TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======
PHẠM THỊ NGÁT
KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT
TRONG CHUYỆN CŨ HÀ NỘI
CỦA TÔ HOÀI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. LA NGUYỆT ANH
HÀ NỘI – 2016
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình triển khai khóa luận tôi nhận được sự giúp đỡ, hướng
dẫn của tiến sĩ La Nguyệt Anh, các thầy cô trong Tổ Bộ môn văn học Việt
Nam. Nhân khóa luận hoàn thành tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Tiến
sĩ, giảng viên La Nguyệt Anh, cùng toàn thể thầy, cô giáo. Do khuôn khổ thời
gian có hạn, năng lực nghiên cứu của bản thân còn hạn chế, chắc chắn không
tránh khỏi sự thiếu sót, tôi mong tiếp tục nhận được sự giúp đỡ của các thầy
cô cùng toàn thể bạn bè để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, ngày 11 tháng 5 năm 2016
TÁC GIẢ
PHẠM THỊ NGÁT
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan:
1. Khóa luận Không gian nghệ thuật trong Chuyện cũ Hà Nội của Tô
Hoài là công trình nghiên cứu của của riêng tôi, có tham khảo ý kiến của
những người đi trước. Dưới sự hướng dẫn khoa học trực tiếp của Tiến sĩ,
giảng viên La Nguyệt Anh.
2. Khóa luận không sao chép từ một tài liệu, công trình có sẵn nào.
Hà Nội, ngày11 tháng 5 năm 2016
Tác giả khóa luận
PHẠM THỊ NGÁT
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................ 4
4. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 4
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 5
6. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 5
7. Đóng góp của khóa luận ............................................................................ 5
8. Cấu trúc khóa luận ..................................................................................... 5
NỘI DUNG ...................................................................................................... 6
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .......................................................... 6
1.1. Những vấn đề lí luận .............................................................................. 6
1.1.1. Khái niệm không gian và không gian nghệ thuật............................. 6
1.1.1.1. Khái niệm không gian ................................................................... 6
1.1.1.2. Không gian nghệ thuật .................................................................. 6
1.1.2. Các hình thức tồn tại của không gian nghệ thuật ............................. 7
1.1.2.1. Không gian nghệ thuật trong văn học dân gian ............................. 7
1.1.2.2. Không gian nghệ thuật trong văn học viết trung đại ..................... 8
1.1.2.3. Không gian trong văn học hiện đại................................................ 8
1.2. Giới thiệu chung về nhà văn Tô Hoài .................................................... 9
1.2.1. Tác giả Tô Hoài ................................................................................ 9
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác.......................................................................... 11
1.3. Tô Hoài với tác phẩm Chuyện cũ Hà Nội ............................................ 15
1.3.1. Tô Hoài với đề tài Hà Nội .............................................................. 15
1.3.2. Chuyện cũ Hà Nội - tập kí sự độc đáo............................................ 17
Chương 2. NHỮNG KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT ĐẶC TRƯNG TRONG
CHUYỆN CŨ HÀ NỘI CỦA TÔ HOÀI ......................................................... 19
2.1. Không gian nội đô Hà Nội ................................................................... 19
2.1.1. Không gian sinh thái nội đô............................................................ 19
2.1.2. Không gian sinh hoạt, phong tục nội đô......................................... 20
2.1.3. Không gian văn hóa phố nghề ........................................................ 32
2.2. Không gian ngọai đô Hà Nội ................................................................ 36
2.2.1. Không gian sinh thái ngoại đô ........................................................ 36
2.2.2. Không gian sinh hoạt, phong tục ngoại đô ..................................... 41
2.2.3. Không gian văn hóa làng nghề ....................................................... 50
KẾT LUẬN .................................................................................................... 53
TƯ LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Tô Hoài một cây bút văn xuôi quan trọng trong nền văn học Việt
Nam, là một trong số những nhà văn có nhiều đóng góp to lớn cho sự phát
triển của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Đánh giá về sự nghiệp của nhà văn Tô Hoài, nhà phê bình Phạm Xuân
Nguyên nói: “Tô Hoài là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện
đại, người có 95 tuổi đời nhưng đã có 70 năm đóng góp cho văn học. Ông là
nhà văn chuyên nghiệp, bền bỉ sáng tác và có tác phẩm đồ sộ. Ông cũng nổi
tiếng từ rất sớm với tác phẩm. Dế mèn phưu lưu ký. Văn chương của ông
hướng về cuộc đời, số phận con người lấm láp đời thường. Ông ra đi vì tuổi
đời nhưng văn chương của ông vẫn còn nguyên giá trị.”
1.2. Hà Nội mảnh đất “phồn hoa đô hội”, “nghìn năm văn hiến” đã đi
vào từ lịch sử đến thơ ca in đấu ấn trên nhiều phương diện từ văn hóa vật chất
đến văn hóa tinh thần. Đề tài về Hà Nội đã từng được viết bởi được nhà văn
Nguyễn Tuân với những nét hào hoa, một Hà Nội nhiều màu sắc tươi mát,
lãng mạn của Vũ Bằng với “mùa xuân của Hà Nội là mùa xuân có mưa liêu
riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh” hay một Hà Nội của
Thạch Lam với những món ăn tinh tế, những kí ức ấm áp ngày tết, với đêm
đông, gió lạnh …Riêng đối với Tô Hoài từ một cách nghe, cách cảm xúc một
cách nhìn, gương mặt, tâm hồn của những con người Hà Nội xưa, đã chạm
vào tầng sâu của đời sống con người, trải qua những năm tháng tích lũy vốn
sống, kinh nghiệm, Tô Hoài đã tạo nên những nhận thức mới về mảnh đất
Thăng Long xưa qua không gian thật đặc sắc và ấn tượng.
1.3. Sáng tác của Tô Hoài rất phong phú trên nhiều lĩnh vực. Ông viết
truyện ngắn bút kí, tiểu thuyết, lí luận, viết kinh nghiệm sáng tác và viết cho
thiếu nhi.Tô Hoài là người hiểu biết rộng, sự hiểu biết của ông bao trùm nhiều
1
mặt của xã hội. Đối với đề tài về Hà Nội ông đã để lại một dấu ấn thật đặc
biệt trong mắt bạn đọc, là người Hà Nội mảnh đất và con người nơi đây đã tạo
cảm hứng và định hướng nghệ thuật cho nhà văn từ những ngày đầu cầm bút.
Cho đến hôm nay, khi Tô Hoài đã mất nhưng dấu ấn mà Hà Nội được thể hiện
qua trang viết của Tô Hài vẫn còn nguyên giá trị.
Sức hấp dẫn về sáng tác của Tô Hoài nói chung và tác phẩm Chuyện cũ
Hà Nội của Tô Hoài nói riêng đã thôi thúc em lựa chon đề tài Không gian
nghệ thuật trong Chuyện cũ Hà Nội. Trên cơ sở khám phá Không gian nghệ
thuật tập kí sự đặc biệt của nhà văn là một việc cần thiết góp phần vào gìn giữ
và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của mảnh đất Thăng Long xưa, và
đồng thời làm rõ hơn nghệ thuật văn chương của một cây bút giàu nội lực với
nhiều tâm huyết của nền văn học Việt Nam hiện đại.
2. Lịch sử vấn đề
Việc nghiên cứu về không gian nghệ thuật một cách có ý thức chỉ xuất
hiện từ sau khi có thi pháp học hiện đại được các nhà nghiên cứu giới thiệu và
vận dụng phổ biến ở Việt Nam. Trong khuôn khổ của một khóa luận chúng
tôi cố gắng tìm hiểu những ý kiến của các nhà nghiên cứu về vấn đề không
gian nghệ thuật nói chung.
Bên cạnh Dế mèn phưu lưu ký và những trang văn viết cho thiếu nhi,
bút ký…, Tô Hoài có một kho báu văn chương về Hà Nội – Nhà phê bình
Phạm Xuân Nguyên nói “nhờ ông, một người chưa biết về Hà Nội chỉ đọc
riêng các sách của ông về chốn kinh thành này thôi đã đủ để hiểu Hà Nội là
gì và Kẻ Chợ là thế nào”
Nhà văn Hoàng Việt nhận xét: “nói đến Tô Hoài, người ta nghĩ đến một
nhà văn có chất riêng của người Hà Nội, sống với Hà Nội, gắn bó với Hà Nội
và viết về Hà Nội. Ông thuộc rất nhiều ca dao tục ngữ, truyền thuyết dân
gian, những câu chuyện kể rất bình thường, về con người Hà Nội, cuộc sống
2
Hà Nội. Có thể nói trong ông có một kho tàng bách khoa về cuộc sống và con
người Hà Nội”.
Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến – Hội viên hội nhà văn Hà Nội nói: “bản
lĩnh và phẩm chất văn chương của Tô Hoài đã thuyết phục được nhiều người,
nhiều thế hệ với hàng trăm tác phẩm văn học đã làm rạng rỡ tên tuổi ông và
là niềm tự hào của văn hóa Thăng Long - Hà Nội”
Trong giới cầm bút ông nổi tiếng là người đi nhiều, để rồi sau những
chuyến đi ấy, ông lại trở về với thành phố thân yêu của mình. Trong lòng Hà
Nội, Tô Hoài sống với gia đình bạn bè, cũng trong lòng xã hội đóTô Hoài trở
về với thế giới sáng tác. Đến nay Tô Hoài đã đi xa, nhưng văn chương của
ông, những con chữ trên trang sách của ông vẫn tiếp tục cuộc hành trình lâu
dài cùng người đọc. Riêng về Hà Nội, ông có cả chục tập sách trong đó không
thể không nhắc tới Chuyện cũ Hà Nội, và nếu như có dịp đặt chúng bên nhau,
độc giả sẽ nhận ra nét đặc biệt trong tình yêu của nhà văn với vùng đất địa
linh nhân kiệt. Đọc các sáng tác của Tô Hoài - một người con Hà Nội, để hiểu
Hà Nội hơn, yêu Hà Nội hơn.
Trong lời giới thiệu về Chuyện cũ Hà Nội, nhà Hà Nội học Nguyễn
Vinh Phúc khẳng định: “Có thể coi đó là một thứ Vũ trung tùy bút thời hiện
đại, vì với những mẩu chuyện không dài, Tô Hoài với tư cách là một nhân
chứng đã ghi lại muôn mặt đời thường của cái Hà Nội thời thuộc Tây. Tuy
mới qua sáu bảy chục năm mà dường như không mấy ai nhớ nữa, thậm chí đã
trở thành chuyện đời xưa”.
Hay theo Vương Trí Nhàn thì tác giả viết về Hà Nội thật là nhiều. Song
có lẽ chỉ có Tô Hoài là mang lại được cái chất riêng của vùng đất mà mình đã
từ đó trưởng thành. Và giữ được cái chất đó, trong suốt cuộc đời cầm bút.
Trong sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài, tác phẩm Chuyện cũ Hà Nội có
vai trò quan trọng. Tác phẩm này đã được Uỷ ban nhân thành phố Hà Nội
3
tặng giải thưởng Thăng Long năm 1997- 1998 và coi đó là một tập kí sự đặc
biệt có giá trị về Hà Nội trong khoảng chục năm trở lại đây. Đúng là chuyện cũ,
chuyện của những ngày tháng thuộc địa với cái đời sống mệt mỏi, song không
nhạt hay lạc lõng với bạn đọc ngày hôm nay. Bởi nó không chỉ là một tập kí sự
mà còn được đánh giá như một cuốn biên khảo về văn hóa, phong tục tập quán,
hội hè đình đám và thậm chí là công trình nghiên cứu về xã hội học.
Cho đến nay, có rất nhiều những công trình nghiên cứu về tác giả Tô
Hoài, nhưng vấn đề Không gian trong văn ông thì rất ít hầu như chưa có gì là
hệ thống sâu sắc. Chỉ có một vài ý kiến của các nhà phê bình được nằm rải rác
trong các công trình nghiên cứu mang tính chất khái quát, giới thiệu, mà chưa
thực sư đi vào nghiên cứu chuyên biệt. Người ta chú ý nghiên cứu tìm hiểu về
thân thế sự nghiệp Tô Hoài sự biểu hiện cảm quan hiện thực qua các tác phẩm
của ông.
Tuy nhiên dù ít, dù nhiều những công trình nghiên cứu cùng với tìm
hiểu về cuộc đời nhà văn, bài viết về Không gian có tính chất lí luận mở
đường, định hướng cho đề tài chúng tôi. Trên cơ sở ấy cùng nghiên cứu về
con người, sự nghiệp, nhất là khám phá Không gian nghệ thuật trong Chuyện
cũ Hà Nội chúng tôi sẽ làm nổi bật nét độc đáo sáng tạo và phong cách sáng
tác của nhà văn Tô Hoài.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu Không gian nghệ thuật trong Chuyện cũ Hà Nội của nhà
văn Tô Hoài.
Qua tìm hiểu về Không gian nghệ thuật trong Chuyện cũ Hà Nội sẽ làm
nổi bật nên nét độc đáo trong phong cách nghê thuật của nhà văn.
4. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở thống kê phân lọai so sánh hướng tới mục đích tìm hiểu một
cách cụ thể về “Không gian nghệ thuật trong Chuyện cũ Hà Nội ” của nhà
văn Tô Hoài.
4
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng là tập Chuyện cũ Hà Nội của nhà văn Tô Hoài gồm 114
chuyện.
Phạm vi nghiên cứu là Không gian nghệ thuật trong Chuyện cũ Hà Nội.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thống kê phân loại.
Phương pháp phân tích.
Phương pháp nghiên cứu liên nghành.
Phương pháp so sánh đối chiếu.
7. Đóng góp của khóa luận
Tìm hiểu Không gian nghệ thuật trong Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài
nhằm làm nổi bật phong cách sáng tác nghệ thuật cũng như những đóng góp
của Tô Hoài nói chung về đề tài Hà Nội.
8. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tư tiệu tham khảo, phần nội dung chính
của khóa luận gồm hai chương chính:
Chương 1: Những vấn đề chung.
Chương 2: Những không gian nghệ thuật trong Chuyện cũ Hà Nội của
Tô Hoài
5
NỘI DUNG
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Những vấn đề lí luận
1.1.1. Khái niệm không gian và không gian nghệ thuật
1.1.1.1. Khái niệm không gian
Không gian là một khái niệm thuộc phạm trù triết học, là hình thức tồn
tại của vật chất. Trong cuộc sống không có gì có thể tồn tại ngoài không gian
và thời gian. Con người luôn phải tồn tại thể hiện tính xác định của mình
trong thế giới khách thể lớn đó một chiều không gian và một chiều thời gian.
Không gian là một định lượng có thể xác định quá trình tồn tại vận
động và phát triển của mọi sự vật, sự việc trong thế giới tự nhiên. Không gian
là hình thức tồn tại cơ bản của thế giới vật chất.
Trong cuốn Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê đã cắt nghĩa, lí giải về
không gian “Không gian là khoảng không bao trùm lên tất cả sự vật hiện
tượng xung quanh đời sống con người” .
1.1.1.2. Không gian nghệ thuật
Để hiểu được khái niệm không gian nghệ thuật một cách cơ bản và khái
quát chúng tôi xin được viện dẫn cách hiểu của Lê Bá Hán trong cuốn Từ điển
thuật ngữ văn học “Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình
tượng nghệ thuật, thể hiện tính chỉnh thể của nó”. Sự miêu tả, trần thuật trong
nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn , diễn ra trong trường
nhìn nhất định , qua đó thế giới nghệ thuật cụ thể, cảm tính bộc lộ toàn bộ
quán tính của nó: Cái này bên cạnh cái kia, liên tục, cách quãng, tiếp nối, cao,
thấp, xa, gần, rộng, dài, tạo thành viễn cảnh nghệ thuật. Không gian nghệ
thuật gắn với cảm thụ về không gian, nên mang tính chủ quan.
6
1.1.2. Các hình thức không gian nghệ thuật trong văn học
1.1.2.1. Không gian nghệ thuật trong văn học dân gian.
Đặc điểm chung trong sáng tác văn học dân gian là ba giới, ba tầng, ba
cõi: thượng giới, trần gian, và địa ngục, với thần linh, người, ma quỷ.Ở đó,
con người có thể tự do đi lại trong ba cõi mà ít gặp sự trở ngại nào. Đó chính
là tính chất tôn giáo trong văn học dân gian.
Không gian thần thoại: Không gian có tính chất đặc thù là tính nguyên
sơ hoang dã, không gian vũ trụ là cõi hồng hoang âm u, lạnh lẽo vắng bóng
con người, “ban ngàylà một cõi hỗn độn mờ mịt, tối tăm, lạnh lẽo. Từ cõi hỗn
độn ấy, thần Trụ Trời xuất hiện, ông lấy đầu đội trời cao lên và dùng chân đạp
đất xuống thấp” (Thần Trụ trời).
Không gian sử thi: Đó là không gian mang tính chất thần thoại, hư ảo,
kì diệu, không gian thay đổi theo ý thức của thần linh, xong không gian mang
tính địa vực. Trong Iliat và ôđixê của Home nổi bật lên là không gian của các
hòn đảo, không gian của các chiến trường rộn lớn, trời đất bao la...
Không gian trong truyện cổ tích: Là sự say đắm trong những giấc mơ
ngọt ngào của người xưa, là ước mơ về một cuộc sống ấm no, không còn
những áp bức bất công. Bởi thế không gian ở đây có đặc tính là ít tính chống
đối của môi trường vật chất - tính siêu dẫn của không gian. Ở đó con người có
thể tự do hoạt động tự do di chuyển mà không gặp trở ngại và luôn có sự giúp
đỡ của lực lượng thần kì, siêu nhiên.
Không gian trong ca dao: ca dao là tiếng nói chân thật của tình cảm,
của những người lao động, là cây đàn muôn điệu, là dòng sữa trong lành nuôi
ta khôn lớn. Không gian trong ca dao là không gian sinh hoạt không gian lao
động của con người.
7
1.1.2.2. Không gian nghệ thuật trong văn học viết trung đại.
Trung đại là một phạm trù văn học lớn, sự đa dạng của không gian nghệ
thuật trong các thể loại với các tác giả khác nhau. Nét chung của không gian
nghệ thuật là không gian vũ trụ, gắn liền với tính bất biến của không gian.
Không gian vũ trụ được tạo nên từ nhật, nguyệt, mây, sao, sông, núi, chim,
muông, cây cỏ. Con người tìm về thiên nhiên vũ trụ như tìm về nguồn cội
(Trần Đình Sử). Bên cạnh đó không gian cũng mang tính nhàn tản, thoát tục,
gợi lên cuộc sống bình dị thanh nhàn của con người trong thế giới tự nhiên như
bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm, và không gian nhgệ thuật cũng mang
tính chất ước lệ tượng trưng có thế giới và nó có sự đối lập không gian cố
hương với tha hương, hay đồng quê ngọt ngào với xa lạ lạnh lùng.
Theo dòng chảy của thời gian thì không gian trong văn học viết trung
đại cũng được “trần tục hóa”,trong thơ của bà chúa thơ nôm Hồ Xuân Hương
đã miêu tả được những địa danh trong cảm quan “văn hóa phồn thực” hay
“thế tục hóa” trong thơ của Nguyễn Khuyến với không gian làng quê yên
tĩnh, cùng những cảnh phố xá, cao lâu buôn bán chợ búa..
1.1.2.3. Không gian trong văn học hiện đại.
Sự đổi thay trong quan niệm cá nhân, xã hội, không gian nghệ thuật
trong văn học đã thay đổi. Bên cạnh kế thừa các kiểu không gian nghệ thuật
trên, ở giai đoạn này không gian nghệ thuật phong phú và đa dạng hơn. Đến
với các tác giả văn học hiện đại không không gian nghệ thuật mang tính khái
quát cao, phạm vi phản ánh rộng lớn. Đó là không gian xã hội, không gian
con người phải vật lộn với cuộc sống đầy sóng gió. Không gian nghệ thuật
mang tính cá nhân trong thời đại này cũng phản ánh cuộc sống, số phận từng
các nhân trong mối quan hệ hữu cơ với cuộc sống vì vậy không gian cũng
mang đậm dấu ấn cá nhân như trong phong trào thơ Mới chúng ta thấyđó
không gian nhỏ hẹp, quẩn quanh, bế tắc thường gằn liền với tình yêu và nỗi
8
buồn. Với Chế Lan Viên là không gian nghệ thuật đầy hư ảo mộng mị, ma
quái kinh dị, với những máu, tủy, sọ người cùng những tiếng rên than… hay
lạc vào không gian chốn quê bình yên thơ mộngtrong thơ Nguyễn Bính với
giậu mồng tơi, đàn bướm lượn vòng. “Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay/ Hoa
xoan lớp lớp rụng rơi đầy”.
Không gian nghệ thuật trở về gần hơn với cuộc sống con người lao
động, số phận kém may mắn. Con người hiện lên với vai trò là nhân vật trung
tâm của bức tranh cuộc sống, bám sâu vào hiện thực để phản ánh chân thực
những nỗi khổ nhọc nhằn vất vả của con người trên hành trình mưu sinh
(Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu).
Tóm lại không gian nghệ thuật là một phạm trù lớn có vị trí quan trọng
trong việc thể hiện tính cách nhân vật, tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Đó là
một phạm trù quan trọng của thi pháp học, là phương tiện chiếm lĩnh đời sống
bằng hình tượng nghệ thuật về cuộc sống. Không gian nghệ thuật góp phần
thể hiện quan điểm nghệ thuật của mỗi nhà văn.
Không gian nghệ thuật luôn có sự biến đổi theo dòng chảy của văn học.
Xong chỉ đến với văn học hiện đại không gian mới gần gũi với cuộc sống của
cá nhân con người, đi sâu phản ánh hiện thực cuộc sống với những nỗi vất vả
nhọc nhằn, không gian nghệ thuật được cá thể hóa.
1.2. Giới thiệu chung về nhà văn Tô Hoài
1.2.1. Tác giả Tô Hoài
Tô Hoài một trong những cây bút văn xuôi tiêu biểu của văn học Việt
Nam hiện đại. Ông tên thật là Nguyễn Sen, sinh ngày 27 tháng 9 năm 1920
trong một gia đình thợ thủ công nghèo tại quê ngoại làng Nghĩa Đô, phủ Hoài
Đức, tỉnh Hà Đông, nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy Hà Nội. Quê
nội tác giả ở thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. Ông có nhiều
bút danh như: Mai Trang, Mắt Biển, Thái Yên, Vũ Đột Kích, Duy Phương,
9
Hồng Hoa… bút danh được ông tâm đắc nhất và rất quen thuộc với độc giả là
Tô Hoài. Cái tên mà tác giả đã mượn con sông Tô Lịch và phủ Hoài Đức làm
nên bút danh cho mình.
Xuất thân trong một gia đình thợ thủ công nghèo, Tô Hoài chỉ được học
hết bậc tiểu học rồi sớm trở thành anh thợ cửi, sau đó phải kiếm sống bằng
nhiều nghề: bán hàng, dạy học, kế toán, coi kho và từng trải qua những ngày
thất nghiệp tủi nhục không một đồng xu dính túi. Có thể nói sinh ra và lớn lên
ở vùng quê mang những đặc điểm nổi bật với những làng nghề thủ công
truyền thống. Những không gian hiện thực của quê hương làng nghề chính là
chất liệu hết sức quý báu mà sau này đã in đậm trên từng trang viết của ông.
Tô Hoài đến với nghề văn hết sức tự nhiên bằng một số bài thơ lãng
mạn. Ông sớm nhận ra đây không phải là mảnh đất “canh tác” của mình và
nhanh chóng chuyển sang “cánh đồng ” văn xuôi. Ở đây, ông đã phát huy triệt
để năng khiếu và sở trường của mình. Tác phẩm đầu tay của Tô Hoài là Nước
lên (1940), Giăng thề (1941), Dế mèn phưu lưu ký (1941), O chuột (1942).
Trong đó Dế mèn phưu lưu ký được bạn đọc chú ý hơn cả.
Tô Hoài sớm tham gia hoạt động chính trị. Trước cách mạng tháng
Tám, thời kỳ Mặt trận Dân chủ, ông đã tích cực tham gia phong trào Ái hữu
thợ dệt ở Hà Đông và Thanh niên dân chủ ở Hà Nội. Năm 1943, Tô Hoài
tham gia Hội Văn hóa cứu quốc, hoạt động tuyên truyền Việt minh, viết báo
bí mật.
Sau cách mạng tháng Tám 1945, Tô Hoài làm báo cứu quốc - cơ quan
của tổng bộ Việt Minh. Ông đi vào mặt trận phía nam, tới Tuy Hòa, Nha
Trang, lên chiến trường Tây Nguyên rồi xuống mặt trận An Khê. Tháng 10
năm 1946 ông được vinh dự đứng trong hàng ngũ của Đảng Cộng Sản. Kháng
chiến toàn quốc, Tô Hoài lên Việt Bắc tiếp tục làm báo, sau đó ông công tác
tại Hội văn nghệ Việt Nam. Năm 1949 ông tham gia chiến dịch sông Thao.
10
Năm 1950, ông lại đi chiến dịch Biên Giới. Năm 1952, ông theo bộ đội chủ
lực tiến vào giải phóng Tây Bắc. Những chuyến đi ấy đã giúp ông trưởng
thành về mặt tư tưởng và tạo cho ông vốn sống phong phú.
Năm 1957 trong Đại hội thành lập Hội Nhà văn Việt Nam , ông được
bầu làm Tổng thư kí Hội nhà văn, từ năm 1958 là phó Tổng thư kí. Ông liên
tục tham gia ban chấp hành Hội nhà văn đến năm 1980, ông còn là ủy viên
Đoàn chủ tịch Uỷ ban Liên hiệp văn học nghệ thuật, từng làm Gám đốc Nhà
xuất bản Hội nhà văn và Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn. Trong một thời gian
dài từ năm 1969 đến 1996 ông giữ chức Chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội.
Vì thế sau cách mạng tháng Tám khi mà còn nhiều nhà văn còn đang
lúng túng nhận đường thì Tô Hoài đã lần lượt cho ra mắt bạn đọc hàng loạt
tác phẩm có giá trị và trong đó chúng ta không thể không nhắc tới “Chuyện
cũ Hà Nội”.
Những thăng trầm và biến cố cuộc đời từng trải của một con người
sống gần trọn một thế kỉ luôn lao động cần mẫn và bề bỉ ông đã để lại cho bạn
đọc những tác phẩm vô cùng ý nghĩa và sâu sắc khiến cho người đọc phải suy
ngẫm.
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác
Nhìn lại toàn bộ cuộc đời văn học của Tô Hoài, Giáo sư Phong Lê từng
khẳng định rằng: “Tô Hoài là một trong những tác gia lớn nhất của thế kỉ XX.
Ông thuộc thế hệ vàng mà tôi quan niện thế hệ sinh năm 20, từ năm 1920
thuộc về trước. Đó là thế hệ vàng của văn chương hiện đại, làm nên ngoạn
mục nhất của văn học thế kỉ 20 - làm nên mùa màng 1903-1945, cùng với
Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Xuân Diệu, Huy Cận. Ông
cũng là người hiếm hoi nhất còn lại của thế hệ ấy, cùng với nhà thơ Nguyễn
Xuân Sanh”.
11
Tô Hoài được biết đến trong dư luận xã hội như một nhà văn thân thuộc
của nhiều thế hệ bạn đọc nhất là trẻ em. Kể từ khi cho ra đời những tác phẩm
đầu tiên đến nay, ông đã có quá trình hơn 70 năm cầm bút: Tuổi viết hiếm có
rất đáng nể trọng. Nhà văn lão thành Tô Hoài có vị trí đặc biệt trong nền văn
học Việt Nam hiện đại. Ông từng cầm bút và nổi danh trước năm 1945, nhưng
hầu như sự nghiệp văn học chủ yếu lại được khẳng định trong vòng 55 năm
dưới chế độ cách mạng. Với khối lượng tác phẩm đồ sộ gồm đủ các thể lọai:
Truyện ngắn, tiểu thuyết, phóng sự, hồi kí, bút kí…Trong đó có nhiều tác
phẩm đặc sắc. Tô Hoài xứng đáng được coi là cây bút văn xuôi lực lưỡng bậc
nhất có nhiều đóng góp quan trọng vào tiến trình văn học mới. Ông là nhà văn
có bản lĩnh nghệ thuật vững vàng, nêu cao tấm gương lao động cần mẫn, bền
bỉ và giàu sáng tạo.
Tô Hoài vào nghề bằng truyện ngắn Nước Lên (1940). Cho đến nay đã
ra đi nhưng 70 năm cầm bút ông đã để lại trên 160 đầu sách. Đây là con số mà
không phải nhà văn nào cũng đạt được. Hành trình sáng tác của Tô Hoài được
chia làm hai giai đoạn trước và sau cách mạng tháng Tám. Mỗi chặng đường
sáng tác Tô Hoài có những thành tựu nổi bật riêng nhưng tựu trung lại, vẫn
viết chủ yếu về hai vùng đề tài lớn là Hà Nội và miền núi, vẫn thống nhất
trong một cảm quan hiện thực đời thường và một nghệ thuật thể hiện mang
đậm phong cách tác giả.
Trước cách mạng 1945: Đối tượng trong sáng tác của Tô Hoài giai
đoạn này là loài vật và cuộc sống, con người ở vùng quê nghèo làm nghề thủ
công ở ven thành.
Truyện về loài vật: Dế mèn phưu lưu ký, Một cuộc bể dâu, Dê và lợn,
Ba an em, Võ sĩ bọ ngựa, Đám cưới chuột, Trê và cóc. Mỗi truyện viết về loài
vật Tô Hoài đã phản chiếu những cá tính, những phẩm chất và thói tật, những
tốt - xấu, dở - hay trong trạng thái tự nhiên của con người.
12
Truyện về vùng quê ven thành: Trước cách mạng Tô Hoài viết về vùng
quê làng Nghĩa Đô và các khu vực lân cận như Bưởi, Trích Sài,Thụy Khê,
Võng Thị… ở đó có cuộc đời của những người nông dân, thợ thủ công lam lũ.
Ông khác với những nhà văn hiện thực đương thời , không đề cập đến những
,mâu thuẫn giai cấp sục sôi, quyết liệt, nhưng không xây dựng những hình
tượng điển hình, nông dân và địa chủ, Tô Hoài viết về những chuyện đời
thường với những con người thật bình thường, con người ít bị đẩy tới tận
cùng của những bi thương sầu thảm. Con người trong sáng tác của ông có nỗi
khổ đau, có niềm bất hạnh, thậm chí có cả con người tha hóa trong mỗi con
người, cái phần “thiên lương” vẫn còn tiềm ẩn: Nhà nghèo, Quê người, Ông
cúm bà co
Sau cách mạng 1945: Không chỉ tiếp tục viết về đề tài Hà Nội Tô Hoài
còn sáng tác về đề tài miền núi và đã gặt hái được những thành tựu đáng kể
Tô Hoài tiếp tục viết về Hà Nội nhưng có sự mở rộng không gian nghệ
thuật: không gian ngoại đô và không gian nội đô Hà Nội. Trong đó nhiều tác
phẩm đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc và đến nay vẫn còn
nguyên giá trị sâu sắc: Mười năm (tiểu thuyết - 1958), Quê nhà (tiểu thuyết1980), Những ngõ phố, người đường phố (tiểu thuyết - 1982), Chuyện cũ Hà
Nội (truyện -1998), Người ven thành (Tập truyện -1972)
Ở đề tài miền núi: Chính đề tài miền núi đã đem đến nhiều vinh quang
cho sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài, mở ra một chặng đường mới cho văn học
viết về đề tài miền núi. Cách mạng tháng Tám thành công mở ra một chặng
đường mới cho ngòi bút của Tô Hoài. Ông có điều kiện thâm nhập vào cuộc
sống của đồng bào dân tộc miền núi, sống nhiều cùng với đồng bào dân tộc
Tày, Dao ở Việt Bắc; Mường, Thái,Mông ở Tây Bắc… cảm quan hiện thực
đời thường khiến Tô Hoài am hiểu nhanh chóng và sâu sắc phong tục, phong
cách sinh hoạt của các đồng bào dân tộc nơi đây. Tiêu biểu với hàng loạt các
13
tác phẩm như: Núi cứu quốc (tập truyện - 1948), Truyện Tây Bắc (Tập truyện
- 1953), Miền tây (tiểu thuyết - 1967), Lên Sùng Đô (bút kí Họ hàng ở Phìn Sa
(tiểu thuyết -1984), Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ (Tiểu thuyết - 1971). Tác phẩm
của ông đã tạo nên sự đối sánh giữa hai cuộc đời cũ - mới trên chất liệu những
phong tục, những cảnh sinh hoạt hàng ngày với những tập tục tồn tại lâu đời
trong đời sống sinh hoạt của các dân tộc mền núi. Từ đó nhà văn khai thác
triệt để, để tạo dấu ấn riêng trên từng trang sách của mình.
Sáng tác cho thiếu nhi cũng là một trong những đề tài khá phong phú
mà tác giả Tô Hoài đã dành một khối lượng tác phẩm lớn tiêu biểu nhất là Dế
mèn phưu lưu kí một trong những tác phẩm đặc sắc và được dịch ra nhiều thứ
tiếng, ngoài ra còn có Con mèo lười, Cá đi ăn thề, Đàn chim gáy, Chim chích
lạc rừng,Cậu miu, Vừ A Dính (195..), Kim Đồng (196...), Đảo Hoang (Tiểu
thuyết-1980), Chuyện Nỏ Thần (tiểu thuyết - 1984), Nhà Chử (tiểu thuyết1985), tuyển tập văn học thiếu nhi (truyện - 2 tập - 1999).
Đề tài cá nhân trong các hồi kí và tự truyện. Trong sự nghiệp sáng tác
của Tô Hoài, hồi kí là thể loại in đậm phong cách nghệ thuật của tác giả.với các
tác phẩm như: Cỏ Dại, Tự truyện, Cát bụi chân ai, Chiều chiều những kỉ niệm
vui buồn được hiện lên qua nhiều cung bậc trong sự tồn tại khách quan qua lăng
kính cảm quan đời thường của nhà văn.
Ngoài những đề tài trên Tô Hoài còn có một số tác phẩm lí luận, kinh
nghiệm sáng tác: Một số kinh nghiệm viết văn của tôi (1959), Người bạn đọc
ấy (1963), Sổ tay viết văn (1977), Nghệ thuật và phương pháp viết văn
(1997)...
Với gia tài đồ sộ của mình, cho đến nay Tô Hoài là nhà viết văn xuôi có
tác phẩm nhiều nhất trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Hơn nửa thế kỉ
sáng tác không biết mệt mỏi, ông đã dành toàn bộ tâm huyết, sức lực của
mình cho nghệ thuật. Mỗi chặng đường sáng tác của Tô Hoài đều gắn với
14
những chặng đường lịch sử của xã hội Việt Nam. Trong hành trình dằng dặc
ấy, Tô Hoài đã tìm cho mình một con đường thể hiện riêng, một giọng điệu
riêng, một phong cách nghệ thuật riêng, Tô Hoài là nhà văn của người thường
của chuyện thường, của đời thường. Ông là cây bút lớn trong nền văn học
Việt Nam.
Những tác phẩm được giải thưởng của nhà văn: Truyện Tây Bắc - Giải
nhất tiểu thuyết của Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1960; Miền Tây - Giải
thưởng Bông Sen vàng của Hội Nhà văn Á- Phi năm 1970; Quê nhà - Giải A
của Hội Văn nghệ Hà Nội năm 1980; Chuyện cũ Hà Nội - Giải Thăng Long
năm 1998 - 1998.
Với nhiều đóng góp cho nền văn học nghệ thuật nước nhà. Ông là một
trong mười bốn nhà văn nhận giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1, năm 1996.
1.3. Tô Hoài với tác phẩm Chuyện cũ Hà Nội
1.3.1. Tô Hoài với đề tài Hà Nội
Cùng với những đề tài về miền núi hay đề tài viết cho thiếu nhi thì nhà
văn Tô Hoài cũng dành nhiều trang viết của mình về Hà Nội bằng một tình
yêu của một người Hà Nội, với cái nhìn đầy hiện thực đời thường qua chính
cuộc sống mà nhà văn đã từng trải qua. Điều ấy đã mang lại vinh quang cho
sự nghiệp sáng tác của ông. Ông viết bằng tất cả những gì chân thực nhất từ
lòng mình qua một loạt những sáng tác về Hà Nội bạn đọc có thể thấy được
Hà Nội qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử, một mảnh đất “quần ngư tranh
thực” được tái hiện rõ nét.
Nếu trước Cách mạng Tô Hoài chỉ viết về những “chuyện trong làng và
trong nhà, những cảnh và người của một vùng công nghệ đương xa sút, nghèo
khó” thì sau Cách mạng nhà văn mở rộng không gian và thời gian phản ánh,
Tô Hoài không chỉ viết về vùng “Kẻ Bưởi” mà còn viết về Hà Nội với “Băm
sáu phố phường”, không chỉ viết về cuộc sống hiện tại mà còn đi ngược dòng
15
- Xem thêm -