VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG TRỌNG LƯỢNG
KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU
CỦA BỊ HẠI TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Hà Nội - 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG TRỌNG LƯỢNG
KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU
CỦA BỊ HẠI TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380104
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM MINH TUYÊN
Hà Nội - 2020
LỜI CAM ĐOAN.
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Kết quả nghiên cứu nêu trong Luận văn chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và
đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Hoàng Trọng Lượng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài…………………………………………………...1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài………………………………...3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu………………………………………...5
3.1. Mục đích nghiên cứu…………………………………………………….5
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………………………5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu…………………………………………6
4.1. Đối tượng nghiên cứu…………………………………………………...6
4.2. Phạm vi nghiên cứu……………………………………………………..6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu………………………………..6
6. Ý nghĩa luận và thực tiến của Luận văn…………………………………..6
7. Kết cấu của Luận văn……………………………………………………...7
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN THEO
YÊU CẦU CỦA BỊ HẠI ........................................................................................... 8
1.1. Khái niệm khởi tố vụ án hình sự và khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu
của bị hại ............................................................................................................... 8
1.2. Đặc điểm, ý nghĩa của khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu bị hại ............... 13
1.3. Cơ sở việc quy định chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu củabị
hại trong pháp luật hình sự Việt Nam................................................................. 17
1.4. Quy định của PLTTHS Việt Nam về chế định khởi tố vụ án theo yêu
cầu của bị hại từ năm 1945 đến nay ................................................................... 20
Chương 2: KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CỦA BỊ HẠI
TRONG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH BẮC NINH .................................................................................................... 25
2.1. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại trong pháp luật hiện hành .. 25
2.2. Khái quát tình hình giải quyết vụ án liên quan đến khởi tố theo yêu cầu
bị hại trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh ........................................................................ 38
2.3. Những kết quả đạt được và một số tồn tại, hạn chế trong thực tiễn giải quyết
vụ án hình sự liên quan đến khởi tố theo yêu cầu của bị hại ................................... 39
2.4. Nguyên nhân của một số tồn tại, hạn chế trong thực tiễn giải quyết vụ
án hình sự khởi tố theo yêu cầu bị hại ................................................................ 56
Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI
QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ KHỞI TỐ THEO YÊU CẦU CỦA BỊ HẠI................ 59
3.1. Một số yêu cầu nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án hình sự khởi tố theo
yêu cầu của bị hại ............................................................................................... 59
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án hình sự khởi tố
theo yêu cầu của bị hại ....................................................................................... 60
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 74
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS: Bộ luật dân sự
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
CQTHTT: Cơ quan tiến hành tố tụng
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
TNHS: Trách nhiệm hình sự
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
PLTTHS: Pháp luật tố tụng hình sự
CQĐT: Cơ quan điều tra
VKS: Viện kiểm sát
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
TA: Tòa án
TAND: Tòa án nhân dân.
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: So sánh tình hình tội phạm khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị
hại với tình hình tội phạm hình sự nói chung trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai
đoạn từ năm 2015 đến năm 2019.
Bảng 2.2: Bảng so sánh số lượng vụ án và bị cáo theo các tội danh bị
khởi tố theo yêu cầu bị hại giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019.
Bảng 2.3: Bảng so sánh số vụ án bị đình chỉ do bị hại rút đơn với số vụ
án khởi tố theo yêu cầu bị hại đưa ra xét xử giai đoạn từ năm 2015 đến năm
2019.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong một số trường hợp nhất định, xuất phát từ quyền và lợi ích hợp
pháp của bị hại, pháp luật quy định cho phép bị hại lựa chọn quyền yêu cầu
khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự, những trường hợp này nếu khởi tố
vụ án, lợi ích về mặt xã hội có thể không lớn mà còn có khả năng làm tổn
thương thêm về mặt tinh thần cho bị hại. Vì vậy, nhà làm luật đã xác lập một
khả năng, điều kiện để bị hại cân nhắc, quyết định có quyền yêu cầu cơ quan
nhà nước có thẩm quyền xử lý về mặt hình sự đối với hành vi phạm tội hay
không. Đây là quy định có tính chất đặc trưng, thông qua việc cho phép bị hại
được lựa chọn cách xử lý đối với người gây thiệt hại cho mình, quy định này
trở thành cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị
hại trong tố tụng hình sự.
Quy định này được ghi nhận lần đầu tiên trong BLTTHS năm 1988 và
tiếp tục được hoàn thiện, bổ sung qua BLTTHS năm 2003, và gần đây nhất là
BLTTHS năm 2015. Trong đó, BLTTHS năm 2015 ra đời thay thế BLTTHS
năm 2003, đã bổ sung nhiều điểm mới tiến bộ hơn, hoàn thiện hơn về chế
định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại, góp phần bảo vệ quyền con người,
quyền của cơ quan, tổ chức bị thiệt hại trực tiếp do tội phạm gây ra.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu quy định của pháp luật và thực tiễn đấu
tranh phòng chống tội phạm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh cho thấy chế định
khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại vẫn còn nhiều điểm tồn tại, hạn chế như
phạm vi, chủ thể thực hiện quyền, thời điểm rút yêu cầu khởi tố, hậu quả pháp
lý của việc thực hiện khởi tố hoặc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, quyền và
nghĩa vụ của bị hại so với trường hợp thông thường... Theo thống kê của
TAND tỉnh Bắc Ninh trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019 số
lượng các vụ án được khởi tố trong nhóm này chiếm tỉ lệ cao trong số tội đưa
1
ra xét xử, cao nhất là vào năm 2017 với 197 vụ án, 238 bị cáo, chiếm tỉ lệ
23,2 % về số vụ và 14,1 % về số bị cáo. Bên cạnh những kết quả đạt được thì
vẫn còn một số trường hợp bị hại không hợp tác trong quá trình giải quyết vụ
án hình sự, đặc biệt đối với những vụ việc liên quan đến các tội cố ý gây
thương tích, hiếp dâm khi bị hại không hợp tác giám định, có trường hợp
CQĐT không thể ra quyết định khởi tố vụ án vì chưa có yêu cầu khởi tố của
bị hại, cũng không thể ra quyết định không khởi tố vụ án vì không có căn cứ,
vẫn còn thiếu sót trong quá trình thu thập chứng cứ, đặc biệt là tội danh như
hiếp dâm, cưỡng dâm, việc đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS
và quyết định hình phạt một số vụ án chưa tương xứng với tính chất và mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, trong các vụ án khởi tố theo
yêu cầu của bị hại...đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến nhận thức và áp dụng
pháp luật trong thực tiễn, làm giảm hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm,
bảo vệ quyền con người.
Trong khi, quy định khởi tố theo yêu cầu của người bị hại cũng đã được
nghiên cứu trong một số công trình khoa học như luận án, luận văn, sách
chuyên khảo...nhưng các công trình này chủ yếu được thể hiện một phần
trong kết quả của các công trình nghiên cứu khác về khởi tố vụ án hình sự, địa
vị pháp lý của bị hại, hoặc nghiên cứu trên phạm vi cả nước, hoặc trong bối
cảnh BLTTHS năm 2015 chưa có hiệu lực pháp luật. Tính đến nay, chưa có
công trình nào nghiên cứu chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại theo
quy định của BLTTHS năm 2015 trên địa bản một tỉnh là Bắc Ninh, trong
phạm vi từ năm 2015 đến năm 2019.
Xuất phát từ nhận thức và thực tế nêu trên, tác giả đã chọn đề tài:
“Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” để
làm để tài nghiên cứu cho Luận văn Thạc sĩ.
2
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan tới đề tài trên, cũng đã có nhiều tác giả đề cập trong nhiều
công trình nghiên cứu khác nhau như:
(i) Các công trình như sách chuyên khảo, giáo trình, bình luận khoa học
BLTTHS: Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), “Giáo trình Luật tố tụng hình
sự Việt Nam”, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Trường Đại học Luật thành
phố Hồ Chí Minh (2018),“Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Nxb
Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, Hà Nội; GS.TS. Võ Khánh Vinh (chủ
biên, 2011), “Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự”, Nxb Tư pháp, Hà
Nội; PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn (chủ biên, 2005), “Bình luận khoa học Bộ
luật tố tụng hình sự”, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; TS. Trần Văn Biên,
TS. Đinh Thế Hưng (2017), “ Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự”,
Nxb. Thế giới, Hà Nội; TS. Nguyễn Đức Mai (chủ biên, 2018), “Bình luận
khoa học Bộ luật tố tụng hình sự (hiện hành)”, Nxb Chính trị Quốc gia sự
thật, Hà Nội; TS. Phạm Mạnh Hùng (chủ biên, 2018) “Bình luận khoa học Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015”, Nxb Lao động, Hà Nội; v.v...
(ii) Ở cấp độ Luận văn Thạc sĩ, Tiến sĩ có một số đề tài tiêu biểu như:
Lê Nguyên Thanh (2013), “Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong
tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật
thành phố Hồ Chí Minh; Đinh Thị Mai (2014), “Quyền của người bị hại trong
tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học Xã
hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội; Nguyễn Đức Thái
(2015), “Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại trong tố tụng
hình sự Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật thành phố
Hồ Chí Minh; Lưu Bình Dương (2017), “Pháp luật về khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại trong Tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay”,
Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa
học Xã hội Việt Nam, Hà Nội; Hoàng Lan Phương (2009), “Khởi tố vụ án
3
hình sự theo yêu cầu của người bị hại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam”,
Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội;
Phạm Văn Huân (2013), “Những cơ sở và căn cứ khởi tố vụ án hình sự trong
luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; Nguyễn Đức Thái (2009), “Khởi tố vụ án hình
sự theo yêu cầu người bị hại, những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn
Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội; Ma
Thị Thắm (2015), “Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại trong
luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; v.v…
(iii) Các công trình khoa học đăng trên các báo, tạp chí: Ths. Phạm
Mạnh Hùng (2003), “Những bất cập và việc hoàn thiện quy định của pháp
luật tố tụng hình sự về khởi tố theo yêu cầu của người bị hại”, Tạp chí Kiểm
sát số 01/2003, tr.32, Hà Nội; Mai Văn Minh (2005), “Bàn về việc khởi tố và
không khởi tố vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự”, Tạp
chí Kiểm sát số 09/2005, Hà Nội; Hoàng Thị Liên (2006), “Người bị hại đã
yêu cầu khởi tố trình bày lời buộc tội tại phiên toà theo trình tự, thủ tục nào”
và “Cần sửa đổi các quy định liên quan đến quyền khởi tố theo yêu cầu của
người bị hại trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003”, Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật số 8/2006 và Tạp chí Kiểm sát số 2/2008; Lê Văn Cân (2008),
“Một số vướng mắc khi giải quyết vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người
bị hại”, Tạp chí Kiểm sát số 4/2008, Hà Nội; Mai Thế Bày (2009),“Đình chỉ
điều tra vụ án khởi tố theo yêu cầu của người bị hại khi họ rút đơn theo quy
định tại khoản 2 Điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003”, Tạp chí Kiểm
sát số 20 tháng 10/2009, Hà Nội; TS. Đinh Quang Tiệp (2010), “Một số vấn
đề về người bị hại, nguyên đơn dân sự trong Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003”, Tạp chí Kiểm sát, số 9/2010; Phạm Thái (2012), “Bàn về một số vấn
4
đề về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại”, Tạp chí Khoa học
pháp lý (số 5/2012); v.v...
Tuy nhiên các công trình nghiên cứu trên mới chỉ dừng lại ở khái quát
chung hoặc được thể hiện một phần trong kết quả của các công trình nghiên
cứu khác về khởi tố vụ án hình sự, có công trình đã triển khai nghiên cứu độc
lập chế định này nhưng trước khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực pháp luật
(từ ngày 01/01/2018); đồng thời, các công trình trên chưa có công trình nào
nghiên cứu cụ thể đề tài trên trong phạm vi một tỉnh là tỉnh Bắc Ninh, trong
khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019.
Do vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu
của bị hại từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có
tính lý luận, vừa có tính thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của Luận văn nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề lý
luận, thực tiễn về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại từ thực tiễn
tỉnh Bắc Ninh. Trên cơ sở đó, Luận văn đưa ra một số giải pháp hoàn thiện
pháp luật, giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật về khởi tố
vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại trong tố tụng hình sự ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và pháp luật về khởi tố vụ án theo
yêu cầu của bị hại.
- Làm rõ quy định của pháp luật hiện hành về khởi tố vụ án theo yêu
cầu của bị hại.
- Đánh giá thực trạng khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại từ thực tiễn tỉnh
Bắc Ninh và đề ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, giải pháp đảm
bảo áp dụng đúng quy định của pháp luật về khởi tố vụ án hình sự theo yêu
cầu của bị hại.
5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các vấn đề lý luận xung quanh
chế định ‘‘Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại’’. Thực tế việc điều
tra, truy tố, xét xử của cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Bắc Ninh và những tồn
tại, hạn chế, nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đồng thời đưa ra các giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án hình sự khởi tố theo yêu cầu
của bị hại.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trong phạm vi quy định của PLTTHS Việt Nam
về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại, mà trọng tâm là BLTTHS năm 2015 hiện
hành, trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019, trong phạm vi tỉnh
Bắc Ninh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở sử dụng phương pháp luận duy
vật biện chứng, phương pháp luận duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, quan điểm, định hướng của
Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự,
đường lối đấu tranh phòng chống tội phạm của Nhà nước ta.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Luận văn sử dụng các phương
pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: So sánh, đối chiếu, diễn
dịch, quy nạp, phân tích và tổng hợp…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương
diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu mà trong đó giải
quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới chế định
khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại, từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh.
6
Về mặt lý luận: Luận văn góp phần nâng cao nhận thức về pháp luật, áp
dụng pháp luật về khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại; góp phần hoàn thiện hơn
nữa lý luận và pháp luật về chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại
trong pháp luật nước ta.
Về mặt thực tiễn: Các kết quả nghiên cứu của Luận văn là cơ sở để cơ
quan, người có thẩm quyền đặc biệt là cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng ở tỉnh Bắc Ninh nghiên cứu, vận dụng trong quá trình áp dụng
pháp luật. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể được sử dụng
làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu khoa học chuyên ngành và
tài liệu tham khảo đối với người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy về hình
sự và tố tụng hình sự, những người làm công tác thực tiễn...
7. Kết cấu của Luận văn
Nội dung chính của Luận văn gồm 03 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu
của bị hại.
Chương 2. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại trong pháp
luật hiện hành và thực tiễn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Chương 3. Một số yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết vụ
án hình sự khởi tố theo yêu cầu của bị hại.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN
THEO YÊU CẦU CỦA BỊ HẠI
1.1. Khái niệm khởi tố vụ án hình sự và khởi tố vụ án hình sự theo
yêu cầu của bị hại
1.1.1. Khái niệm khởi tố vụ án hình sự
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của tố tụng hình sự, xác định
một hành vi xảy ra trong thực tế có dấu hiệu tội phạm hay không, theo đó, mở
đầu cho việc thực hiện những hành vi tố tụng cần thiết để làm rõ sự thật khách
quan về sự kiện pháp lý đó (khởi tố vụ án hình sự), hoặc chấm dứt quan hệ tố
tụng hình sự (không khởi tố vụ án hình sự). Tuy nhiên, về khái niệm “khởi tố
vụ án hình sự”, hiện nay trong khoa học luật tố tụng hình sự, vẫn còn có nhiều
quan niệm khác nhau như:
Theo từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp): Khởi
tố vụ án hình sự là hoạt động của CQTHTT xác định có sự việc phạm tội để
tiến hành điều tra phát hiện tội phạm [42, tr.429].
Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật
Hà Nội đưa ra khái niệm: Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của trình
tự tố tụng, trong đó cơ quan có thẩm quyền xác định sự việc xảy ra có dấu
hiệu của tội phạm hay không để quyết định khởi tố hay quyết định không khởi
tố vụ án hình sự [34, tr.233].
Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật
thành phố Hồ Chí Minh có quan điểm: Khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn
độc lập của quá trình chứng minh vụ án hình sự, trong đó cơ quan có thẩm
quyền xác định có hay không dấu hiệu tội phạm để quyết định khởi tố hoặc
quyết định không khởi tố vụ án. Giai đoạn khởi tố bắt đầu từ việc tiếp nhận
thông tin về tội phạm hoặc phát hiện dấu hiệu tội phạm và kết thúc bằng một
quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự [35, tr.330].
8
GS.TS Võ Khánh Vinh đưa ra khái niệm về quyết định khởi tố vụ án
hình sự, trong đó có bao hàm nội dung khởi tố vụ án hình sự, một cách cụ thể
hơn, theo đó: Quyết định khởi tố vụ án hình sự là hành vi tố tụng hình sự của
một pháp nhân (chủ thể tiến hành tố tụng) có thẩm quyền khởi tố vụ án hình
sự biểu hiện bằng một văn bản tố tụng hình sự xác định một sự kiện pháp lý
xảy ra trong thực tế có dấu hiệu của tội phạm cụ thể được quy định trong
BLHS nhằm khởi phát những quan hệ tố tụng, mở đầu cho việc thực hiện
những hành vi tố tụng cần thiết để làm rõ sự thật khách quan về sự kiện đó.
Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự được bắt đầu từ khi cơ quan có thẩm quyền
nhận được tin báo về tội phạm, kết thúc khi cơ quan có thẩm quyền ra được
một trong hai quyết định là quyết định khởi tố vụ án hình sự và quyết định
không khởi tố vụ án hình sự [43, tr.268, 269].
Có thể thấy, mỗi khái niệm đều có những nhân tố hợp lý và đều thống
nhất cho rằng: Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên, mở
đầu cho quá trình tố tụng hình sự; trong giai đoạn này, cơ quan và người có
thẩm quyền phải xác định sự việc xảy ra có phải là hành vi phạm tội hay
không? Kết quả thể hiện bằng việc quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc
không khởi tố vụ án hình sự (nếu xác định không có hành vi phạm tội).
Nghiên cứu và tiếp thu một số quan điểm trên, tác giả cho rằng, khái
niệm khởi tố vụ án hình sự ngoài việc thể hiện được các yếu tố như: Là giai
đoạn đầu tiên của tố tụng hình sự, chủ thể có thẩm quyền (các CQTHTT, các
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và người có
thẩm quyền của cơ quan đó), kết quả giải quyết (khởi tố hoặc không khởi tố
vụ án hình sự), cần bao hàm thêm các yếu tố sau:
- Khái niệm cần phải thể hiện được căn cứ pháp lý về nội dung là
BLHS nhằm xác định sự việc, hành vi diễn ra có hành vi phạm tội xảy ra hay
không; căn cứ về hình thức là BLTTHS quy định về trình tự, thủ tục tiến hành
9
các biện pháp kiểm tra, xác minh, quyết định tính có căn cứ và hợp pháp của
hoạt động này.
- Khái niệm cần phải thể hiện được căn cứ thực tế đó là kết quả kiểm
tra, xác minh nguồn tin (tố giác, tin báo, kiến nghị khởi tố, lời khai của người
phạm tội tự thú và thông tin về tội phạm do cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng trực tiếp phát hiện) để ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án
hình sự.
- Khái niệm cần phải nêu được thời điểm bắt đầu và kết thúc của giai
đoạn này, để phân biệt với giai đoạn khác của quá trình TTHS.
Tiếp thu những nhân tố hợp lý trên, kết quả nghiên cứu liên quan, tác
giả đưa ra khái niệm khởi tố vụ án hình sự như sau: Khởi tố vụ án hình sự là
giai đoạn đầu tiên của tố tụng hình sự, có tính độc lập tương đối, trong đó cơ
quan, người có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự và
tố tụng hình sự, nhằm xác định sự việc xảy ra có hay không có hành vi phạm
tội để làm căn cứ quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình
sự.
1.1.2. Khái niệm khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại
1.1.2.1. Khái niệm bị hại
Khoa học PLTTHS Việt Nam từ trước khi BLTTHS năm 2015 được
ban hành và có hiệu lực đều xác định bị hại chỉ là thể nhân, đó là người bị
thiệt hại về vật chất, tinh thần hoặc tài sản do tội phạm gây ra. Tuy nhiên,
trong BLTTHS năm 2015 thuật ngữ “Người bị hại” đã được thay thế bằng
thuật ngữ “Bị hại” trong đó khái niệm bị hại mở rộng hơn đối tượng bao gồm
cả thể nhân và cơ quan, tổ chức. Theo đó, bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt
hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài
sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra [22, Điều 62].
Như vậy, bị hại trong BLTTHS hiện hành có đặc điểm sau đây:
10
- Thứ nhất, bị hại là cá nhân thì cá nhân đó phải đang sống và tồn tại
vào thời điểm bị thiệt hại. Nếu bị hại là cơ quan, tổ chức phải được thành lập
hợp pháp và đang hoạt động. Nếu bị hại là người chưa thành niên, người có
nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thì cha, mẹ, người giám hộ của họ tham
gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp của bị hại. Trong trường
hợp bị hại chết thì cha, mẹ, vợ, chồng, con của bị hại tham gia tố tụng với tư
cách là đại diện hợp pháp của bị hại và có những quyền của bị hại. Nếu bị hại
là cơ quan, tổ chức thì đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức tham gia
với tư cách là đại diện hợp pháp của bị hại. Trường hợp người đại diện theo
pháp luật của cơ quan, tổ chức không thể tham gia tố tụng được thì cơ quan,
tổ chức phải cử người khác làm đại diện hợp pháp của bị hại và có những
quyền của bị hại. Trường hợp cơ quan, tổ chức thay đổi người đại diện thì
pháp nhân phải thông báo ngay cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
- Thứ hai, thiệt hại của bị hại phải là hậu quả trực tiếp và có mối quan
hệ nhân quả với hành vi phạm tội. Bị hại phải là đối tượng tác động mà hành
vi phạm tội hướng tới xâm hại, đồng thời hành vi phạm tội phải trực tiếp gây
ra thiệt hại, đe dọa gây ra thiệt hại cho bị hại, và các thiệt hại này có mối quan
hệ nhân quả với hành vi phạm tội.
- Thứ ba, thiệt hại của bị hại phải là những thiệt hại cụ thể về thể chất,
tinh thần, tài sản (cá nhân), tài sản, uy tín (tổ chức), do hành vi phạm tội gây
ra hoặc đe dọa gây ra.
- Thứ tư, hành vi xâm hại đến bị hại phải là hành vi phạm tội, được quy
định trong BLHS, còn nếu hậu quả chưa đến mức xử lý hình sự hoặc người
xâm hại chưa đủ (hoặc không có) năng lực TNHS thì hành vi xâm hại là hành
vi vi phạm hành chính, vi phạm nghĩa vụ dân sự, lao động… trong trường hợp
này người bị xâm hại không phải là bị hại.
- Thứ năm, xét về mặt hình thức, người bị thiệt hại về thể chất, tinh
thần, tài sản hoặc cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do hành vi
11
phạm tội gây ra hoặc đe dọa gây ra chỉ trở thành bị hại trong tố tụng hình sự
khi họ được cơ quan có thẩm quyền công nhận là bị hại (thông qua giấy triệu
tập).
Từ những phân tích nêu trên, tác giả đưa ra khái niệm bị hại như sau: Bị
hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ
quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa
gây ra.
1.1.2.2. Khái niệm khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại
Về nguyên tắc chung khi có dấu hiệu của tội phạm, cơ quan có thẩm
quyền khởi tố vụ án hình sự để tất cả các tội phạm đều bị xử lí kịp thời. Tuy
nhiên, trong thực tế không ít trường hợp tội phạm xảy ra đã gây thiệt hại cho
bị hại không chỉ về lợi ích vật chất mà cả về tinh thần, danh dự, nhân phẩm.
Việc khởi tố vụ án hình sự để truy cứu trong trường hợp này có thể lại gây
thêm những tổn thất khác cho bị hại. Chính vì vậy, để phù hợp với thực tiễn
đấu tranh phòng chống tội phạm, các nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền,
chế định ‘’Khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại” được quy định, với những
điều kiện do luật định. Do vậy, khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại là trường
hợp đặc biệt của khởi tố vụ án hình sự. Về bản chất của hoạt động khởi tố vụ
án hình sự theo yêu cầu của bị hại không chỉ đơn thuần là một trường hợp
khởi tố có điều kiện (phải có yêu cầu của bị hại) mà cao hơn, trong trường
hợp khởi tố theo yêu cầu bị hại quyền buộc tội không chỉ do CQĐT hoặc
VKS đơn phương thực hiện mà quyền buộc tội còn do bị hại quyết định.
Từ nhận thức, phân tích trên, tác giả đưa ra khái niệm về khởi tố vụ án
theo yêu cầu của bị hại như sau: Khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại là
trường hợp đặc biệt của khởi tố vụ án hình sự, trong đó cơ quan, người có
thẩm quyền xác định được có hành vi phạm tội trên cơ sở các quy định của
pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, kết quả kiểm tra, xác minh nguồn tin về
tội phạm, nhưng chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi có yêu cầu khởi tố của bị
12
hại trong một số trường hợp PLTTHS quy định và phải đình chỉ điều tra,
hoặc đình chỉ vụ án khi bị hại rút yêu cầu khởi tố trong những trường hợp do
PLTTHS quy định.
1.2. Đặc điểm, ý nghĩa của khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu bị hại
1.2.1. Đặc điểm, ý nghĩa của khởi tố vụ án hình sự
1.2.1.1. Đặc điểm của khởi tố vụ án hình sự
Với tính chất là một giai đoạn tố tụng độc lập, khởi tố vụ án hình sự có
những đặc điểm riêng biệt như sau:
- Thứ nhất, giai đoạn này bắt đầu khi phát hiện những nguồn thông tin
về tội phạm và kết thúc khi cơ quan có thẩm quyền xác định một sự việc xảy
ra trong thực tế có hay không có hành vi phạm tội để quyết định khởi tố hay
không khởi tố vụ án hình sự. Quyết định khởi tố vụ án hình sự là cơ sở pháp
lý đầu tiên để các CQTHTT thực hiện những hoạt động tố tụng trong các giai
đoạn tố tụng hình sự kế tiếp là điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự,
trừ trường hợp đặc biệt cần ngăn chặn ngay tội phạm hoặc đảm bảo cho việc
điều tra sau này được tiến hành thuận lợi thì một số hoạt động điều tra như
giữ người trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, khám nghiệm hiện
trường, khám nghiệm tử thi… có thể thực hiện trước khi khởi tố vụ án. Giữa
các giai đoạn này có mối quan hệ qua lại và tác động lẫn nhau mà trong đó,
giai đoạn tố tụng trước là tiền đề cần thiết cho việc thực hiện nhiệm vụ của
giai đoạn tố tụng sau còn giai đoạn tố tụng sau sẽ kiểm nghiệm kết quả của
giai đoạn tố tụng trước đó. Trong khi đó, quyết định không khởi tố vụ án hình
sự là sự kiện pháp lý làm chấm dứt các quan hệ tố tụng hình sự đã phát sinh
trước đó.
- Thứ hai, chủ thể thực hiện các hoạt động tố tụng trong giai đoạn khởi
tố vụ án hình sự rất đa dạng. Theo quy định của BLTTHS hiện hành, các cơ
quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự bao gồm các CQTHTT và cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
13
- Xem thêm -