Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn hoạt động lấy lời khai người làm chứng theo pháp luật tố tụng hình sự v...

Tài liệu Luận văn hoạt động lấy lời khai người làm chứng theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn huyện chơn thành, tỉnh bình phước

.PDF
84
154
112

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ QUỐC TUẤN HOẠT ĐỘNG LẤY LỜI KHAI NGƯỜI LÀM CHỨNG THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ QUỐC TUẤN HOẠT ĐỘNG LẤY LỜI KHAI NGƯỜI LÀM CHỨNG THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN ĐỨC HẠNH Hà Nội, năm 2019 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1:MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG LẤY LỜI KHAI CỦA NGƯỜI LÀM CHỨNG THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................................................................................................................... 7 1.1. Một số vấn đề chung và khái niệm ................................................................... 7 1.2. Chủ thể có thẩm quyền lấy lời khai của người làm chứng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam .......................................................................................... 19 1.3. Phân loại, quyền và nghĩa vụ người làm chứng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự ........................................................................................................... 25 1.4. Mục đích lấy lời khai của người làm chứng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam ............................................................................................................... 30 1.5. Những yếu tố ảnh hưởng, tác động đến chất lượng của việc lấy lời khai của người làm chứng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam ............ 34 Chương 2: QUY ĐỊNH VỀ HOẠT ĐỘNG LẤY LỜI KHAI CỦA NGƯỜI LÀM CHỨNG THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG NÀY TRÊN ĐỊA BÀN HUYÊN CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC.............................................................................................. 37 2.1. Quy định về hoạt động lấy lời khai của người làm chứng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam .......................................................................................... 37 2.2. Thực tiễn hoạt động lấy lời khai người làm chứng trên địa bàn huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước......................................................................................... 46 Chương 3: GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG LẤY LỜI KHAI CỦA NGƯỜI LÀM CHỨNG THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ .......... 63 3.1. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động lấy lời khai của người làm chứng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự............................................... 63 3.2. Kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng hoạt động lấy lời khai của người làm chứng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự............................................... 69 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Người làm chứng là người biết các tình tiết có liên quan đến vụ án và được các cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập để lấy lời khai về những nội dung có liên quan đến vụ án hoặc vụ việc có tính hình sự. Lời khai của người làm chứng là một trong những nguồn chứng cứ lâu đời và phổ biến nhất. Luật tố tụng hình sự của nhiều nước trên thế giới đều quy định về nguồn chứng cứ này, bởi lẽ người làm chứng nắm được diễn biến của vụ án hình sự, hoàn cảnh phạm tội, nhân thân người phạm tội, người bị hại... Đây là nguồn chứng cứ rất quan trọng góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án hình sự [18,tr.1]. Trong tố tụng hình sự nói chung, trong giai đoạn điều tra nói riêng, người làm chứng luôn giữ vai trò quan trọng trong xác minh làm rõ sự thật khách quan của vụ án hình sự. Họ là người biết các tình tiết có liên quan đến vụ án nhưng do họ không phải là người có quyền lợi pháp lý liên quan vụ án nên lời khai của họ thường trung thực, khách quan, có ý nghĩa lớn trong việc xác định sự thật của vụ án hình sự. Lời khai người làm chứng là nguồn chứng cứ quan trọng trong giải quyết vụ án hay vụ việc mang tính hình sự. Những thông tin được phản ánh và tái hiện lại qua lời khai của người làm chứng có chất lượng phụ thuộc tâm lý, kinh nghiệm xã hội, tính cách và nhân cách... của người làm chứng. Việc hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự định đối với hoạt động lấy lời khai người làm chứng nhằm đảm bảo tính khách quan, trung thực trong hoạt động lấy lời khai người làm chứng sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc điều tra giải quyết vụ án hình sự; góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào sự công minh của pháp luật, của Nhà nước trong công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm. Tình hình tội phạm trong những năm trở lại đây ngày càng gia tăng, với những hình thức và thủ đoạn hết sức tinh vi nhằm che giấu hành vi phạm tội trước cơ quan điều tra, nhất là các vụ án đặc biệt nghiêm trọng, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân, gây tâm lý hoang mang, lo sợ cho người dân. Xuất phát từ tình hình trên yêu cầu đặt ra là phải nhanh chóng điều tra phá án xử lý đúng người, đúng 1 tội, bên cạnh đó là sự phối hợp của các ngành có liên quan và quan trọng hơn nữa là tinh thần tố giác tội phạm, kịp thời cung cấp những thông tin thật sự có giá trị cho cơ quan điều tra để tiến hành xác minh làm rõ sự thật của các vụ án đã xảy ra trên địa bàn, để thực hiện có hiệu quả những yêu cầu trên thì người làm chứng cũng có vai trò quan trọng giúp cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nhanh chóng làm sáng tỏ sự thật của vụ án đã xảy ra. Trong tố tụng hình sự thì hoạt động lấy lời khai người làm chứng là một hoạt động rất quan trọng, bởi người làm chứng là một trong những người tham gia tố tụng hình sự, do lời khai của người làm chứng là một trong những nguồn chứng cứ để giải quyết vụ án, nhưng đồng thời đây cũng là hoạt động khó khăn và phức tạp trong quá trình điều tra vụ án. Tuy nhiên, trong hoạt động lấy lời khai người làm chứng trong tố tụng hình sự vẫn còn một số thiếu sót, hạn chế nhất định, như: pháp luật tố tụng hình sự chưa quy định số lần phải tiến hành lấy lời khai người làm chứng nên có vụ án lấy lời khai nhiều lần gây lãng phí thời gian, công sức... Bên cạnh đó, vấn đề bảo vệ người làm chứng chưa được luật qui định cụ thể đã có những tác động tiêu cực như ảnh hưởng xấu đến tâm lí, suy nghĩ của người làm chứng khiến họ cung cấp những tài liệu, chứng cứ liên quan vụ án cho các cơ quan tiến hành tố tụng sai sự thật, không dám khai báo những gì họ biết cho cơ quan tiến hành tố tụng vì sợ bị trả thù... gây khó khăn cho quá trình điều tra, trong thời gian qua, thực tiễn hoạt động lấy lời khai người làm chứng của các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước còn gặp rất nhiều khó khăn cần được nghiên cứu, tổng kết để có những kiến nghị, giải pháp riêng và chung thích hợp. Xuất phát từ các lý do về lý luận và thực tiễn nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài “Hoạt động lấy lời khai người làm chứng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Chơn thành, tỉnh Bình Phước” làm luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 2 Hoạt động lấy lời khai người làm chứng là một trong số các hoạt động có ý nghĩa chứng minh trong tố tụng hình sự, Tình hình nghiên cứu hiện nay chủ yếu tập trung vào hoạt động chứng minh trong tố tụng hình sự mà chưa có nhiều nghiên cứu chuyên sâu liên quan đến hoạt động lấy lời khai của người làm chứng nên người viết chủ yếu nghiên cứu hoạt động lấy lời khai người làm chứng trong các tài liệu liên quan đến hoạt động chứng minh trong tố tụng hình sự. Đặc biệt, chứng minh là hoạt động phức tạp, nhạy cảm và được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Một số công trình nghiên cứu về hoạt động chứng minh trong giai đoạn xét xử chủ yếu tập trung vào việc nghiên cứu ở góc độ lý luận và tham khảo thực tiễn hoạt động đánh giá chứng cứ của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình chứng minh vụ án hình sự như: - Nguyễn Duy Thuận (1998), Sách “Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, lý luận và thực tiễn”; - Vũ Văn Anh (2013), Chứng minh trong tố tụng hình sự, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội; - Nguyễn Thị Thúy Hà (2008), Đánh giá, sử dụng chứng cứ trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội; - Bùi Hữu Danh (2013), Lấy lời khai người làm chứng, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Dưới góc độ bài viết đăng trên các tạp chí khoa học pháp lý có những công trình điển hình như: “Đặc điểm của hoạt động chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự" (Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 8/2006) của tác giả Nguyễn Văn Du; “Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về hoạt động chứng minh” (Tạp chí Nghề luật, số 4/2008) của tác giả Nguyễn Văn Huyên; “Hoàn thiện chế định về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự” (Tạp chí kiểm sát, số 18+20/2008) của tác giả Mai Thế Bày v.v... Các công trình này đã đề cập đến các góc độ khác nhau về lý luận của hoạt động chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, nhấn mạnh đến khái niệm 3 chứng minh và vai trò, nhiệm vụ của Tòa án trong hoạt động kiểm tra, đánh giá chứng cứ để đưa ra phán quyết cũng như việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành nhằm nâng cao hiệu quả và tính chính xác của hoạt động chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, trạng và hoàn thiện pháp luật về chế định người làm chứng. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu và các bài viết trên chỉ nghiên cứu chuyên sâu ở một khía cạnh nhất định, hay mới chỉ đề cập đến việc đánh giá thực tiễn, mà chưa có một công trình nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về hoạt động lấy lời khai người làm chứng trong tố tụng hình sự, đánh giá những tồn tại trong thực tiễn áp dụng pháp luật về lấy lời khai người làm chứng và để ra biện pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả hoạt động này trong thực tiễn. Trên cơ sở kế thừa kết quả của các công trình nghiên cứu khoa học nói trên, cũng như nhiều bài viết trong các tạp chí và sách chuyên khảo luật, luận văn đã tiếp cận nghiên cứu về chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự một cách toàn diện về lý luận. Trên cơ sở đó tham khảo thực tiễn hoạt động xét xử các vụ án hình sự trên địa bàn huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước để minh chứng cho hoạt động này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài nghiên cứu nhằm làm rõ lý luận về hoạt động lấy lời khai người làm chứng trong tố tụng hình sự, qui định của pháp luật tố tụng hình sự về hoạt động lấy lời khai người làm chứng và thực tiễn áp dụng thời gian qua. Trên cơ sở đó đánh giá, rút ra những thiếu sót, hạn chế trong qui định của pháp luật thực định và thực tiễn áp dụng pháp luật thực định về hoạt động lấy lời khai người làm chứng trong điều tra các vụ án hình sự. Đồng thời, để xuất hoàn thiện các quy định của pháp luật thực định về hoạt động lấy lời khai người làm chứng và kiến nghị biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động này trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Luận văn nghiên cứu là những vấn đề lý luận cơ bản về tố tụng hình sự, chủ thể tiến hành tố tụng, chủ thể tham gia tố tụng, chứng cứ và nguồn chứng cứ, các 4 biện pháp điều tra, hoạt động lấy lời khai của người làm chứng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. - Luận văn nghiên cứu các hoạt động lấy lời khai của người bị hại trên địa bàn huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng gồm: Các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án từ đó xác định những thuận lợi và khó khăn vướng mắc nhằm nâng cao chất lượng hoạt động này trong tố tụng hình sự Việt Nam nói chung và hoạt động lấy lời khai người làm chứng trên địa bàn tỉnh Bình Phước nói riêng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu của luận văn. + Trong các vụ án hình sự có những người làm chứng đồng thời cũng là người bị hại và có những người làm chứng không bị hành vi phạm tội gây thiệt hại về tài sản, thể chất hoặc tinh thần. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này tác giả chỉ đề cập và nghiên cứu đến hoạt động lấy lời khai người làm chứng không bị hành vi phạm tội gây thiệt hại về tài sản, thể chất hoặc tinh thần. Đề tài cũng chỉ tập trung việc lấy lời khai người bị hại với ý nghĩa là hoạt động thu thập chứng cứ trong các giai đoạn tố tụng hình sự. + Về không gian và vấn đề nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động lấy lời khai người bị hại trên địa bàn huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước. + Về thời gian Luận văn chỉ khảo sát số liệu thực tiễn trong phạm vi từ năm 2014 đến năm 2019. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền. Tác giả sử dụng hệ thống phương pháp phổ biến hiện nay trong nghiên cứu khoa học như: phân tích, tổng hợp, thống kê, tham khảo ý kiến chuyên gia để làm 5 cách thức tiếp cận đề tài. Các biện pháp này quan hệ biện chứng hỗ trợ nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ để làm sáng tỏ mục tiêu của đề tài. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Các kết quả của luận văn có ý nghĩa trong việc bổ sung lý luận về hoạt động lấy lời khai của người làm chứng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Các kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, học tập cũng như làm tài liệu cho các cán bộ Kiểm sát trong hoạt động nghiệp vụ của mình. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hoạt động lấy lời khai của người làm chứng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam Chương 2: Quy định về hoạt động lấy lời khai của người làm chứng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn hoạt động này trên địa bàn huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước Chương 3: Giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng hoạt động lấy lời khai của người làm chứng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. 6 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG LẤY LỜI KHAI CỦA NGƯỜI LÀM CHỨNG THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Một số vấn đề chung và khái niệm 1.1.1. Một số vấn đề chung Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và thực hiện chủ trương cải cách tư pháp, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của công tác điều tra, truy tố, xét xử và bảo đảm quyền con người. Trong đó, quy định trình tự, thủ tục tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và một số thủ tục thi hành án hình sự; nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân; hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự [12, tr.1]. Bên cạnh đó, yêu cầu đặt ra đối với các cơ quan tiến hành tố tụng là phải phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội. Quá trình này được diễn ra liên tục, kể từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc vụ án, bao gồm các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật (kiểm tra xác minh nguồn tin, khởi tố vụ án hình sự, tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án...) của cơ quan có thẩm quyền, với sự tham gia tố tụng của những người có liên quan đến vụ án, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội cà của công dân nhằm góp phần vào việc giải quyết vụ án hình sự. Khi một sự kiện pháp lý xảy ra nếu chứa đựng hậu quả hoặc hành vi hay vừa chứa đựng hậu quả lại vừa chứa đựng hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm cụ thể thì sự kiện pháp lý đó được gọi là vụ việc mang tính hình sự và các cơ quan có thẩm quyền tố tụng được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự phải có trách nhiệm điều tra, xác minh làm rõ xem có khởi tố vụ án hay không. Vụ án hình sự là vụ việc mang tính hình sự, có dấu hiệu của tội phạm được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án để tiến hành 7 điều tra, truy tố, xét xử theo các trình tự, thủ tục đã được quy định ở Bộ luật tố tụng hình sự. Khái niệm tố tụng hình sự có thể hiểu là quá trình giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật. Tố tụng hình sự gồm toàn bộ hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra), người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án, Cán bộ được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra), người tham gia tố tụng (Bị can, Bị cáo, Người bào chữa, Người bị hại, nguyên đơn dân sự, Bị đơn dân sự...) của cá nhân, các cơ quan khác của Nhà nước và các tổ chức xã hội nhằm góp phần vào việc giải quyết vụ án theo quy định của luật tố tụng hình sự. Giải quyết vụ án hình sự là một quá trình liên tục, gồm nhiều bước khác nhau, mỗi bước trong quá trình tố tụng thể hiện một hướng nhất định, thực hiện một nhiệm vụ riêng, góp phần thực hiện nhiệm vụ của tố tụng hình sự và thường được tiến hành bởi những chủ thể nhất định. Kết quả của các bước tố tụng thường được thể hiện bằng các văn bản tố tụng đặc thù, các bước đó được gọi là các giai đoạn tố tụng. Căn cứ vào mục đích, chủ thể tiến hành, văn bản tố tụng đặc thù và kết quả của tố tụng thì tố tụng hình sự Việt Nam được chia làm bốn giai đoạn gồm: Giai đoạn khởi tố, giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố và giai đoạn xét xử. - Giai đoạn khởi tố bắt đầu từ khi có tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đến khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hoặc không khởi tố vụ án hình sự - Giai đoạn điều tra bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án và kết thúc khi cơ quan điều tra ra Bản kết luận điều tra chuyển hồ sơ vụ án đến Viện kiểm sát để đề nghị truy tố và được Viện kiểm sát vào sổ thụ lý hoặc kết thúc khi Cơ quan có thẩm quyền ban hành quyết định đình chỉ vụ án của Cơ quan điều tra hoặc Khi cơ 8 quan có thẩm quyền hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án không có căn cứ và trái pháp luật. - Giai đoạn truy tố bắt đầu Viện kiểm sát tiếp nhận hồ sơ do cơ quan điều tra chuyển đến và kết thúc khi có Quyết định truy tố (Cáo trạng) đề nghị truy tố, chuyển hồ sơ đến Tòa án đề nghị xét xử và Tòa án thụ lý hồ sơ hoặc kết thúc khi có Quyết định đình chỉ vụ án của Viện kiểm sát. - Giai đoạn xét xử bắt đầu khi Tòa án thụ lý hồ sơ vụ án và kết thúc khi có bản án có hiệu lực pháp luật hoặc khi có Quyết định đình chỉ vụ án của Tòa án Lấy lời khai của người làm chứng là một trong những biện pháp điều tra được quy định tại Điều 186 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được thực hiện trước và sau khi khởi tố vụ án hình sự. 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của người làm chứng Theo từ điển tiếng Việt, thuật ngữ người làm chứng dùng để chỉ những người chứng kiến một sự việc, hiện tượng đã xảy ra và có thể mô tả lại cho người khác về sự việc đó [31, tr. 539]. Còn trong dân gian, thuật ngữ người làm chứng thường được gọi là “nhân chứng”, mà theo đó thì “nhân chứng” là người bằng mắt thấy, tai nghe hoặc do những nguồn tin khác cung cấp mà biết được những tình tiết có liên quan đến vụ án, được cơ quan điều tra lấy lời khai, được Tòa án, Viện kiểm sát triệu tập đến làm chứng trước và tại phiên tòa. Làm chứng là một nghĩa vụ của công dân. Nhân chứng có nhiệm vụ có mặt khi được cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập và phải khai báo đúng sự thật, nếu gian dối trong khai báo hoặc trốn tránh việc khai báo mà không có lý do chính đáng có thể bị xử lý theo pháp luật. Theo quan điểm của các nhà khoa học Đại học Luật Hà Nội thì: “Người làm chứng là người biết các tình tiết có liên quan đến vụ án và được các cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập để khai báo về những sự việc cần xác minh trong vụ án” [21, tr.145]. Theo cách hiểu này thì người làm chứng là người biết được các thông tin, tình tiết liên quan đến vụ án đang điều tra nên họ được các cơ quan tiến hành tố tụng (gồm cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) triệu tập họ để họ khai báo về 9 những gì họ biết liên quan vụ án phục vụ điều tra làm rõ vụ án để xử lý trước pháp luật. Còn theo quan điểm của các nhà khoa học thuộc Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh thì: “Người làm chứng là người biết được tình tiết có liên quan đến vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập tham gia tố tụng” [22, tr.189]. Theo quan điểm của các nhà khoa học thuộc Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh thì người làm chứng là người biết về các thông tin, tình tiết liên quan đến vụ án, được các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập họ tham gia vào các hoạt động tố tụng, có thể là tham gia vào các hoạt động điều tra (lấy lời khai người làm chứng, thực nghiệm điều tra, đối chất, nhận dạng...) hay tham gia vào quá trình xét xử của Tòa án. Theo quy định tại Điều 66 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thì người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng Người làm chứng tham gia vào quá trình tố tụng theo sự triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng hoặc tự nguyện đến cơ quan tiến hành tố tụng khai báo về các tình tiết mà mình biết, được các cơ quan tiến hành tố tụng xác định tư cách là người làm chứng trong vụ án hình sự. Nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới như Liên bang Nga, Vương quốc Thái Lan... cho thấy, Bộ luật Tố tụng hình sự của các nước này, đều quy định về trình tự, thủ tục lấy lời khai của người làm chứng. Trong Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga, địa điểm và thời gian hỏi cung người làm chứng được quy định tại Điều 187, thủ tục triệu tập người làm chứng để hỏi cung được quy định tại Điều 188, những quy định chung khi tiến hành hỏi cung được quy định tại Điều 189. Điều 189 quy định: “Trước khi hỏi cung, dự thẩm viên thực hiện những yêu cầu được quy định tại khoản 4 Điều 164 Bộ luật này. Nếu dự thẩm viên nghi ngờ về việc người bị hỏi cung không sử dụng thành thạo ngôn ngữ được dùng trong tố tụng, thì dự thẩm viên giải thích cho người được hỏi cung trình bày nguyện vọng được khai báo bằng ngôn ngữ nào. Nghiêm cấm 10 đưa ra các câu hỏi có tính chất mớm cung. dự thẩm viên được tự do lựa chọn chiến thuật hỏi cung”. Bộ luật Tố tụng hình sự Vương quốc Thái Lan quy định về trình tự, thủ tục hỏi cung người làm chứng, người bị hại và những người khác tại Điều 133: “Trong quá trình thẩm tra, điều tra viên có thể yêu cầu người đó tuyên thệ hoặc khẳng định sự trung thực của lời khai trước khi khai báo, đồng thời điều tra viên phải tuân theo mọi quy định về chứng cứ, lời khai của Bộ luật này... Không điều tra viên nào được phép gợi ý, khuyến khích hay dùng nhục hình để ngăn cản người bị lấy lời khai khai báo theo nguyện vọng của họ” [30, tr.37]. Bộ luật Tố tụng hình sự Hàn Quốc quy định về lời thề của người làm chứng tại Điều 156 và Điều 157. Điều 156 quy định: “Một nhân chứng sẽ bắt buộc phải thề trước khi bị thẩm vấn, trừ khi Luật quy định khác” [27, tr.33]. Điều 157 Bộ luật quy định mẫu lời thề tuyên thệ: "Văn bản tuyên thệ sẽ ghi “Tôi thề rằng tôi sẽ nói sự thật, toàn bộ sự thật và không phải là cái gì khác ngoài sự thật mà tôi được biết, nếu có điều gì sai trái trong lời nói của tội, tôi sẽ bị xử phạt” [27, tr.33]. Bộ luật Tố tụng hình sự Cộng hòa Pháp, ngoài việc quy định người làm chứng phải tuyên thệ và khai tại Điều 437, Điều 438 còn quy định cụ thể về trách nhiệm của người làm chứng: “Nếu người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa hoặc không chịu tuyên thệ, không chịu khai, thì Viện Công tố có thể yêu cầu Tòa tiểu hình xử phạt người này theo quy định tại Điều 109” [5, tr.197]. Đáng lưu ý, pháp luật tố tụng hình sự Liên bang Malaysia phân loại người làm chứng thành hai loại: người làm chứng buộc tội và người làm chứng gỡ tội. Để đảm bảo sự có mặt của người làm chứng tại phiên tòa, Điều 145 Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Malaysia quy định về cam kết của người làm chứng: “1. Người làm chứng buộc tội va người làm chứng gỡ tội cần phải có mặt tại phiên tòa xét xử trước Tòa án cấp cao, phải thực hiện cam kết trước cán bộ xét xử sẽ có mặt tại phiên tòa xét xử khi được triệu tập để cung cấp chứng cứ và cán bộ xét xử có thể cân nhắc yêu cầu họ đảm bảo chấp hành cam kết đó” [28, tr.67]. 11 Khác với pháp luật tố tụng hình sự các nước nói trên, pháp luật tố tụng hình sự Nhật Bản quy định người làm chứng được từ chối trả lời bất kỳ câu hỏi nào buộc tội những người thân thích của họ. Điều 147 Bộ luật tố tụng hình sự Nhật Bản quy định: “Một người làm chứng có thể từ chối trả lời bất kỳ câu hỏi nào mà có thể nghiêng về hướng buộc tội những người sau đây: 1. Vợ chồng, người thân ruột thịt trong phạm vi ba đời hoặc người bà con gần gũi trong phạm vi hai đời của người làm chứng hoặc người đã có mối quan hệ với người làm chứng. 2. Người giám hộ, người giám sát của người giám hộ hoặc người phụ trách của người làm chứng. 3. Người mà được người làm chứng giám hộ, phụ trách hoặc giám sát người giám hộ của người đó” [29, tr.26]. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử ở nước ta đã dựa trên những căn cứ (tiêu chí) nhất định để phân loại người làm chứng. Việc phân loại người làm chứng thành các nhóm khác nhau dựa trên cơ sở một căn cứ xác định nhằm phục vụ cho việc thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ từ lời khai của người làm chứng có hiệu quả hơn. Có nhiều cách phân loại khác nhau, nhưng trên thực tế, các cơ quan tiến hành tố tụng có thể sử dụng các cách phân loại dựa trên tiêu chí độ tuổi, quốc tịch, ngôn ngữ, nguồn gốc sự hiểu biết các tình tiết có liên quan đến vụ án, sự liên quan đến vụ án hình sự, quan hệ với bị can, bị cáo, đặc điểm thể chất, tinh thần, trình độ học vấn... Sự phân loại người làm chứng theo các tiêu chí khác nhau ở trên có tác dụng giúp cho việc thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ từ lời khai của người làm chứng được khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác. Trên cơ sở quan điểm này, chúng ta không đồng tình với quan điểm tư sản đánh giá chứng cứ dựa vào giới, địa vị xã hội của người làm chứng: “Khi những người làm chứng hợp pháp đáng tin cậy ngang nhau, trong trường hợp lời khai của họ mâu thuẫn với nhau thì người được hưởng ưu tiên là: 1) đàn ông được ưu tiên hơn đàn bà; 2) người cao quý được ưu tiên hơn thường dân; 3) người học giả được ưu tiên hơn người không phải là học giả; 4) thầy tu được ưu tiên hơn người thế tục” [17, tr.171]. 12 Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy, khi thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ từ lời khai của người làm chứng, phải chú ý cả những yếu tố khách quan lẫn những yếu tố chủ quan ảnh hưởng tới mức độ chính xác trong lời khai của người làm chứng: thời gian người làm chứng tri giác sự kiện, hiện tượng ngắn; khoảng thời gian từ khi tri giác sự kiện, hiện tượng cho đến khi cung cấp lời khai cho các cơ quan tiến hành tố tụng quá lâu; khoảng cách từ người làm chứng đến đối tượng được tri giác quá xa; điều kiện thời tiết không thuận lợi cho việc tri giác như sương mù, mưa, gió...); những kẻ phạm tội đã cố ý ngụy trang vấn đề mà người làm chứng đã nhận biết, tri giác; người làm chứng có mối quan hệ gia đình, công tác... với bị can, bị cáo hoặc người bị hại; một số giác quan của người làm chứng có khuyết tật; người làm chứng không chú ý đến sự kiện, hiện tượng đã tri giác... Trong trường hợp lời khai của những người làm chứng về cùng một sự kiện, hiện tượng có mâu thuẫn với nhau, thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải làm rõ mâu thuẫn đó, chứ không được áp đặt, suy diễn theo ý chí chủ quan. Người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến vụ án hình sự và được cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập đến với tư cách người làm chứng để lấy lời khai theo đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Lời khai của người làm chứng là lời trình bày của một người không bị người phạm tội xâm hại nhưng đã biết được những tình tiết liên quan đến vụ án. Do lời khai người làm chứng là nguồn chứng cứ phổ biến và là “một trong những nguồn chứng cứ lâu đời và phổ biến nhất” [25, tr.62] nên Bộ luật Tố tụng hình sự có quy định về nghĩa vụ khai báo và trách nhiệm của người làm chứng về việc khai báo đó. Ngoài ra, Bộ luật còn quy định người làm chứng phải là người có năng lực nhận thức, tỉnh táo không mắc bệnh tâm thần, phải có khả năng khai báo đúng đắn và có trách nhiệm đối với lời khai đó. Những người bào chữa cho bị can, bị cáo không được làm chứng trong vụ án. Từ những phân tích ở trên, theo tác giả, chúng ta có thể hiểu khái niệm người làm chứng như sau: “Người làm chứng là người biết được các thông tin, tình tiết có liên quan đến vụ án hình sự và được các cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập để lấy 13 lời khai của họ về những sự việc, thông tin tình tiết cần xác minh làm rõ trong vụ án hình sự”. Tuy có sự trình bày khác nhau về khái niệm “người làm chứng” người làm chứng trong vụ án hình sự đều có các đặc điểm sau: Thứ nhất, họ là người biết các tình tiết có liên quan đến vụ án đang điều tra. Những tình tiết mà người làm chứng biết được có thể liên quan đến đối tượng chứng minh được quy định tại Điều 85 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 hoặc các tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án. Việc họ biết được các tình tiết của vụ án là một thực tế khách quan và vì vậy, họ có thể được triệu tập đến để khai báo về các tình tiết của vụ án với tư cách là người làm chứng. Việc biết có thể là: - Biết trực tiếp: là trực tiếp tri giác, phát hiện những tình tiết có liên quan đến vụ án đã xảy ra, thông qua các cơ quan cảm giác như mắt nhìn, tai nghe... không thông qua khâu trung gian nào. Do vậy, lời khai của người làm chứng biết trực tiếp thường có độ chính xác cao. - Biết gián tiếp: là việc họ biết được các tình tiết của vụ án thông quan khâu trung gian như nghe người khác kể lại, đọc tài liệu... Do vậy, lời khai của người làm chứng biết gián tiếp thường bị thiếu đầy đủ, thiếu chính xác, sự khách quan bị hạn chế. Tuy nhiên, từ lời khai của người làm chứng biết gián tiếp có thể xác định được người làm chứng biết trực tiếp của vụ án. Lời khai của họ cũng góp phần củng cố thêm tài liệu, chứng cứ của vụ án; là cơ sở để tiến hành các hoạt động điều tra làm rõ vụ án. Thứ hai, được Cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập đến để lấy lời khai theo đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền theo quy định của pháp luật Tố tụng hình sự. Do người làm chứng biết được các tình tiết có liên quan đến vụ án đang được điều ttra nên họ được cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập đến để lấy lời khai theo đúng thủ tục pháp luật Tố tụng hình sự. Trong một vụ án, có thể có nhiều người biết các thông tin liên quan đến vụ án nhưng không phải tất cả những người biết được các tình tiết liên quan đến vụ án đều là người làm chứng, mà chỉ những người nào được cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập đến để lấy lời khai mới là người làm chứng. 14 Do vậy, khi triệu tập người làm chứng để lấy lời khai của họ, các cơ quan tiến hành tố tụng thường lựa chọn triệu tập những người biết được nhiều tin tức quan trọng, biết được các tình tiết một cách sâu sắc, chính xác, đầy đủ... để lấy lời khai của họ với tư cách là người làm chứng. Những người được triệu tập làm người làm chứng có thể là người Việt Nam đã thành niên, người chưa thành niên, người nước ngoài đang sống ở Việt Nam... hoặc thậm chí có thể là bị can, bị cáo của những vụ khác. Thứ ba, người làm chứng là người có thể khai báo chính xác, khách quan, turng thực tất cả những thông tin mà họ biết về vụ án hình sự. Người làm chứng là người biết được các thông tin, tình tiết có liên quan đến vụ án hình sự nhưng họ không phải là người có quyền và lợi ích hợp pháp liên quan đến vụ án nên lời khai của họ thường trung thực, khách quan, có ý nghĩa lớn trong việc xác định sự thật của vụ án. Do vậy, trong lựa chọn và triệu tập người làm chứng, các cơ quan tiến hành tố tụng phải lựa chọn triệu tập những người có khả năng mô tả một cách tốt nhất, trung thực nhất, khách quan nhất những hiểu biết của họ về các tình tiết của vụ án. Trong điều tra vụ án hình sự, để đảm bảo lời khai của người làm chứng khách quan, trung thực thì những người sau đây không được triệu tập với tư cách là người làm chứng để lấy lời khai của họ gồm: - Người bào chữa của người bị buộc tội. Người bào chữa của người bị buộc tội có thể là: Luật sư, người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân. Pháp luật quy định, người bào chữa chỉ được đưa ra những chứng cứ có lợi cho bị cáo. Họ không thể làm chứng vì nghĩa vụ của người làm chứng là khai báo trung thực tất cả những gì họ biết về vụ án hình sự. Nghĩa vụ đó mâu thuẫn với nghĩa vụ của người bào chữa. Do đó, người bào chữa không được tham gia với hai tư cách trong cùng một vụ án. Họ có trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo. Khi đó nếu để cho họ là người làm chứng trong vụ án sẽ không đảm bảo tính khách quan, công minh của pháp luật. - Người do nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức được những tình tiết liên quan nguồn tin về tội phạm, về vụ án hoặc 15 không có khả năng khai báo đúng đắn. Người làm chứng phải là người có khả năng nhận thức đúng đắn về một sự việc và phải có khả năng khai báo đúng đắn về sự việc đó. Vì vậy, nếu vào thời điểm nhận thức sự việc hoặc thời điểm khai báo về sự việc mà họ do có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần mà không có khả năng nhận thực hoặc khai báo đúng đắn thì họ không được làm chứng. Tuy nhiên, nếu các nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần không ảnh hưởng đến khả năng nhận thức và khai báo đúng đắn thì họ vẫn được làm chứng. Tóm lại, người làm chứng luôn giữ một vai trò quan trọng trong điều tra làm rõ sự thật khách quan củ vụ án hình sự. Họ có thể là người trực tiếp hoặc gián tiếp biết các tình tiết của vụ án nhưng họ là người không có quyền và lợi ích pháp lý liên quan đến vụ án nên lời khai của họ thường khách quan, trung thực, có giá trị chứng minh. Việc nhận thức đúng về người làm chứng sẽ có ý nghĩa to lớn trong xác định sự thật khách quan của vụ án hình sự, đảm bào xử lý đúng người, đúng tội, không để lọt tội phạm, không làm oan sai người vô tội. 1.1.3. Khái niệm, đặc điểm của hoạt động lấy lời khai người làm chứng Lời khai của người làm chứng là một trong những nguồn chứng cứ truyền thống và phổ biến trong các vụ án hình sự vì người làm chứng là người biết được các thông tin, tình tiết của vụ án, như: biết được diễn biến của vụ án hình sự, hoàn cảnh phạm tội, thời gian, địa điểm, nhân thân người phạm tội, người bị hại... Đây là nguồn chứng cứ rất quan trọng góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án hình sự. Nhất là trong giai đoạn đầu điều tra vụ án, lời khai của người làm chứng thường là cơ sở để tiến hành những biện pháp cấp bách, như: khám nghiệm hiện trường, truy bắt thủ phạm sau khi thủ phạm gây án bỏ trốn, khám xét... Do vậy, khi điều tra viên nhận được tin báo tố giác tội phạm cần khẩn trương xác định những người có thể biết được các thông tin, tình tiết của vụ án để tiến hành lấy lời khai của họ với tư cách là người làm chứng để thu thập tin tức, tài liệu phục vụ điều tra truy bắt thủ phạm... Lời khai người làm chứng là nguồn chứng cứ mà nguồn phản ánh của nó là những con người cụ thể mang tính cá biệt cao vì lời khai người làm chứng là các 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan