn giáo ở nước ta hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải có thái độ bình tĩnh, khách quan trong khi xem xét, giải quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động tôn giáo; đảm bảo cho các tôn giáo ở Việt Nam sinh hoạt một cách bình thường, tuân thủ pháp luật, đồng hành với dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Điều 24 Hiến pháp năm 2013 quy định: "1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. 2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật" [60, tr.20]. Như vậy, tôn giáo, tín ngưỡng đã trở thành quyền cơ bản của mọi người dân Việt Nam; là một trong những quyền cơ bản của con người được Nhà nước và pháp luật tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm. Tuy nhiên, hiện nay trong các văn bản quản lý nhà nước về tôn giáo ở nước ta chưa có văn bản nào định nghĩa cụ thể về khái niệm này. Mặc dù, việc giải thích khái niệm khá phức tạp, thậm chí khó có thể thống nhất, nhưng khi nói đến một tôn giáo hoàn chỉnh bao gồm các dấu hiệu cơ bản sau: là đại diện cho một cộng đồng người có chung niềm tin vào thế lực siêu nhiên, huyền bí; có hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi; có tổ chức hoạt động từ Giáo hội xuống cơ sở khá chặt chẽ. * Hoạt động tôn giáo Hoạt động tôn giáo là “hoạt động truyền bá tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo và quản lý tổ chức của tôn giáo” [62, tr.6]. Truyền bá giáo lý, giáo luật (còn gọi là truyền đạo) là việc tuyên truyền những lý lẽ về sự ra đời, về luật lệ của tôn giáo. Thông qua hoạt động truyền đạo, niềm tin tôn giáo của tín đồ được củng cố, luật lệ trong tôn giáo được tín đồ thực hiện. Thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi là hoạt động của tín đồ, nhà tu hành, chức sắc tôn giáo thể hiện sự tuân thủ pháp luật, thỏa mãn đức tin tôn giáo của cá nhân tôn giáo hay của cộng đồng tín đồ. Hoạt động quản lý tổ chức của tôn giáo là thực hiện quy định của giáo luật, thực hiện hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo, đảm bảo duy trì trật tự trong tổ chức tôn giáo. Trong các hoạt động này, việc phân biệt hoạt động truyền bá giáo 12 lý giáo luật và hoạt động thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi chỉ mang tính tương đối có không ít hoạt động hành đạo có hoạt động truyền đạo. * Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo Từ các khái niệm quản lý, quản lý nhà nước, tôn giáo, hoạt động tôn giáo, chúng ta có thể đưa ra khái niệm về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo theo hai nghĩa sau: Theo nghĩa rộng: là quá trình dùng quyền lực nhà nước (quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp) của các cơ quan nhà nước theo quy định của pháp luật để tác động, điều chỉnh, hướng dẫn các hoạt động tôn giáo và hành vi hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra phù hợp với pháp luật, đạt được mục tiêu cụ thể của chủ thể quản lý. Theo nghĩa hẹp: là một dạng quản lý xã hội mang tính chất nhà nước; là chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước; là quá trình chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp để điều chỉnh, hướng dẫn hoạt động các tôn giáo và mọi hành vi hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra theo quy định của pháp luật. Nói cách khác, đó là sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động của các tín đồ, chức sắc trong việc truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi tôn giáo; quản lý nơi thờ tự, đồ dùng việc đạo, cơ sở vật chất xã hội của các tôn giáo. Từ đây, thuật ngữ quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo sử dụng trong luận văn được hiểu theo nghĩa hẹp của thuật ngữ này. Như vậy, khi nhắc đến quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là nói đến sự quản lý của các cơ quan hành pháp đối với hoạt động tôn giáo. 1.1.2. Vai trò của quản lý nhà nước về tôn giáo Tôn giáo là nhu cầu tinh thần chính đáng của một bộ phận đông đảo nhân dân. Chính vì vậy, quản lý nhà nước về tôn giáo có vai trò đặc biệt quan trọng. Một là, quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo luôn giữ vai trò quan trọng trong thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước; góp phần củng cố, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc; giữ vững an ninh - quốc phòng. Sự 13 nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là của mọi người Việt Nam, dù ở trong nước hay đang sinh sống, học tập ở nước ngoài. Hai là, quản lý nhà nước về tôn giáo giúp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao dân trí cho nhân dân, trong đó có tín đồ các tôn giáo; tạo ra mối quan hệ tốt giữa quần chúng với Đảng và Nhà nước; phát huy dân chủ, tiếp thu những nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của chức sắc, tín đồ các tôn giáo để đề ra những chủ trương, chính sách phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, góp phần tạo ra sự ổn định chính trị - xã hội, phát huy tinh thần đoàn kết trong nhân dân. Ba là, cơ sở chính trị trong các vùng tôn giáo tập trung được xây dựng, củng cố, phát huy được vai trò của quản lý nhà nước về tôn giáo của cán bộ, đảng viên, người có uy tín để vận động đồng bào có đạo, phát triển thêm được nhiều đảng viên, hội viên các đoàn thể là tín đồ các tôn giáo. Chức sắc các tôn giáo ở huyện cũng được hoạt động thuận lợi trong khuôn khổ của pháp luật từ khâu tuyển chọn đào tạo, thuyên chuyển, bổ nhiệm, đến phân công địa bàn hoạt động. Bốn là, quản lý nhà nước về tôn giáo khuyến khích chức sắc, tín đồ các tôn giáo tham gia các hoạt động từ thiện xã hội có lợi cho sự phát triển đất nước, phù hợp với pháp luật và đạo lý. Đồng thời, ngăn chặn được những hoạt động lợi dụng công việc từ thiện nhân đạo để tiến hành hoạt động tôn giáo trái pháp luật. Năm là, quản lý nhà nước về hoạt động đối ngoại của các tôn giáo giúp tạo ra tinh thần phấn khởi, tin tưởng vào chính sách tôn giáo, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước. 1.1.3. Các nguyên tắc quản lý nhà nước về tôn giáo Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo không ngoài mục đích bảo đảm cho hoạt động tôn giáo diễn ra trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật, vì lợi ích chung, trong đó có cả lợi ích của đồng bào có đạo và lợi ích của các giáo hội. Dó đó, quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo có một số nguyên tắc chính sau: 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan