VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ ĐẮC NGHĨA
HỢP ĐỒNG NHẬP KHẨU MÁY MÓC, THIẾT BỊ,
DÂY CHUYỀN CÔNG NGHỆ ĐÃ QUA SỬ DỤNG THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
Hà Nội - 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ ĐẮC NGHĨA
HỢP ĐỒNG NHẬP KHẨU MÁY MÓC, THIẾT BỊ,
DÂY CHUYỀN CÔNG NGHỆ ĐÃ QUA SỬ DỤNG THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐỖ GIANG NAM
Hà Nội – 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu được trích dẫn theo nguồn đã công bố. Kết quả nêu trong luận văn này là
trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 18 tháng 3 năm 2020
Tác giả luận văn
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn với đề tài “Hợp đồng nhập khẩu máy
móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng theo pháp luật Việt
Nam hiện nay”, bên cạnh sự nỗ lực của bản thân, việc vận dụng những kiến
thức tiếp thu được, tìm tòi học hỏi cũng như thu thập thông tin số liệu liên
quan đến đề tài, tôi luôn nhận được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô, đồng
nghiệp và bạn bè. Tôi chân thành gửi lời cảm ơn đến Tiến sỹ Đỗ Giang Nam người đã tận tình hướng dẫn tôi nghiên cứu đề tài này. Thầy đã giúp đỡ, cung
cấp cho tôi những kiến thức sâu rộng để tôi có nền tảng nghiên cứu đề tài.
Bên cạnh đó, tôi gửi lời cảm ơn đến Ban Giám hiệu Nhà trường, các thầy, cô
trong Khoa Luật - Học viện Khoa học xã hội đã hết sức giúp đỡ tôi trong quá
trình nghiên cứu đề tài.
Trong quá trình thực hiện luận văn, mặc dù đã cố gắng để hoàn thiện đề
tài nhưng chắc chắn không tránh khỏi những tồn tại. Vì vậy tôi rất mong
muốn và chân thành cảm ơn các ý kiến đóng góp của Quý Thầy, Cô.
Tác giả luận văn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG NHẬP KHẨU
MÁY MÓC, THIẾT BỊ, DÂY CHUYỀN CÔNG NGHỆ ĐÃ QUA SỬ
DỤNG ......................................................................................................................... 7
1.1. Khái quát chung về nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công
nghệ đã qua sử dụng ............................................................................................. 7
1.2. Khái quát chung về hợp đồng nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền
công nghệ đã qua sử dụng .................................................................................. 17
1.3. Nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với hợp đồng nhập khẩu máy móc,
thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng .................................................. 38
Chương 2: THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ
THỰC TIỄN THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG NHẬP KHẨU MÁY MÓC,
THIẾT BỊ, DÂY CHUYỀN CÔNG NGHỆ ĐÃ QUA SỬ DỤNG Ở VIỆT
NAM ......................................................................................................................... 42
2.1. Thực trạng các quy định pháp luật .............................................................. 42
2.2. Thực tiễn thực hiện hợp đồng và giải quyết tranh chấp liên quan hợp
đồng nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng ...... 60
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỢP ĐỒNG NHẬP
KHẨU MÁY MÓC, THIẾT BỊ, DÂY CHUYỀN CÔNG NGHỆ ĐÃ QUA
SỬ DỤNG ................................................................................................................. 72
3.1. Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về hợp
đồng nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng ...... 72
3.2. Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về hợp
đồng nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng ...... 72
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 82
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
QCVN: Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia
TCVN: Tiêu chuẩn quốc gia
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
VIAC: Vietnam International Arbitration Centre Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam
OECD: Organization for Economic Cooperation and Development Tổ chức Hợp tác và
Phát triển kinh tế
EU: European Union Liên minh Châu Âu
ASEAN: Association of Southeast Asian Nations Hiệp hội các quốc gia Đồng Nam Á
G7: Group of Seven Nhóm các nước Công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới
WTO: World Trade Organization Tổ chức Thương mại thế giới
GATT: General Agreement on Tariffs and Trade Hiệp ước chung về thuế quan và mậu
dịch
GATS: General Agreement on Trade in Services Hiệp định chung về Thương mại và
dịch vụ
TPP: Trans-Pacific Partnership Agreement Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
FTAs: Free Trade Agreements Hiệp định thương mại tự do
INCOTERMS: International commercial terms Các điều khoản thương mại quốc tế
UCP: The Uniform Customs and Practice for Documentary Credits Quy tắc và Thực
hành thống nhất Tín dụng chứng từ
UCC: Unified Communications Chứng nhận truyền thông hợp nhất
UNIDROIT: Principles of International Commercial Contracts Nguyên tắc hợp đồng
thương mại quốc tế
USD: United States dollar Đô la Mỹ
CISG 1980: United Nations Convention on Contracts for the International Sale of
Goods Công ước Viên 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
CIF: Cost Insurance and Freight Tiền hàng, bảo hiểm và cước vận tải
DAF: Diliver At Frontier: Giao hàng tại biên giới
FOB: Free On Board: Giao hàng lên mạn tàu
CNF: Cost And Freight: Tiền hàng và cước vận chuyển
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đã và đang hội nhập khá sâu với nền kinh tế thế giới nên các
hoạt động giao thương quốc tế ngày càng được mở rộng. Đó không chỉ là mối
quan hệ hợp tác giao lưu đối ngoại mà còn là các hoạt động xuất, nhập khẩu
hàng hóa. Hoạt động nhập khẩu của Việt Nam trong những năm vừa qua đã
có nhiều thành tựu đáng khích lệ, trong đó có hoạt động nhập khẩu máy móc,
thiết bị, dây chuyền đã qua sử dụng.
Nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng
hiện nay đã trở thành nhu cầu thường xuyên của các doanh nghiệp. Việc nhập
khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng có ý nghĩa trên
nhiều phương diện, vừa giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí mà vẫn đáp ứng
mục tiêu sản xuất và đạt được hiệu quả đầu tư. Trong một số trường hợp, để
duy trì hoạt động của dây chuyền sản xuất, việc nhập khẩu máy móc, thiết bị
đã qua sử dụng còn là giải pháp duy nhất với lý do nhà sản xuất, chế tạo thiết
bị ban đầu không còn sản xuất mới máy móc, thiết bị cùng chủng loại, phù
hợp với dây chuyền sản xuất đã lắp đặt và vận hành. Gần đây, do tác động của
các xung đột chính trị, chính sách thương mại và thu hút đầu tư của mỗi quốc
gia, tranh chấp thương mại giữa các cường quốc, việc nhà đầu tư có kế hoạch
chuyển dịch hoạt động sản xuất sang Việt Nam ngày càng nhiều, theo đó nhu
cầu nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng cũng
tăng lên. Vì vậy, việc thiết lập hợp đồng nhập khẩu đối với máy móc, thiết bị,
dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng là vô cùng quan trọng. Đây chính là
một trong những cơ sở để giải quyết khi có tranh chấp xảy ra giữa các bên
tham gia giao kết hợp đồng nhập khẩu.
Hiện nay, nhằm bảo đảm việc kiểm soát không để công nghệ lạc hậu
được nhập khẩu vào Việt Nam, đồng thời hỗ trợ giải quyết nhu cầu của doanh
nghiệp trong việc duy trì, mở rộng hoạt động sản xuất thông qua một cơ chế
1
phù hợp là một vấn đề đã và đang được Đảng và Nhà nước quan tâm chú
trọng. Nhằm tạo hành lang pháp lý thông thuận cho các doanh nghiệp thực
hiện nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng,
pháp luật Việt Nam đã có nhiều quy định cụ thể điều chỉnh vấn đề giao kết
hợp đồng nhập khẩu về chủ thể, điều kiện, trình tự, thủ tục và hậu quả, giải
quyết khi có tranh chấp phát sinh. Đặc biệt, vừa qua, Quyết định số
18/2019/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ quy định việc nhập khẩu máy
móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng đã được ký ban hành
ngày 19/4/2019, có hiệu lực thi hành từ ngày 15/6/2019 đã có những quy định
chi tiết rõ hơn, cụ thể hơn so với các quy định trước đó để các bên xem xét,
đối chiếu điều kiện khi thiết lập hợp đồng nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây
chuyền công nghệ đã qua sử dụng nhằm hạn chế việc phát sinh tranh chấp
hoặc nhập khẩu những máy móc, thiết bị, dây chuyển công nghệ đã qua sử
dụng không đảm bảo quy định.
Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng hiểu, nghiên cứu và áp
dụng các quy định này trong quá trình thiết lập hợp đồng nhập khẩu, dẫn đến
việc vi phạm và phát sinh những tranh chấp hoặc phải gánh chịu những rủi ro
không đáng có.
Vì vậy, tác giả quyết định lựa chọn nghiên cứu đề tài “Hợp đồng nhập
khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng theo pháp
luật Việt Nam hiện nay” nhằm giúp các doanh nghiệp nắm rõ các quy định
về hợp đồng nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử
dụng, hạn chế việc doanh nghiệp vi phạm quy định khi thiết lập hợp đồng và
hạn chế việc phát sinh tranh chấp do vi phạm hợp đồng, giảm thiểu rủi ro,
giảm thiểu thiệt hại cho doanh nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề liên quan về hợp đồng nhập khẩu thời gian qua đã được nhiều
học giả nghiên cứu. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như:
2
- Nguyễn Văn Luyện (2005) Luật hợp đồng thương mại quốc tế, Nxb
Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh; Nhóm luận văn, luận
án: Bùi Thị Thu ( 2011) Luật áp dụng điều chỉnh hợp đồng thương mại quốc
tế tại Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Thị Thoa
(2009) Giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại quốc tế bằng Tòa án,
Luận văn thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Xuân Dũng (2018) Giải
quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng và hòa giải tại Việt Nam,
Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật - Huế; Nguyễn Thị Dung (2011), Hoàn thiện
quy trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu ủy thác máy móc thiết bị từ thị
trường Nga của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu than Vinacomin, Luận văn
tốt nghiệp, Đại học Thương Mại. Bành Quốc Tuấn (2013) “Giải quyết tranh
chấp phát sinh từ hợp đồng thương mại quốc tế thông quá các điều khoản đặc
biệt của hợp đồng”, Tạp chí Phát triển và hội nhập, số 9, tr.10-15; Lê Hồng
Hạnh (2015) “Tổng quan về thương lượng, hòa giải (ADR) tại Việt Nam”,
Hội thảo quốc tế Biện pháp giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án (ADR) do Bộ
Tư pháp và JPP tổ chức; Lưu Hương Ly (2015) “Hòa giải trong thương mại
và phát triển phương thức hòa giải trong thương mại ở Việt Nam”.
Tuy nhiên, đối với vấn đề về hợp đồng nhập khẩu khẩu máy móc, thiết
bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng thì hiện nay chưa có tác giả nào đi
sâu nghiên cứu.
Các bài viết, công trình nghiên cứu của các tác giả trên thật sự có ý
nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn, là nguồn tài liệu tham khảo phong phú và
có giá trị lớn đối với luận văn của bản thân tác giả, đối với các học giả, các
doanh nghiệp, tổ chức và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tại Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu đạt được các mục đích cơ
bản sau đây:
3
- Giúp các doanh nghiệp nắm rõ quy định pháp luật Việt Nam hiện
hành về hợp đồng nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua
sử dụng.
- Hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp đồng nhập khẩu máy móc,
thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng.
- Nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định này trong giao kết hợp đồng
hợp đồng nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử
dụng, và góp phần hạn chế việc doanh nghiệp vi phạm quy định khi thiết lập
hợp đồng nhập khẩu và hạn chế việc phát sinh tranh chấp do vi phạm hợp
đồng, giảm thiểu thiệt hại cho doanh nghiệp do nhập khẩu máy móc, thiết bị,
dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng không đảm bảo quy định.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về hợp đồng, hợp đồng nhập khẩu máy móc,
thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng
- Nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về hợp đồng nhập khẩu
máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng và thực tiễn áp
dụng. Phân tích những khó khăn, vướng mắc qua thực tiễn áp dụng để tìm ra
nguyên nhân.
- Đề xuất được các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp
luật về hợp đồng nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua
sử dụng và góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định này trong thời
gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định
pháp luật hiện hành về hợp đồng nhập khẩu đối với máy móc, thiết bị, dây
chuyền công nghệ đã qua sử dụng có mã hàng hóa (mã số HS) thuộc Chương
84 và Chương 85 quy định tại Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Việt
Nam, được nhập khẩu nhằm sử dụng cho hoạt động sản xuất tại Việt Nam mà
4
không thuộc các danh mục hàng hóa cấm nhập khẩu do Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ quy định, các bộ, cơ quan ngang bộ công bố chi tiết theo quy định
của Nghị định số 69/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ
quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý ngoại thương; Thực tiễn áp
dụng và những khó khăn, vướng mắc.
- Phạm vi nghiên cứu: Là những vấn đề về hợp đồng nhập khẩu máy
móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng theo quy định pháp luật
hiện hành của Việt Nam, trên lãnh thổ Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình
nghiên cứu luận văn sẽ sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê Nin trong lĩnh vực kinh tế.
- Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
cụ thể như phương pháp bình luận, diễn giải; phương pháp lịch sử; phương
pháp so sánh luật học; phương pháp đánh giá; phương pháp phân tích,
phương pháp tổng hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: góp phần làm rõ cơ sở lý luận và các quy định pháp
luật Việt Nam hiện hành về hợp đồng nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây
chuyền công nghệ đã qua sử dụng.
- Ý nghĩa thực tiễn: Là tài liệu có giá trị tham khảo đối với các bạn
học viên nghiên cứu về vấn đề này, đồng thời cũng là tài liệu có giá trị tham
khảo đối với các cơ quan lập pháp, thi hành pháp luật và đối với các doanh
nghiệp đủ điều kiện nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã
qua sử dụng.
5
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về hợp đồng nhập khẩu máy móc,
thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng
Chương 2. Thực trạng các quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện
hợp đồng nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng
ở Việt Nam
Chương 3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định của
pháp luật Việt Nam về hợp đồng nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền
công nghệ đã qua sử dụng
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG NHẬP KHẨU MÁY MÓC,
THIẾT BỊ, DÂY CHUYỀN CÔNG NGHỆ ĐÃ QUA SỬ DỤNG
1.1. Khái quát chung về nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây
chuyền công nghệ đã qua sử dụng
1.1.1.
Tổng quan về hoạt động nhập khẩu
Hiện nay, trong sự phát triển của nền kinh tế thế giới, sự phát triển của nền kinh tế thị trường thì các
quốc gia không thể cô lập tự tồn tại một mình mà phải có sự giao thương, hợp tác với nhau. Đặc biệt là khi
đời sống người dân ngày càng nâng cao thì sẽ kéo theo sự gia tăng nhu cầu tiêu dùng mạnh mẽ và nếu nền
kinh tế quốc gia không thể đáp ứng đầy đủ được tất cả các nhu cầu đó thì việc nhập khẩu hàng hóa từ các
quốc gia ngoài biên giới là sự tất yếu sẽ xảy ra. Vậy, nhập khẩu là gì?
Hiện nay, có rất nhiều cách hiểu về nhập khẩu, nhưng về cơ bản, nhập
khẩu được hiểu là mua hàng hóa và dịch vụ kể cả hàng đầu tư từ nước ngoài.
Hiểu một cách đơn giản, thì nhập khẩu là việc nhập hàng hóa, nguyên vật liệu
từ các quốc gia khác trên thế giới về Việt Nam để tiêu thụ hoặc đáp ứng cho
nhu cầu sản xuất. Đây là cách định nghĩa nhập khẩu thông thường của hầu hết
mọi người.
Tuy nhiên trong từ điển mở Wikipedia và Luật thương mại thì khái
niệm nhập khẩu được định nghĩa chi tiết và cụ thể hơn. Theo Wikipedia,
“Nhập khẩu” được hiểu là các giao dịch liên quan về hàng hóa, dịch vụ từ một
nguồn bên ngoài thông qua đường biên giới quốc gia. Đây là hoạt động kinh
doanh trên phạm vi quốc tế, không phải dạng bán buôn riêng lẻ mà được điều
hành dưới một hệ thống, bao gồm cả các tổ chức bên trong lẫn bên ngoài quốc
gia nhập khẩu. Sự trao đổi hàng hóa, nguyên vật liệu, dịch vụ này sẽ dựa trên
nguyên tắc trao đổi ngang giá mà tiền tệ được dùng làm môi giới.
Luật Thương mại 2005 có định nghĩa: “Nhập khẩu hàng hóa là việc
hàng hoá được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc
biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy
định của pháp luật.” [24]
7
Như vậy, nhập khẩu là khâu cơ bản của hoạt động ngoại thương, là
hoạt động kinh doanh buôn bán diễn ra trên phạm vi toàn thế giới. Đó là một
hệ thống các quan hệ buôn bán trong một nền kinh tế có tổ chức bên trong và
bên ngoài, thể hiện sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc gia với
nền kinh tế thế giới.
Các quốc gia, doanh nghiệp thực hiện hoạt động nhập khẩu nhằm mục
tiêu có được hiệu quả cao từ việc nhập khẩu vật tư hàng hoá để phục vụ cho
quá trình tái sản xuất, mở rộng và nâng cao đời sống trong nước. Đồng thời,
đảm bảo sự phát triển ổn định những ngành kinh tế mũi nhọn của mỗi nước,
tạo những năng lực mới cho sản xuất, khai thác thế mạnh của quốc gia, kết
hợp hài hoà có hiệu quả nhập khẩu và cán cân thanh toán.
Vậy, hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp là hoạt động mua hàng
hóa và dịch vụ từ nước ngoài phục vụ cho nhu cầu trong nước hoặc tái xuất
khẩu nhằm phục vụ mục đích thu lợi nhuận. Hay nói cách khác, đó là việc
mua hàng hóa từ các tổ chức kinh tế, các công ty nước ngoài và tiến hành tiêu
thụ hàng hóa nhập khẩu tại thị trường nội địa hoặc tái xuất khẩu với mục đích
thu lợi nhuận và nối liền sản xuất với tiêu dùng.
Từ các khái niệm trên, có thể thấy đặc trưng cơ bản của nhập khẩu
chính là:
- Nhập khẩu là hoạt động buôn bán giữa các quốc gia trên thế giới.
Hoạt động buôn bán phát triển theo những tập quán thông lệ quốc tế, giao
dịch buôn bán giữa những người có quốc tịch khác nhau.
- Nhập khẩu là hoạt động lưu thông hàng hoá, dịch vụ giữa các quốc
gia. Nhà nước quản lý hoạt động nhập khẩu thông qua các công cụ như:
Chính sách thuế, hạn ngạch, phụ thu và các văn bản pháp luật, các quy định
danh mục hàng hoá được phép nhập khẩu.
Một quốc gia phải có hoạt động xuất nhập khẩu thì mới có một nền
kinh tế bền vững. Trong đó, hoạt động nhập khẩu với vai trò quan trọng hàng
8
đầu là đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân khi mà tự quốc gia đó không
thể sản xuất hoặc sản xuất không đủ để cung cấp, tránh tình trạng khan hiếm
bất ổn. Việc nhập khẩu từ những nguồn bên ngoài sẽ đảm bảo cân đối kinh tế,
phát triển ổn định bền vững.
Hàng hóa nhập khẩu kết hợp hàng hóa có sẵn trong nước giúp thị
trường tiêu dùng trở nên đa dạng và phong phú, cung cấp cho người tiêu dùng
rất nhiều sự chọn lựa từ chủng loại hóa, nguồn gốc xuất xứ, giá cả lẫn chất
lượng góp phần nâng tầm khả năng tiêu dùng và mức sống của người dân.
Mặt khác, việc nhập khẩu hàng hóa sẽ đưa nhiều thương hiệu hàng hóa đến từ
các quốc gia, tình trạng độc quyền sẽ bị xóa bỏ, đảm bảo quyền lợi cho người
dân. Đồng thời thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước không ngừng vươn lên,
doanh nghiệp sẽ phải không ngừng tìm tòi, phát triển, cải tiến chất lượng sản
phẩm và dịch vụ của mình nhằm cạnh tranh với hàng ngoại nhập để đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng của người dân. Thông qua hoạt động nhập khẩu, nền kinh
tế quốc gia với một thị trường năng động sẽ góp phần tác động tích cực đến
việc hợp tác rộng rãi giữa các quốc gia, là cơ hội để phát huy lợi thế của mỗi
một quốc gia, dân tộc.
Đặc biệt với quá trình chuyển giao công nghệ thông qua hoạt động
nhập khẩu sẽ giúp kinh tế quốc gia không ngừng cải thiện, tạo nên mức cân
bằng về trình độ sản xuất giữa các quốc gia, đồng thời giúp các nước kém
phát triển, đang phát triển có thể kế thừa nhanh chóng mà không phải mất quá
nhiều chi phí và thời gian. Với hình thức xuất nhập khẩu đối lưu, thì nhập
khẩu cũng trở thành xuất khẩu. Nhập khẩu sẽ góp phần thúc đẩy xuất khẩu,
nâng cao giá trị, chất lượng sản phẩm cũng như uy tín của quốc gia.
Tóm lại, hoạt động nhập khẩu sẽ tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình
dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bổ
sung kịp thời những mặt cân đối của nền kinh tế đảm bảo phát triển kinh tế
cân đối ổn định; góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân; thúc
9
đẩy hoạt động xuất khẩu; tạo thuận lợi cho việc chuyển giao công nghệ, làm
đa dạng hoá mặt hàng, chủng loại, mẫu mã, chất lượng, quy cách, cho phép
thoả mãn hơn nhu cầu trong nước.
Nhập khẩu có lợi vì nó tạo điều kiện cho người tiêu dùng hưởng thụ
những ích lợi do chuyên môn hóa và thương mại quốc tế mang lại, tức là người
tiêu dùng mua được hàng hóa và dịch vụ với giá thấp hơn trường hợp nó tự họ
sản xuất hoặc chỉ mua hàng hóa được sản xuất trong nước. Nhưng mặt khác, nó
cũng là một trở ngại vì làm giảm sản lượng và thu nhập trong nước. Vì vậy, quan
trọng là phải duy trì được sự cân bằng giữa xuất và nhập khẩu.
Hiện nay, nhập khẩu được thực hiện thông qua một số hình thức cơ bản
sau: nhập khẩu trực tiếp, nhập khẩu ủy thác, nhập khẩu tái xuất, nhập khẩu đổi
hàng, nhập khẩu tự doanh, nhập khẩu liên doanh và một số hình thức khác.
Trong đó:
- Nhập khẩu trực tiếp: là hình thức mà bên mua hàng và bên bán hàng
trực tiếp giao dịch với nhau, việc mua và việc bán không ràng buộc nhau. Bên
mua có thể chỉ mua mà không bán, bên bán có thể chỉ bán mà không mua.
Hoạt động chủ yếu là doanh nghiệp trong nước nhập khẩu hàng hoá, vật tư ở
thị trường nước ngoài đem về tiêu thụ ở thị trường trong nước. Để tiến tới ký
kết hợp đồng kinh doanh nhập khẩu, doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ nhu
cầu nhập khẩu vật tư, thiết bị trên thị trường nội địa, tính toán đầy đủ các chi
phí đảm bảo kinh doanh nhập khẩu có hiệu quả, đàm phán kỹ lưỡng về các
điều kiện giao dịch với bên xuất khẩu, thực hiện theo hành lang pháp lý quốc
gia cũng như thông lệ quốc tế [15].
Hoạt động nhập khẩu trực tiếp là hình thức nhập khẩu độc lập của một
doanh nghiệp xuất, nhập khẩu trên cơ sở nghiên cứu kỹ thị trường trong và
ngoài nước, tính toán đầy đủ các chi phí đảm bảo kinh doanh có lãi, đúng
phương hướng, chính sách luật pháp của Nhà nước cũng như quốc tế. Trong
hoạt động nhập khẩu tự doanh, doanh nghiệp hoàn toàn nắm quyền chủ động
10
và phải tự tiến hành các nghiệp vụ của hoạt động nhập khẩu từ nghiên cứu thị
trường, lựa chọn bạn hàng, lựa chọn phương thức giao dịch, đến việc ký kết
và thực hiện hợp đồng. Doanh nghiệp phải tự bỏ vốn để chi trả các chi phí
phát sinh trong hoạt động kinh doanh và được hưởng toàn bộ phần lãi thu được
cũng như phải tự chịu trách nhiệm nếu hoạt động đó thua lỗ. Khi nhập khẩu tự
doanh thì doanh nghiệp được trích kim ngạch nhập khẩu, khi tiêu thụ hàng nhập
khẩu doanh nghiệp phải chịu thuế doanh thu, thuế lợi tức [15]. Thông thường,
doanh nghiệp chỉ cần lập một hợp đồng nhập khẩu với nước ngoài, còn hợp
đồng tiêu thụ hàng hoá trong nước thì sau khi hàng hóa về sẽ lập.
Nhập khẩu trực tiếp là một hình thức nhập khẩu được tiến hành một
cách đơn giản. Bên nhập khẩu phải nghiên cứu thị trường, tìm kiếm đối tác,
ký kết hợp đồng và thực hiện theo đúng hợp đồng, phải tự bỏ vốn, chịu mọi
rủi ro và chi phí giao dịch, nghiên cứu, giao nhận,…cùng các chi phí có liên
quan đến tiêu thụ hàng hóa, thuế nhập khẩu…
- Nhập khẩu ủy thác: là một hoạt động dịch vụ dưới hình thức nhận
làm dịch vụ nhập khẩu. Hoạt động này được làm trên cơ sở hợp đồng uỷ thác
giữa các doanh nghiệp phù hợp với những quy định của pháp lệnh hợp đồng
kinh tế [3].
Đây là hoạt động nhập khẩu hình thành giữa một doanh nghiệp hoạt
động trong nước có ngành hàng kinh doanh một số mặt hàng nhập khẩu
nhưng không đủ điều kiện về khả năng tài chính, kinh nghiệm xuất, nhập
khẩu, về đối tác kinh doanh, hoặc chỉ đơn giản chỉ là do bài toán chi phí - lợi
nhuận… nên đã uỷ thác cho doanh nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch
ngoại thương tiến hành nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu của mình. Bên nhận
uỷ thác phải tiến hành đàm phán với nước ngoài để làm thủ tục nhập khẩu
theo yêu cầu của bên uỷ thác và được hưởng một hoa hồng gọi là phí uỷ thác.
Quan hệ giữa doanh nghiệp uỷ thác và doanh nghiệp nhận uỷ thác được quy
định đầy đủ trong hợp đồng uỷ thác.
11
Trong hoạt động nhập khẩu này, doanh nghiệp xuất nhập khẩu (nhận
uỷ thác) không phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch (nếu có), không phải
nghiên cứu thị trường tiêu thụ vì không phải tiêu thụ hàng nhập mà chỉ đứng
ra đại diện cho bên uỷ thác để giao dịch với bạn hàng nước ngoài, ký hợp
đồng và làm thủ tục nhập hàng cũng như thay mặt cho bên uỷ thác khiếu nại
đòi bồi thường với nước ngoài khi có tổn thất.
- Nhập khẩu tái xuất: Tái xuất là xuất khẩu trở ra nước ngoài những
hàng hoá trước đây được nhập khẩu, chưa qua chế biến ở nước tái xuất. Có
nghĩa là tiến hành nhập khẩu không phải để tiêu thụ trong nước mà để xuất
sang một nước thứ ba nhằm thu lợi nhuận. Giao dịch tái xuất bao gồm nhập
khẩu và xuất khẩu với mục đích thu về một lượng ngoại tệ lớn hơn vốn bỏ ra
ban đầu. Giao dịch này luôn thu hút ba nước: nước xuất khẩu, nước tái xuất
và nước nhập khẩu.
Đối với hình thức này, doanh nghiệp tái xuất phải tính toán toàn bộ chi
phí nhập hàng và xuất hàng sao cho thu hút được lượng ngoại tệ lớn hơn chi
phí ban đầu bỏ ra; phải tiến hành đồng nhập khẩu và hợp đồng xuất khẩu
nhưng không phải nộp thuế xuất nhập khẩu. Doanh nghiệp tái xuất được tính
kim ngạch trên cả hàng tái xuất và hàng nhập, doanh số tính trên giá trị hàng
hoá tái xuất do đó vẫn chịu thuế. Hàng hoá không nhất thiết phải chuyển về
nước tái xuất mà có thể chuyển thẳng từ nước xuất khẩu đến nước nhập khẩu
theo hình thức chuyển khẩu, nhưng tiền phải do người tái xuất trả cho người
nhập khẩu và thu từ người nhập khẩu [15].
-
Nhập khẩu hàng đổi hàng: Là nghiệp vụ chủ yếu của buôn bán đối
lưu, nó là hình thức nhập khẩu đi đôi với xuất khẩu. Hoạt động này được
thanh toán không phải bằng tiền mà chính là hàng hóa. Hàng hóa nhập khẩu
và xuất khẩu có giá trị tương đương nhau.
-
Nhập khẩu gia công: Là hình thức nhập khẩu theo đó bên nhập
khẩu (là bên nhận gia công) tiến hành nhập khẩu nguyên vật liệu từ phía
12
người xuất khẩu (bên đặt gia công) về để tiến hành gia công theo những quy
định trong hợp đồng ký kết giữa hai bên.
-
Nhập khẩu liên doanh: Đây là một hoạt động nhập khẩu hàng hoá
trên cơ sở liên kết kỹ thuật một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong
đó có ít nhất một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp kỹ
năng, kỹ thuật để cùng giao dịch và đề ra các chủ trương biện pháp có liên
quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng
có lợi nhất cho cả hai bên, cùng chia lãi nếu lỗ thì cùng phải chịu.
So với tự doanh thì các doanh nghiệp nhập khẩu liên doanh ít chịu rủi
ro bởi mỗi doanh nghiệp liên doanh nhập khẩu chỉ phải góp một phần vốn
nhất định, quyền hạn và trách nhiệm của các bên cũng tăng theo số vốn góp,
việc phân chia chi phí, thuế doanh thu theo tỷ lệ vốn góp, lãi lỗ hai bên phân
chia tuỳ theo thoả thuận dựa trên vốn góp cộng với phần trách nhiệm mà mỗi
bên gánh vác.
Trong nhập khẩu liên doanh thì doanh nghiệp đứng ra nhận hàng sẽ
được tính kim ngạch xuất nhập khẩu. Khi đưa hàng về tiêu thụ thì chỉ được
tính doanh số trên số hàng tính theo tỷ lệ vốn góp và chịu thuế doanh thu trên
doanh số đó [15].
Doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp tham gia liên doanh phải lập hai hợp
đồng: Một hợp đồng mua hàng với nước ngoài, một hợp đồng liên doanh với
doanh nghiệp khác.
Mỗi hình thức nhập khẩu hàng hóa đều có những đặc thù riêng. Vì vậy,
doanh nghiệp cần lựa chọn hình thức nào phù hợp với tình trạng và nhu cầu
của doanh nghiệp.
1.1.2.
Đặc điểm của máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng
Máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng được hiểu là
máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ sau khi xuất xưởng đã được lắp ráp
13
và vận hành hoạt động. Như vậy, máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã
qua sử dụng có các đặc điểm cơ bản sau:
- Đó là máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng, sau
khi xuất xưởng đã được lắp ráp và vận hành hoạt động.
- Máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng nhưng vẫn
đảm bảo được những tiêu chí và tính năng nhất định.
-
Máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ tuy đã qua sử dụng nhưng
vẫn có những sự tác động tích cực và tiêu cực đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực
của đời sống, đến sự phát triển của một quốc gia.
1.1.3. Tác động của việc nhập khẩu máy móc, thiết bị dây chuyền
công nghệ đã qua sử dụng
Nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng có
sự tác động rất lớn đến nền kinh tế quốc gia, môi trường, xã hội và các doanh
nghiệp nhập khẩu các máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ. Sự tác động
đó vừa mang tính tích cực, vừa có tính tiêu cực, thể hiện cụ thể như sau:
- Tác động tích cực:
Xét trên toàn bộ nền kinh tế, nhập khẩu tạo ra hàng hoá bổ sung cho
hàng hoá thiếu hụt trong nước và thay thế những sản phẩm trong nước không
sản xuất được hay sản xuất với chi phí cao hơn để đáp ứng nhu cầu sản xuất
tiêu dùng nội địa một cách tốt nhất. Từ đó, tạo sự ổn định về cung-cầu trong
nước và cao hơn là sự ổn định kinh tế vĩ mô. Việc nhập khẩu và sử dụng các
máy móc thiết bị đã qua sử dụng đã tạo ra một động lực mạnh mẽ cho những
nhà đầu tư vừa và nhỏ trong nước với những hạn chế về nguồn vốn, đặc biệt
là trong giai đoạn đầu phát triển. Trong những năm gần đây, với sự cởi mở
đối với môi trường kinh doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã có sự phát
triển hết sức nhanh chóng, đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển
chung của đất nước.
14
- Xem thêm -