Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ LUẬN VĂN MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RA CÔNG CHÚNG THEO PHÁP L...

Tài liệu LUẬN VĂN MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RA CÔNG CHÚNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC

.PDF
121
201
124

Mô tả:

LUẬN VĂN MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RA CÔNG CHÚNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM THỊ THANH HƯƠNG MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RA CÔNG CHÚNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2010 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM THỊ THANH HƯƠNG MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RA CÔNG CHÚNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC Chuyên ngành : Luật quốc tế Mã số : 60 38 60 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nông Quốc Bình HÀ NỘI - 2010 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU Chương 1: 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÀO BÁN CHỨNG 8 KHOÁN RA CÔNG CHÚNG 1.1. Khái niệm chung 8 1.1.1. Khái niệm về chứng khoán và thị trường chứng khoán 8 1.1.2. Khái niệm về chào bán chứng khoán ra công chúng 18 1.2. Vai trò và đặc điểm của hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng 21 1.2.1. Vai trò của hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng 21 1.2.2. Các đặc điểm cơ bản của hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng 22 1.2.2.1. Chủ thể chào bán chứng khoán ra công chúng 22 1.2.2.2. Phạm vi và đối tượng chào bán chứng khoán 28 1.2.2.3. Về cách thức chào bán chứng khoán 29 1.2.2.4. Về pháp luật điều chỉnh 30 1.2.2.5. Các hình thức chào bán chứng khoán 31 1.3. Tæ chøc quèc tÕ c¸c ñy ban chøng kho¸n (iosco) 32 1.3.1. Sự hình thành, phát triển của IOSCO 32 1.3.2. Các nguyên tắc của IOSCO 33 1.3.3. Các nguyên tắc của IOSCO đối với hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng 36 1.3.3.1. Nguyên tắc về hoạt động công bố thông tin của tổ chức phát hành 36 1.3.3.2. Nguyên tắc đối xử công bằng 37 1.3.3.3. Nguyên tắc kế toán, kiểm toán theo thông lệ quốc tế 38 1.3.4. Việt Nam và IOSCO 38 Chương 2: 42 PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RA CÔNG CHÚNG TRONG TƯƠNG QUAN SO SÁNH VỚI QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ NƯỚC 2.1. Khung pháp lý của một số nước và của Việt Nam về chào bán chứng khoán ra công chúng 42 2.1.1. Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng của một số nước 42 2.1.1.1. Nhóm văn bản pháp luật chung về chứng khoán và thị trường chứng khoán 42 2.1.1.2. Nhóm văn bản pháp luật chuyên ngành về chứng khoán và thị trường chứng khoán 43 2.1.2. Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng của Việt Nam 47 2.2. Một số nội dung cơ bản của pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng của Việt Nam và một số nước 51 2.2.1. Phương thức quản lý đối với hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng 51 2.2.2. Điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng 57 2.2.3. Thủ tục thực hiện chào bán chứng khoán ra công chúng 65 2.2.3.1. C¬ chÕ qu¶n lý nhµ n-íc ®èi víi ho¹t ®éng chµo b¸n chøng kho¸n ra c«ng chóng 65 2.2.3.2. Hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng 74 2.3. Một số nhận xét về pháp luật chào bán chứng khoán ra công chúng của Việt Nam so sánh với pháp luật của một số nước 78 2.3.1. Về hệ thống pháp luật 78 2.3.2. Về một số nội dung cơ bản của pháp luật chào bán chứng khoán ra công chúng 80 Chương 3: 82 THỰC TRẠNG THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RA CÔNG CHÚNG TẠI VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RA CÔNG CHÚNG 3.1. Thực trạng thực thi pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng tại Việt Nam 82 3.2. Một số đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về chào bán chứng khoán ra công chúng để phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế 90 3.2.1. Yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng 90 3.2.2. Một số đề xuất, giải pháp cụ thể 92 3.2.2.1. Hoàn thiện nhóm văn bản pháp luật chuyên ngành về chào bán chứng khoán ra công chúng 92 3.2.2.2. Hoàn thiện nhóm văn bản pháp luật chung về chào bán chứng khoán ra công chúng 101 KẾT LUẬN 108 DANH MỤC MỘT SỐ CÔNG TRÌNH TÁC GIẢ Đà THAM GIA 110 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 111 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT SGDCK : Sở giao dịch chứng khoán TTCK : Thị trường chứng khoán UBCKNN : Ủy ban Chứng khoán Nhà nước Danh môc c¸c b¶ng Sè hiÖu b¶ng 2.1 Tªn b¶ng So sánh về đặc điểm của hoạt động chào bán chứng khoán Trang 31 ra công chúng và hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ 2.2 Bảng so sánh các cơ chế quản lý nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng 65 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Thị trường chứng khoán (TTCK) đang ngày càng đóng vai trò là kênh dẫn vốn, huy động vốn quan trọng trong phát triển kinh tế. Đề án phát triển thị trường vốn Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đã đặt ra mục tiêu tổng quát, đó là phải: Phát triển nhanh, đồng bộ, vững chắc thị trường vốn Việt Nam, trong đó thị trường chứng khoán đóng vai trò chủ đạo; từng bước đưa thị trường vốn trở thành một cấu thành quan trọng của thị trường tài chính, góp phần đắc lực trong việc huy động vốn cho đầu tư phát triển và cải cách nền kinh tế; từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh và chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế [10]. Luật Chứng khoán được Quốc hội thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2006 đã đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong việc xây dựng khung pháp lý cho hoạt động của TTCK Việt Nam nói chung và hoạt động phát hành, chào bán chứng khoán huy động vốn của các loại hình doanh nghiệp nói riêng. Với phạm vi điều chỉnh rộng, Luật Chứng khoán quy định hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng của các đối tượng là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công ty cổ phần... tạo ra sự thống nhất trong quản lý nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng. Lần đầu tiên tại Luật Chứng khoán đã quy định cho phép các doanh nghiệp Việt Nam được chào bán chứng khoán huy động vốn trên TTCK quốc tế. Với quy định này, một mặt mở ra kênh huy động vốn vô cùng quan trọng cho doanh nghiệp Việt Nam; mặt khác, cũng tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài được tham gia góp vốn đầu tư vào doanh nghiệp Việt Nam, phù hợp với các cam kết của Việt Nam trong hội nhập thị trường vốn quốc tế. 1 Tuy nhiên, thực tế thi hành pháp luật về chứng khoán và TTCK trong thời gian qua cho thấy pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế, vướng mắc, gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong quá trình chào bán chứng khoán huy động vốn, cụ thể như: Luật Chứng khoán mới chỉ giới hạn điều chỉnh về hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng, chưa quy định thế nào là hoạt động phát hành riêng lẻ. Các quy định về khái niệm, về điều kiện, thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng hiện nay chưa rõ ràng và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Mặc dù pháp luật đã bước đầu điều chỉnh về hoạt động chào bán chứng khoán ra nước ngoài song mới chỉ dừng lại ở các quy định mang tính nguyên tắc đòi hỏi phải có những quy định hướng dẫn cụ thể về điều kiện, về tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài và ngay cả việc giải quyết xung đột pháp luật khi doanh nghiệp Việt Nam tiến hành chào bán chứng khoán ra nước ngoài hay doanh nghiệp nước ngoài chào bán chứng khoán tại Việt Nam. Việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng phải được tiến hành trên cơ sở tổng hợp, đúc kết kinh nghiệm thực tiễn hoạt động của TTCK Việt Nam và dựa trên cơ sở ứng dụng một cách khoa học của quá trình nghiên cứu kinh nghiệm về mặt lý thuyết cũng như thực tiễn của thế giới vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của Việt Nam. Trước những yêu cầu của lý luận và thực tiễn nêu trên, việc nghiên cứu luận văn với đề tài "Một số vấn đề pháp lý về chào bán chứng khoán ra công chúng theo pháp luật Việt Nam và pháp luật một số nước" là một đòi hỏi mang tính cấp thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn cao. 2. Tình hình nghiên cứu vấn đề này ở Việt Nam và ý nghĩa lý luận của đề tài Mặc dù trong quá trình xây dựng Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành, cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và TTCK là Bộ Tài chính (Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN)) đã có một số 2 nghiên cứu riêng lẻ liên quan đến việc chào bán chứng khoán ra công chúng song những nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở mức độ các vấn đề mang tính nguyên tắc. Hiện nay, cũng chưa có một đề tài nào nghiên cứu toàn diện về nội dung này, đặc biệt là dưới góc độ so sánh với quy định pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng của một số nước để rút ra kinh nghiệm cho Việt Nam. Các văn bản, tài liệu về kinh nghiệm của nước ngoài trong hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng hầu hết đều chưa được dịch ra tiếng Việt. Do vậy, việc nghiên cứu luận văn với đề tài "Một số vấn đề pháp lý về chào bán chứng khoán ra công chúng theo pháp luật Việt Nam và pháp luật một số nước" là thực sự cần thiết, góp phần xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật của Việt Nam. 3. Mục tiêu nghiên cứu Đề tài luận văn hướng đến các mục tiêu sau: - Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng; - Nghiên cứu pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng của một số nước nhằm rút ra cơ sở lý luận và bài học cho việc quy định vấn đề này tại Việt Nam; - Đánh giá, phân tích thực trạng thực thi pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng tại Việt Nam; phân tích những mặt bất cập, hạn chế của pháp luật Việt Nam về chào bán chứng khoán ra công chúng để từ đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm khuyến khích phát triển hoạt động này trong thời gian tới. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đề tài được giới hạn trong khuôn khổ nghiên cứu, so sánh một số nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam và pháp luật một số nước như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan… về hoạt động chào bán chứng khoán ra 3 công chúng (về phương thức quản lý đối với hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng, về điều kiện, thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng); đánh giá tính tương thích của pháp luật Việt Nam với pháp luật các nước nêu trên và với các nguyên tắc của Tổ chức quốc tế các Ủy ban Chứng khoán (IOSCO) trong hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng; tìm hiểu và phân tích thực trạng thực thi pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng tại Việt Nam, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật của Việt Nam về hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng. 5. Cơ sở pháp lý và thực tiễn của đề tài * Cơ sở pháp lý - Tổng thể các quy phạm pháp luật của Việt Nam về chào bán chứng khoán ra công chúng: Luật Chứng khoán năm 2006 và Nghị định số 14/2007/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán đặt trong mối quan hệ hài hòa tổng thể với hệ thống pháp luật có liên quan của Việt Nam, đặc biệt là Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư,... - Pháp luật về chứng khoán và TTCK của một nước trên thế giới gồm: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan… - Các nguyên tắc của IOSCO trong hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng. * Cơ sở thực tiễn - Các báo cáo thường niên về hoạt động của TTCK; các báo cáo tổng kết công tác của UBCKNN. - Các chương trình, Đề án phát triển thị trường vốn của Việt Nam trong đó có TTCK. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong quá trình xây dựng luận văn này, tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu để xử lý các vấn đề đặt ra, cụ thể đó là: 4 - Phương pháp đọc tài liệu, trích lọc và tổng hợp: Đây là phương pháp nghiên cứu chủ đạo và được sử dụng xuyên suốt quá trình xây dựng luận văn này. Phương pháp này có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc nghiên cứu và giải quyết các vấn đề đặt ra tại Chương 1 của luận văn. Trên cơ sở đọc, nghiên cứu, tổng hợp các tài liệu trong và ngoài nước, tác giả đã khái quát hóa một số vấn đề có tính lý luận chung về chứng khoán và TTCK, về chào bán chứng khoán ra công chúng, về các nguyên tắc của IOSCO về hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng, góp phần hướng tới mục tiêu làm sáng tỏ cơ sở lý luận của pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng. - Cũng giống với phương pháp đọc tài liệu, trích lọc và tổng hợp, phương pháp so sánh và phân tích cũng được tác giả sử dụng một cách triệt để tại luận văn này. Tuy nhiên, việc sử dụng phương pháp này mang lại hiệu quả cao nhất khi xử lý các vấn đề đặt ra tại Chương 2 của luận văn. Thông qua so sánh một số nội dung cơ bản của pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng theo pháp luật Việt Nam và pháp luật một số nước như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan…, luận văn đã làm rõ những điểm giống và khác nhau cơ bản giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật một số nước để từ đó phân tích, đánh giá, rút ra các nhận xét về hệ thống pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng của Việt Nam. - Nếu như ở tại Chương 1 và Chương 2 của luận văn chỉ sử dụng một số phương pháp nghiên cứu nhất định thì tại Chương 3 của luận văn lại là sự kết hợp nhuần nhuyễn của tổng hợp các phương pháp nghiên cứu bao gồm rà soát thống kê, trích lọc, so sánh, phân tích và tổng hợp. Việc kết hợp các phương pháp nghiên cứu này tại Chương 3I, một chương có thể nói là quan trọng nhất của luận văn này, đã đem lại một số kết quả chính cho luận văn này đó là: đánh giá được thực trạng thực thi pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng tại Việt Nam, nêu bật những điểm vướng mắc, hạn chế của hệ thống pháp luật này tại Việt Nam, từ đó luận văn đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng của Việt Nam. 5 7. Những đóng góp mới của luận văn Với việc tập trung nghiên cứu một lĩnh vực mới, chưa được nghiên cứu sâu tại Việt Nam, đó là một số vấn đề pháp lý về chào bán chứng khoán ra công chúng theo pháp luật Việt Nam và pháp luật một số nước, luận văn đã có một số đóng góp nhất định, cụ thể như sau: Thứ nhất, từ việc phân tích về các khái niệm, định nghĩa về chứng khoán và TTCK cũng như các đặc điểm cơ bản của TTCK, tác giả đã chỉ rõ một số điểm khác biệt giữa TTCK thời kỳ sơ khai và TTCK trong nền kinh tế hiện đại, đồng thời đưa ra định nghĩa về chứng khoán và TTCK xuất phát từ bản chất và các đặc điểm của TTCK. Thứ hai, luận văn đã khái quát hóa một số vấn đề lý luận về chào bán chứng khoán ra công chúng, phân tích, làm rõ các đặc điểm của hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng thông qua việc so sánh những điểm giống và khác nhau cơ bản giữa hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng và hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ. Thứ ba, luận văn đã nghiên cứu đúc kết được một số đặc điểm cơ bản của khung pháp lý điều chỉnh hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng của Việt Nam và một số nước trên thế giới; chỉ rõ những điểm giống và khác nhau cơ bản giữa quy định pháp luật của Việt Nam và của một số nước về chào bán chứng khoán ra công chúng để từ đó, đánh giá tính tương thích, sự phù hợp của pháp luật Việt Nam với pháp luật các nước cũng như với thông lệ quốc tế về chào bán chứng khoán ra công chúng. Thứ tư, luận văn đi sâu phân tích thực trạng thực thi pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng tại Việt Nam trong thực tiễn, chỉ rõ những điểm vướng mắc, bất cập trong hệ thống pháp luật của Việt Nam về chào bán chứng khoán ra công chúng. Thứ năm, luận văn đưa ra một số đề xuất hoàn thiện các văn bản pháp luật chung về chứng khoán và TTCK và các văn bản pháp luật chuyên ngành 6 về chứng khoán và TTCK, đặc biệt là Luật Chứng khoán. Các đề xuất này vừa có tính thời sự, vừa có tính ứng dụng cao trong thực tiễn do hiện nay Quốc hội đang xem xét sửa đổi, bổ sung Luật Chứng khoán nhằm khắc phục các vướng mắc, hạn chế trong quy định hiện hành, đáp ứng yêu cầu đặc thù và thực tế của hoạt động chứng khoán và TTCK cũng như xu thế hội nhập với TTCK các nước và khu vực. Với các đóng góp có tính mới nêu trên, tác giả cho rằng luận văn vừa mang giá trị thời sự, có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu cho các cán bộ trong ngành chứng khoán trong hành trang tri thức hội nhập kinh tế quốc tế, vừa có giá trị ứng dụng trong thực tiễn. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chào bán chứng khoán ra công chúng. Chương 2: Pháp luật Việt Nam về chào bán chứng khoán ra công chúng trong tương quan so sánh với quy định pháp luật của một số nước. Chương 3: Thực trạng thực thi pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng tại Việt Nam và một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng. 7 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RA CÔNG CHÚNG 1.1. KHÁI NIỆM CHUNG 1.1.1. Khái niệm về chứng khoán và thị trƣờng chứng khoán Hiện nay có rất nhiều cuốn sách cũng như công trình khoa học nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát triển của TTCK. Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, TTCK ra đời từ thế kỷ 17 và vai trò của nó ngày càng được nâng cao cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản [44]. Tuy nhiên, có nhiều tài liệu nghiên cứu cho rằng, TTCK ban đầu xuất hiện vào giữa thế kỷ 15 ở Phương Tây một cách rất tự phát và sơ khai. Lúc đầu chỉ là một nhóm nhỏ các thương gia thường tụ tập lại tại các quán cà phê để trao đổi mua bán các vật phẩm hàng hóa, sau đó tăng dần và hình thành một khu chợ riêng. Cuối thế kỷ 15, khu chợ trở thành "thị trường" và hình thành nên các quy tắc có giá trị bắt buộc chung cho mọi thành viên tham gia "thị trường". Phiên chợ riêng đầu tiên được diễn ra năm 1453 tại gia đình Vanber ở Bruges (Bỉ) để trao đổi, mua bán kỳ phiếu nước ngoài hay các loại giấy tờ có giá khác. Tại đây, người ta treo một bảng hiệu hình ba túi da với một từ tiếng Pháp là "Bourse", có nghĩa là "Mậu dịch thị trường" hay "Sở giao dịch" [15, tr. 25]. Thị trường thời kỳ sơ khai này có một số đặc điểm cơ bản đó là: - Thị trường được hình thành một cách tự phát với sự tham gia của các nhà đầu cơ, chưa có sự tham gia của công chúng đầu tư. - Hoạt động của thị trường chưa có sự quản lý bởi cơ quan nhà nước cũng như chưa có sự điều chỉnh bởi hệ thống pháp lý nào. Trong quá trình giao dịch mua bán, các thành viên thống nhất với nhau các quy ước và dần dần những quy ước này trở thành những nguyên tắc chung có tính bắt buộc đối với các thành viên tham gia thị trường. 8 - Các giao dịch được diễn ra ở ngoài trời; phương thức giao dịch rất đơn giản với những ký hiệu giao dịch bằng tay và có thư ký nhận lệnh của khách hàng. - Hàng hóa giao dịch trên thị trường đơn giản và ít chủng loại, chỉ bao gồm kỳ phiếu nước ngoài, khế ước nợ và trái phiếu Chính phủ, được gọi chung là chứng khoán. Chứng khoán thời kỳ này được hiểu đơn giản là loại tài sản mang lại thu nhập cho người sở hữu và khi cần người sở hữu có thể bán để thu tiền về. Chứng khoán có đầy đủ các đặc trưng của tài sản, đó là các quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Tuy nhiên, biểu hiện của các quyền năng trên rất khác nhau, tùy thuộc vào mục đích của người sở hữu chứng khoán và loại chứng khoán. Thị trường chứng khoán càng ngày càng phát triển đến mức không thể thiếu trong nền kinh tế của các nước theo cơ chế thị trường. Ở các nước có nền kinh tế phát triển, mỗi TTCK lại có nhiều Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK) khác nhau. Ví dụ như ở Mỹ, TTCK Mỹ xuất hiện từ năm 1792 nhưng đến năm 1800, SGDCK đầu tiên mới được thành lập và sau đó hàng loạt các SGDCK được thành lập trên khắp nước Mỹ. Hai SGDCK lâu đời nhất và nổi tiếng nhất Mỹ là SGDCK NewYork (NYSE) (nay đổi tên là NYSE Euronext) và SGDCK NASDAQ. Tại Nhật có 8 SGDCK trong đó lớn nhất là các SGDCK Tokyo, Osaka, Nagoya, Kyoto…[15, tr. 28-30]. TTCK ngày nay cũng có nhiều tên gọi khác nhau phụ thuộc vào từng loại hình TTCK và từng quốc gia như: Security Market, Stock Market, Stock Exchange… Vậy TTCK là gì? TTCK trong nền kinh tế hiện đại có gì khác so với thị trường chứng khoán thời kỳ sơ khai trước đây? Có nhiều khái niệm về TTCK. Giáo trình TTCK - Trường Đại học Ngoại thương đưa ra định nghĩa về TTCK đó là "một thị trường mà ở nơi đó người ta mua bán, chuyển nhượng, trao đổi chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời" [26]. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia lại đưa ra khái niệm "Thị 9 trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán các loại chứng khoán. Việc mua bán được tiến hành ở hai thị trường sơ cấp và thứ cấp, do vậy thị trường chứng khoán là nơi chứng khoán được phát hành và trao đổi" [45]. Giáo trình Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và TTCK do Trung tâm Nghiên cứu khoa học và Đào tạo chứng khoán - UBCKNN biên soạn mặc dù qua nhiều lần chỉnh sửa nhưng TTCK vẫn được định nghĩa là "nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi các chủ thể nắm giữ chứng khoán" [15, tr. 33]. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ tin học, các phương thức giao dịch trên TTCK đã được cải tiến ngày càng hiện đại, chuyển dần từ giao dịch thủ công kết hợp với máy vi tính sang sử dụng hoàn toàn hệ thống giao dịch điện tử. Do vậy, TTCK không còn chỉ là một nơi, một địa điểm nhất định mà tại đó chứng khoán được giao dịch, mua đi bán lại từ người này sang người khác. TTCK còn có thể là bất cứ hình thức nào tập hợp người mua và người bán chứng khoán và chuyển giao quyền sở hữu chứng khoán. Theo Luật Chứng khoán Việt Nam, khái niệm về TTCK đã được mở rộng, theo đó,"thị trường giao dịch chứng khoán là địa điểm hoặc hình thức trao đổi thông tin để tập hợp lệnh mua, bán và giao dịch chứng khoán" [20, khoản 18 Điều 6]. Mặc dù vậy, các định nghĩa mới chỉ ra được mặt hình thức của TTCK mà chưa chỉ ra được bản chất của TTCK. Xét về mặt bản chất, TTCK là nơi tập trung và phân phối các nguồn vốn tiết kiệm. Để huy động vốn cho đầu tư, những người thiếu vốn phát hành ra các công cụ tài chính như cổ phiếu, trái phiếu. Những người có vốn nhàn rỗi thay vì đầu tư vào máy móc thiết bị, nhà xưởng để sản xuất hàng hóa hay cung cấp dịch vụ thì sẽ đầu tư vào các chứng khoán được phát hành bởi những người cần huy động vốn. Như vậy, thông qua TTCK, nguồn vốn được dẫn trực tiếp từ người cung vốn sang người cầu vốn mà không phải qua bất kỳ tổ chức trung gian nào. Thông qua TTCK, những người có chứng khoán có thể mua đi, bán lại các chứng khoán đã được 10 phát hành theo giá cả thị trường sau một thời gian nhất định nhằm mục đích kiếm lời. Tuy nhiên, việc mua bán, trao đổi các chứng khoán thực chất chỉ là sự thay đổi các chủ sở hữu nắm giữ các chứng khoán đó, còn giá trị thực của chứng khoán lại được biểu hiện dưới dạng các nguồn vốn như tiền mặt, tư liệu sản xuất, sản phẩm, bán thành phẩm… tồn tại trong tổ chức phát hành chứng khoán đó và giá trị này có thể tăng hoặc giảm tùy thuộc hiệu quả của hoạt động kinh doanh, sản xuất của tổ chức phát hành. Vì vậy, Các Mác còn gọi "chứng khoán" mua bán trên thị trường là "tư bản giả" [25, tr. 11-12]. Do đó, bản chất của TTCK không chỉ phản ánh các quan hệ mua, bán chứng khoán mà còn biểu hiện quyền sở hữu và quyền sử dụng các nguồn vốn trong các tổ chức phát hành dưới dạng tư liệu sản xuất và vốn bằng tiền. Như vậy, TTCK là nơi mua, bán các quyền sở hữu vốn dưới dạng các chứng khoán [25, tr. 12]. Về bản chất, TTCK ngày nay không có gì khác so với thời kỳ sơ khai trước đây nhưng lại có nhiều đặc điểm riêng biệt thể hiện sự phát triển ngày càng cao của TTCK. Trước đây, nói đến thị trường nói chung hay TTCK nói riêng, người ta thường hình dung đến một địa điểm hay một không gian nhất định và tại đấy người ta có thể mua hay bán các loại hàng hóa, các loại chứng khoán nhất định. Ngày nay, với sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin và thương mại điện tử, việc mua, bán chứng khoán được thực hiện thông qua nhiều phương tiện hiện đại như điện thoại, fax, internet…mà không cần một địa điểm cụ thể nào cả. Ở giai đoạn đầu, TTCK có tổ chức đơn giản, không có sự quản lý của cơ quan quản lý nhà nước, hoạt động của TTCK chỉ được điều chỉnh bởi các quy tắc do thành viên thị trường đặt ra mà không phải là các quy định pháp lý do nhà nước ban hành. Ngày nay, TTCK có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, phức tạp, có cơ quan quản lý điều hành. Hoạt động của TTCK phải tuân theo những quy tắc nhất định do pháp luật từng nước quy định và phải phù hợp với quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường cũng như thông lệ quốc tế. 11 Về khái niệm "chứng khoán", cùng với sự phát triển của TTCK, khái niệm "chứng khoán" cũng ngày càng mở rộng. Trước đây, Luật Chứng khoán của nhiều nước, đặc biệt là các nước theo hệ thống luật lục địa/luật La mã, đưa ra khái niệm "chứng khoán" theo nghĩa hẹp với một danh mục cụ thể các công cụ. Những danh mục này giới hạn một cách rõ ràng quy mô của Luật, nhưng cũng tạo ra khả năng linh hoạt nhất định để đáp ứng sự phát triển, thay đổi của thị trường tài chính. Theo đó, một loạt các công cụ tài chính, bao gồm cả các công cụ có độ rủi ro cao, không được điều chỉnh. Mức độ và tốc độ thay đổi của thị trường tài chính trong vòng hai thập kỷ qua đã gia tăng đáng kể yêu cầu phải có một định nghĩa linh hoạt hơn về chứng khoán. Điều này được thể hiện trong công cuộc cải cách thị trường tài chính ở nhiều quốc gia trong 10 năm vừa qua. Công cụ chứng khoán luôn được thay đổi và có xu hướng ngày càng phát triển, đa dạng các loại sản phẩm, đặc biệt là sản phẩm phái sinh. Do vậy, pháp luật của nhiều nước, ngoài việc quy định các chứng khoán mang tính phổ biến, dễ xác định (như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ…) còn quy định các nguyên tắc, bản chất của chứng khoán để trên cơ sở đó cơ quan quản lý có căn cứ điều chỉnh linh hoạt đối với các loại sản phẩm mới. Ví dụ như tại Đạo Luật chứng khoán năm 1933 của Hoa Kỳ, tại phần 2(a) đưa ra khái niệm về chứng khoán theo cách thức liệt kê, theo đó "Thuật ngữ "chứng khoán" có nghĩa là bất cứ giấy tờ, cổ phiếu, cổ phiếu quỹ, công cụ chứng khoán tương lai, trái phiếu, giấy nợ, bằng chứng về công nợ, chứng nhận về lợi ích hay tham gia bất cứ thỏa thuận chia sẻ lợi nhuận nào, chứng chỉ tín thác - cầm cố, chứng nhận hay đăng ký tham gia thành lập tổ chức, cổ phiếu chuyển đổi, hợp đồng đầu tư, chứng nhận bỏ phiếu, chứng nhận đặt cọc về chứng khoán, lợi ích không thể phân chia liên quan đến dầu, khí hay bất cứ quyền gì về khoáng sản, bất cứ quyền mua, bán, hợp đồng chứng khoán hai chiều, quyền mua hay đặc quyền đối với chứng khoán, chứng nhận tiền gửi, hay nhóm các chỉ số hoặc chỉ số chứng khoán (bao gồm 12 bất cứ lợi ích liên quan hay trên cơ sở các giá trị đó), hoặc bất cứ quyền mua, bán, hợp đồng chứng khoán hai chiều, quyền mua hay đặc quyền về chứng khoán quốc gia liên quan đến ngoại tệ, hoặc nói chung là bất cứ lợi ích hay công cụ nào được hiểu là "chứng khoán", hoặc bất cứ chứng chỉ lợi ích hay sự tham gia, kể cả tạm thời, dưới dạng giấy biên nhận, giấy bảo lãnh, hay chứng quyền, quyền mua hay quyền đặt mua những công cụ nói trên. Tại Nhật Bản, Luật công cụ tài chính và Sở giao dịch (FIEL) thay thế cho Luật Chứng khoán và Sở giao dịch năm 2007, kế thừa phiên bản trước, Điều 2 (Định nghĩa thuật ngữ) FIEL cũng đưa ra một danh mục các sản phẩm điều chỉnh - chứng khoán và công cụ phái sinh - tuy nhiên đã mở rộng phạm vi điều chỉnh ra đối với hơn 20 chứng khoán bao gồm trái phiếu Kho bạc, trái phiếu công ty, chứng chỉ cổ phiếu, chứng chỉ quyền lợi/lợi ích đối với quỹ tín thác. Ngoài những công cụ được liệt kê trong danh mục, câu cuối cùng của Điều 2 cho phép bao quát các chứng khoán hay chứng chỉ khác nếu "cần thiết để đảm bảo lợi ích hay để bảo vệ nhà đầu tư". Luật về chứng khoán và Sở giao dịch của Hàn Quốc, Chương 1, Điều 2 (Định nghĩa thuật ngữ) trong phiên bản sửa đổi năm 2002 quy định: Thuật ngữ "chứng khoán" trong luật này có nghĩa là những công cụ dưới đây: Trái phiếu Chính phủ; Trái phiếu chính quyền địa phương; Trái phiếu phát hành bởi công ty được thành lập theo Đạo luật cụ thể; Trái phiếu công ty; Các chứng chỉ tham gia/đóng góp phát hành bởi công ty được thành lập theo Đạo luật cụ thể; Chứng chỉ cổ phiếu hay các công cụ đại diện cho quyền mua ưu tiên; Các chứng chỉ hay công cụ do doanh nghiệp nước ngoài phát hành, có cùng bản chất với các công cụ được liệt kê từ khoản 1 đến khoản 6 Điều này; Chứng chỉ lưu ký chứng khoán phát hành bởi đối tượng được quy định trong Nghị định (Presidential Decree) trên cơ sở chứng chỉ/công cụ gốc do doanh nghiệp nước ngoài phát hành…, và Các chứng chỉ/công cụ khác được quy định trong Nghị định (Presidential Decree) có tính chất tương tự hay liên quan đến các công cụ liệt kê từ khoản 1 đến khoản 8 Điều này. 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan