Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng của nhtm trong nền ...

Tài liệu Luận văn hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng của nhtm trong nền kinh tế thị trường định hướng xhcn ở việt nam

.PDF
90
69
143

Mô tả:

1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Từ năm 1986, Việt Nam bắt đầu công cuộc đổi mới và chuyển đổi sang cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cho dù xây dựng kinh tế thị trường theo mô hình nào trong lịch sử thì Nhà nước cũng phải thực hiện nhiệm vụ có tầm quan trọng bậc nhất là cung cấp khung khổ pháp lý rõ ràng, nghiêm minh, có hiệu lực và phù hợp với đòi hỏi của cơ chế thị trường. Trong đó có khung luật pháp cho việc xây dựng và vận hành thị trường các yếu tố sản xuất quan trọng nhất như lao động, vốn, đất đai, tài sản, khoa học công nghệ…Về vấn đề này, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Nghị quyết đã đánh giá thực trạng của hệ thống pháp luật nước ta, nguyên nhân, định hướng và các giải pháp thực hiện chiến lược . Tín dụng nói chung và tín dụng NHTM nói riêng là chiếc cầu nối giữa cung và cầu về vốn trong nền kinh tế.Tín dụng NHTM có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế đối với nước ta, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế còn phát triển chủ yếu dựa vào vốn. Tín dụng NHTM là một mối quan hệ kinh tế nên cần phải có một hành lang pháp lý. Hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng NHTM là toàn bộ các văn bản quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh hành vi của các chủ thể tham gia vào mối quan hệ tín dụng NHTM …. Tín dụng là mối quan hệ dựa trên sự chuyển giao tài sản, mục đích sử dụng tài sản, thế chấp, cầm cố, xử lý thu hồi nợ. Do đó đòi hỏi phải có một hành lang pháp lý đầy đủ , thống nhất, minh bạch để tín dụng NHTM có thể vận hành một cách thông suốt, mang lại lơi ích cho nền kinh tế. Nhà nước ta trong gần ba mươi năm đổi mới đã đạt nhiều thành công trong việc tạo lập hệ thống pháp luật cho nền kinh tế thị trường vận hành và phát triển. Trong đó hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng NHTM cũng từng bước được hoàn thiện. Tuy nhiên, thực tiễn cũng chỉ ra hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng của NHTM ở Việt Nam hiện nay còn thiếu nhiều quy định cần thiết, các quy định còn chưa đồng bộ, chồng chéo, thiếu tính thống nhất, có quy định còn chưa 2 khả thi, chưa theo kịp thực tiễn như về điều kiện cho vay, thế chấp, cầm cố tài sản, xử lý tài sản để thu hồi nợ…. Một khi hành lang pháp lý còn nhiều vấn đề như trên, các NHTM sẽ lúng túng trong áp dụng luật pháp khi thẩm định các khoản tín dụng, việc thu hồi nợ khi có rủi ro xảy ra gặp nhiều khó khăn…ảnh hưởng đến sự phát triển của hoạt động tín dụng của NHTM. Nếu những quy định của pháp luật không rõ ràng, không đồng bộ, có nhiều kẽ hở thì sẽ rất khó khăn cho Ngân hàng trong các hoạt động nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Với những văn bản pháp luật đầy đủ rõ ràng, đồng bộ sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng yên tâm hoạt động kinh doanh, cạnh tranh trong lĩnh vực này. Đây là cơ sở pháp lý để Ngân hàng xử lý các khiếu nại, tố cáo khi có tranh chấp xảy ra. Điều đó giúp Ngân hàng tăng cường hoạt động cho vay . Do đó nếu chậm được hoàn thiện, hành lang pháp lý sẽ không còn là con đường bằng phẳng mà ngược lại sẽ là rào cản trong việc phát triển tín dụng NHTM, gây ra nhiều vấn đề pháp lý cần phải giải quyết, gây ách tắc trong hoạt động tín dụng NHTM, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế của đất nước. Từ những lý do trên đây, tôi chọn đề tài “Hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng của NHTM trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ – chuyên ngành Kinh tế chính trị. 2. Tình hình nghiên cứu Vấn đề tín dụng các NHTM đã được nghiên cứu trong rất nhiều công trình khoa học của các tác giả trong nước. Một số công trình nghiên cứu cơ bản như: - Giải pháp hoàn thiện quan hệ tín dụng giữa NHTM với các doanh nghiệp ở Việt Nam - Lê Thị Thanh Hà. Trường Đại Học Kinh Tế, 2003 . Trong công trình này, tác giả trình bày những lý luận cơ bản, nêu một số thực trạng về hoạt đông tín dụng tại các NHTM tại Việt Nam cũng như đưa ra các giải pháp để hoàn thiện quan hệ tín dụng giữa NHTM với các doanh nghiệp ở Việt Nam - Giải Pháp Mở Rộng và Phát Triển Hình Thức Tín Dụng Ngân Hàng trong Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước - Lê Minh Vũ. - TP.HCM : Trường Đại Học Kinh Tế, 2001. Với công trình này, ngoài những lý luận cơ bản, một số 3 thực trạng về hoạt đông tín dụng tại các NHTM tại Việt Nam, tác giả đưa ra các giải pháp mở rộng và phát triển các hình thức tín dụng Ngân hàng ở Việt Nam. - Nghiên cứu các nhân tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam : Luận văn thạc sĩ - Trần Thị Ngọc Hạnh ; người hướng dẫn: TS Nguyễn Thị Loan. - TP.HCM : Trường Đại Học Kinh Tế, 2012. Trong nghiên cứu này tác giả đã phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả cũng như đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam - Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN - PGS, TS Hà Hùng Cường, 2008, Tạp chí nghiên cứu lập pháp. Trong nghiên cứu này, tác giả phân tích thực trạng chung và các giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung của nước ta - Thực trạng xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam- TS Đinh Văn Ân, 2006, Cổng thông tin Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương. Một số vấn đề về xây dựng pháp luật cho kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã được tác giả phân tích . Tuy nhiên các công trình trên chưa đi sâu phân tích thực trạng cũng như đề ra các giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng của các NHTM. Trong luận văn của này, tác giả kế thừa những thành quả của những nghiên cứu trước, đồng thời cố gắng làm rõ những lý luận cơ bản , hệ thống hóa các vấn đề về thực trạng hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng NHTM tại Việt Nam cũng như đưa ra các giải pháp hoàn thiện. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn được xác định là những vấn đề cơ bản thuộc về khung pháp lý mà Nhà nước đã ban hành nhằm điều chỉnh mối quan hệ tín dụng giữa các NHTM và khách hàng. 3.2. Phạm vi nghiên cứu và giới hạn Luận văn nghiên cứu thực trạng hệ thống các văn bản pháp luật dưới góc độ tín dụng của các NHTM . Tín dụng ngân hàng là hoạt động trung gian tài chính huy động vốn của xã hội để cho vay đối với nền kinh tế . Cấp tín dụng của NHTM bao gồm nhiều 4 nghiệp vụ như : cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính, chiết khấu giấy tờ có giá... nhưng thực tiễn khi nói đến tín dụng ngân hàng là nói đến hoạt động cho vay. Do đó luận văn này chỉ nghiên cứu dưới góc độ huy động vốn và cho vay của các NHTM. 4. Mục đích nghiên cứu: Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về vai trò của Nhà nước trong việc ban hành khung pháp lý để điều chỉnh mối quan hệ tín dụng; về hệ thống pháp luật; về tín dụng NHTM, từ đó đề xuất phương hướng, quan điểm và các giải pháp chủ yếu để hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng các NHTM. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu : - Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản như vai trò của Nhà nước trong việc ban hành hệ thống pháp luật trong nền kinh tế thị trường ; hành lang pháp lý ở nước ta cho tín dụng NHTM. - Phân tích thực trạng hệ thống văn bản pháp luật ở nước ta điều chỉnh mối quan hệ tín dụng NHTM ở nước ta từ năm 1986 đến nay tức là giai đoạn xây dựng kinh tế thị trường. Trên cơ sở những phân tích về lý luận, thực tiễn có những đề xuất phương hướng, quan điểm và các giải pháp chủ yếu để hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng các NHTM ở nước ta. 6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 6.1 Phương pháp luận Luận văn dựa trên nền tảng thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp trừu tượng hoá khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, các nguyên lý của kinh tế chính trị Mác - Lênin 6.2 Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích so sánh và suy luận logic để tổng hợp các dữ liệu, sự kiện nhằm xác định kết quả phù hợp. - Phương pháp tổng hợp các phần nghiên cứu để đưa luận điểm khoa học. - Phương pháp thống kê mô tả 7. Kết cấu của luận văn 5 Chương 1: Lý luận chung về NHTM và hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng NHTM.trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Chương 2: Thực trạng hệ thống hành lang pháp lý điều chỉnh mối quan hệ tín dụng NHTM ở nước ta Chương 3: Định hướng và giải pháp chủ yếu để hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng NHTM ở nước ta. 6 CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HÀNH LANG PHÁP LÝ CHO HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN 1.1 Tổng quan về NHTM : 1.1.1 Khái niệm Ngân hàng là một loại hình trung gian tài chính của nền kinh tế mà hoạt động cốt lõi, mang bản chất ngân hàng là nhận tiền gửi, cấp tín dụng và thanh toán Từ khi ra đời từ thế kỷ thứ 15 cho đến nay, thuật ngữ ngân hàng không cố định mà có sự thay đổi theo thời gian và không gian. Khi mới hình thành khái niệm ngân hàng dùng để chỉ các tổ chức chuyên nhận tiền gửi và sử dụng tiền đó để cho vay. Sự phát triển của nền kinh tế đã cho ra đời nhiều loại hình tổ chức khác nhau có phương thức kinh doanh tiền tệ đa dạng phong phú nên thuật ngữ “Ngân hàng” trở nên hạn hẹp, không bao trùm hết được, vì vậy xu hướng trên thế giới sử dụng thuật ngữ “ Định Chế tài chính” có phạm vi rộng hơn, bao quát hơn Định Chế tài chính được hiểu là một doanh nghiệp mà tài sản chủ yếu của nó là các tài sản tài chính, các hình thức trái quyền như cổ phiếu, trái phiếu các khoản vay… Có thể khái quát về ngân hàng thông qua các điểm sau : Thứ nhất : Ngân hàng là một loại hình trung gian tài chính của nền kinh tế (cần phân biệt các khái niệm định chế tài chính-trung gian tài chính) Tuy nhiên là loại trung gian tài chính quan trọng nhất ( so sánh về số lượng cũng như quy mô phát triển) Thứ hai : Hoạt động cốt lõi, mang bản chất ngân hàng là nhận tiền gửi, cấp tín dụng và thanh toán. Đây là hoạt động có tính truyền thống hình thành lâu đời, thể hiện đặc trưng riêng biệt của ngân hàng Theo thời gian , hoạt động của các ngân hàng ngày càng mở rộng hơn so với các hoạt động cốt lõi mang tính truyền thống của nó trở thành loại hình ngân hàng đa năng, cung cấp những sản phẩm đa dạng, từ việc nhận tiền gửi, cung cấp dịch vụ thanh toán, cho vay thương mại, cho vay xuất nhập khẩu..cho đến tài trợ các vụ 7 mua bán, sát nhập công ty , tư vấn đầu tư giám hộ, mua bán kinh doanh chứng khoán (tự doanh), bảo hiểm. Luật về ngân hàng tại Việt nam không sử dụng thuật ngữ Định chế tài chính mà thay thế bằng thuật ngữ Tổ chức tín dụng. Theo đó các loại hình tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tín dụng tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân. Trong số đó ngân hàng là loại hình phổ biến nhất, chiếm tỷ lệ đông đảo nhất. Luật quy định Ngân hàng là tổ chức tín dụng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng bao gồm : ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã 1.1.2 Đặc điểm của Ngân hàng trong nền kinh tế hiện đại Với mục tiêu là tối đa hóa lợi nhuận, tối thiểu hóa rủi ro, kinh doanh ngân hàng có những đặc trưng cơ bản sau đây : Thứ nhất kinh doanh ngân hàng là kinh doanh có điều kiện So với những hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực khác, có thể nói kinh doanh ngân hàng phải tuân thủ những điều kiện khắt khe về vốn pháp định, về bộ máy tổ chức hoạt động, về phạm vi các nghiệp vụ kinh doanh được phép, không được phép thực hiện…Có thể lý giải điều này là vì lĩnh vực tài chính tiền tệ là một lĩnh vực nhạy cảm, có liên quan đến hầu hết các ngành nghề trong nền kinh tế . Ngân hàng được ví như hệ thần kinh của nền kinh tế, bởi bất kỳ một biến động nào của hệ thống ngân hàng cũng có ảnh hưởng theo hai chiều ngược lại đối với toàn bộ nền kinh tế. Mặt khác hoạt động ngân hàng có tính lan truyền rất cao. Vì vậy những quy định khắt khe trong kinh doanh ngân hàng là cần thiết nhằm tạo ra một môi trường lành mạnh, không chỉ có lợi cho từng tổ chức tín dụng/ ngân hàng mà còn cho sự ổn định chung của hệ thống và nền kinh tế Những điều kiện cơ bản quy định trong kinh doanh ngân hàng gồm có :Quy định về mức vốn pháp định khi thành lập ngân hàng; Quy định về các mức đảm bảo an toàn trong kinh doanh ngân hàng; Quy định về phạm vi hoạt động được phép của ngân hàng... Thứ hai: đối tượng kinh doanh của ngân hàng là các tài sản tài chính Thực chất kinh doanh ngân hàng là việc sản xuất, buôn bán, quản lý , lưu thông và sử dụng tiền cùng các tài sản tài chính 8 Tài sản tài chính là các loại tài sản không tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất hàng hóa dịch vụ, như tiền, chứng khoán và các giấy tờ có giá…Các loại tài sản này chỉ là những chứng chỉ bằng giấy hoặc có thể là những dữ liệu trong máy tính sổ sách. Cụ thể hơn, tài sản tài chính là những tài sản có giá trị không dựa vào nội dung vật chất của nó (giống như bất động sản gồm nhà cửa, đất đai) mà dựa vào các quan hệ trên thị trường, chẳng hạn như cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác Thứ ba : Hoạt động kinh doanh ngân hàng mang tính chất trung gian Tính chất trung gian (intermediaries) trong hoạt động ngân hàng xuất phát từ việc ngân hàng làm trung gian giữa người gửi tiền (Depositor) và người vay tiền (Borrowers) . Có thể phân tích tính chất này trên nhiều khía cạnh khác nhau cụ thể, Đó là : Trung gian về mệnh giá : ngân hàng là tổ chức tín dụng thu thập nhiều khoản tiền tiết kiệm nhỏ lẻ…của nhiều tầng lớp, chủ thể trong nền kinh tế , hình thành nên quỹ cho vay và có thể cung cấp những khoản tín dụng quy mô lớn cho các chủ thể như công ty, chính quyền… Trung gian về kỳ hạn : quỹ cho vay của ngân hàng được hình thành từ những khoản tiền gửi có các loại kỳ hạn khác nhau, thậm chí không có kỳ hạn, đã được ngân hàng chuyển thành những khoản cho vay ra với các kỳ hạn khác nhau thỏa mãn nhu cầu người sử dụng, đặc biệt là những khoản vay trung dài hạn mà thời hạn có thể lên tới vài chục năm. Điều này dĩ nhiên tiềm ẩn nhiều rủi ro ngân hàng.Tuy nhiên bằng nhiều kỹ thuật quản trị hiện đại, các ngân hàng có hóa giải được mâu thuẫn này để thực hiện vai trò trung gian kỳ hạn của mình. Với tính chất này, ngân hàng đã hóa giải được mâu thuẫn tồn tại tất yếu từ hai phía khách hàng: người gửi tiền thì hầu hết muốn gửi tiền có kỳ hạn ngắn, trong khi người vay tiền thì muốn sử dụng trong thời gian dài. Trung gian lãi suất:Ngân hàng được xem là các tổ chức kinh doanh chênh lệch lãi suất. Lãi suất ngân hàng trả cho người gửi tiền là lãi suất đầu vào còn lãi suất ngân hàng là lãi suất đầu ra.Những chi phí hoạt động ngân hàng bỏ ra, phí bù đắp cho rủi ro khi cho vay và lợi nhuận của ngân hàng nằm trong khoản chênh lệch 9 giữa lãi suất ngân hàng thu được và lãi suất ngân hàng phải trả cho người gửi tiền. Trung gian thanh khoản: thanh khoản là yêu cầu của con người đối với hầu hết các loại tài sản đang nắm giữ.Tuy nhiên nhu cầu thanh khoản của mọi người lại không giống nhau. Với người gửi tiền, có thể thỏa thuận gửi tiền theo kỳ hạn, nhưng có thể thay đổi theo thời gian bởi các biến cố không dự kiến được từ nền kinh tế, từ xã hội họ vẫn muốn rút ra bất kỳ lúc nào, thậm chí chấp nhận chịu phạt hoặc không được hưởng lãi. Người đi vay do đầu tư vào các dự án, phương án kinh doanh nên chỉ muốn hoàn trả khi dự án, phương án kinh doanh kết thúc và có lợi nhuận, thậm chí nhiều khi muốn tiếp tục xoay vòng vốn, trì hoãn việc trả nợ… Ngoài các nội dung trên, ngân hàng còn thực hiện các hoạt động trung gian thông tin, trung gian rủi ro… Thứ tư : Hoạt động ngân hàng chịu sự chi phối mạnh mẽ của môi trường Hoạt động của các ngân hàng liên quan đến lưu chuyển tiền tệ, không chỉ trong phạm vi một nước mà liên quan đến nhiều nước để hỗ trợ cho hoạt động kinh tế đối ngoại; do vậy kinh doanh trong hệ thống ngân hàng chịu sự chi phối của nhiều yếu tố trong nước như : môi trường pháp luật, môi trường kinh tế… đặc biệt là chịu sự chi phối mạnh mẽ của điều kiện hạ tầng cơ sở tài chính, trong đó có công nghệ thông tin đóng vai trò cực kỳ quan trọng, có tính chất quyết định đối với hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Mặt khác , xu thế hội nhập quốc tế buộc các ngân hàng phải hiểu rõ về tập quán kinh doanh của các nước, thông lệ quốc tế, trong đó các quy định của ủy ban Basel (Ủy ban giám sát hoạt động ngân hàng) là không thể thiếu được Thứ năm: hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh đặc biệt có rủi ro hệ thống cao Mặc dù ngân hàng là một doanh nghiệp , nên mục đích sau cùng là hướng tới lợi nhuận, tuy nhiên hoạt động của ngân hàng có ý nghĩa to lớn đối với nền kinh tế , đặc biệt, hoạt động cấp tín dụng không chỉ đơn thuần vì túi tiền của riêng ngân hàng mà quan trọng hơn nó được xem là đòn bẩy phát triển kinh tế, chính vì thế chịu sự chi phối rất mạnh mẽ của pháp luật 10 So với các ngành kinh doanh khác, kinh doanh ngân hàng có mức độ tập trung rất cao.Đặc trưng này thể hiện tất cả các quốc gia trên thế giới, không loại trừ Việt nam. Mỗi một ngân hàng thường có một tổ chức rộng rãi với hội sở và mạng lưới nhiều chi nhánh lan tỏa khắp nơi. Điều này vừa tạo thuận lợi vừa gây khó khăn cho ngân hàng trong quá trình quản trị mạng lưới hoạt động của mình sao cho hiệu quả nhất Như mọi ngành dịch vụ khác, sản phẩm của ngân hàng là sản phẩm vô hình, khách hàng không thể cân đọng đo đếm mà chỉ “cảm nhận” được chất lượng của nó. Vì vậy, sự thành công trong kinh doanh ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào long tin dân chúng. Do tài chính, tiền tệ là lĩnh vực kinh doanh rất nhạy cảm, chịu tác động bới rất nhiều nhân tố về kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý truyền thống văn hóa … vì vậy , sự thay đổi dù nhỏ nhất của bất kỳ một nhân tố nào cũng đều ảnh hưởng rất nhanh chóng và mạnh mẽ đến môi trường kinh doanh chung của ngân hàng, gây đổ vỡ luôn chính ngân hàng này do tác động dây chuyền 1.1.3 Chức năng của NHTM trong nền kinh tế thị trường : 1.1.3.1 Chức năng trung gian tín dụng Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của NHTM. Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, NHTM đóng vai trò là cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Với chức năng này, NHTM vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi tiền và người đi vay... 1.1.3.2 Chức năng trung gian thanh toán Ở đây NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng… Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp. Các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo 11 thanh toán an toàn. Chức năng này vô hình chung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế. 1.1.3.3 Chức năng tạo tiền Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của NHTM. Với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu chính cho sự tồn tại và phát triển của mình, các NHTM với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc thù của mình đã vô hình chung thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế. Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của NHTM là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. NHTM tạo tiền phụ thuộc vào tỉ lệ dự trữ bắt buộc của ngân hàng trung ương đã áp dụng đối với NHTM. do vậy ngân hàng trung ương có thể tăng tỉ lệ này khi lượng cung tiền vào nền kinh tế lớn. 1.1.4 Các nghiệp vụ NHTM Nghiệp vụ nội bảng là những nghiệp vụ trực tiếp tác động đến hai phía (nợ và có) trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Bất kỳ một nghiệp vụ nào trong số các nghiệp vụ này xuất hiện đều làm cho cân đối kế toán của ngân hàng thay đổi. Hầu hết các nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng nằm trong số này Nghiệp vụ ngoại bảng thông thường bao gồm các hoạt động không dung đến nguồn vốn, vì vậy khi những nghiệp vụ thuộc dạng này phát sinh, chúng không ảnh hưởng đến bảng cân đối của ngân hàng nhưng vẫn có thể mang lại những nguồn thu nhập cho ngân hàng, như các dịch vụ thu hoa hồng phí, tư vấn kinh doanh ngoại tệ, bảo quản vật có giá, bảo lãnh, chấp nhận…. Phần dưới đây chúng ta sẽ đi sâu vào cách phân loại phổ biến nhất, đó là phân loại theo cách hạch toán trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng 12 1.1.4.1 Nghiệp vụ nội bảng Bảng 1 : Bảng cân đối kế toán (tóm lược) của một NHTM Tài sản Tài sản nợ và vốn 1.Dự trữ tiền 1. Tiền gửi khách hàng Tiền mặt Tiền gửi giao dịch Tiền gửi tại ngân hàng trung ương Tiền gửi phi giao dịch Tiền gửi tại các TCTD 2. Vay thị trường tài chính 2. Cho vay khách hàng 3.Vốn chủ sở hữu 3. Đầu tư Vốn điều lệ 4. Tài sản cố định Quĩ và lãi không chia 5. Tài sản khác 4. Tài sản nợ khác Tổng tài sản Tổng tài sản nợ và vốn 1.1.4.2 Nghiệp vụ tài sản có 1.1.4.2.1 Dự trữ bằng tiền : Vai trò của dự trữ bằng tiền là đảm bảo khả năng thanh toán. Đặc điểm của nghiệp vụ này là không hoặc ít sinh lời, nên các ngân hàng luôn tìm cách duy trì chúng ở mức tối thiểu. Dự trữ của ngân hàng thường được lưu giũ dưới dạng tiền mặt tại quỹ hoặc tiền gửi tại ngân hàng trung ương và các tổ chức tài chính khác. Qui mô nguồn vốn, tính chất các nguồn, tính chất khách hàng và qui định về đảm bảo thanh khoản là những yếu tố ảnh hưởng đến qui mô và tỷ trọng của loại tài sản này 1.1.4.2.2 Tín dụng Đây là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của các ngân hàng nên chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các nghiệp vụ về sử dụng nguồn vốn . Về phương diện quản trị, khoản mục 13 tín dụng được xem là những tài sản có rủi ro sinh lời của NHTM , nhất là các ngân hàng qui mô nhỏ, tỷ trọng tài sản được lưu giữ dưới khoản mục tín dụng vẫn còn khá cao. Tuy nhiên xu hướng của các ngân hàng hiện đại là sẽ giảm dần tỷ trọng của khoản mục này, nhằm hạn chế những hậu quả xấu bởi các rủi ro tất yếu do tín dụng mang lại. các yếu tố ảnh hưởng đến nghiệp vụ này là: đặc điểm thị trường, nguồn vốn, qui định của Nhà nước về hạot động tín dụng ngân hàng, vị thế cạnh tranh và lãi suất mà ngân hàng áp dụng Ở đây cần dành ít thời gian để làm rõ khái niệm Tín dụng và Tín dụng ngân hàng . Tín dụng trong tiếng Anh là Credit. Theo nhiều cuốn Từ điển tiếng Việt thì hầu hết được giải thích là việc cho vay và mượn tiền. Theo trang vi.wikipedia.org thì ”Tín dụng là việc một bên (bên cho vay) cung cấp nguồn tài chính cho đối tượng khác (bên đi vay) trong đó bên đi vay sẽ hoàn trả tài chính cho bên cho vay trong một thời hạn thỏa thuận và thường kèm theo lãi suất”. Theo Nguyễn Minh Kiều (2012) thì : ”Về mặt tài chính, tín dụng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang cho người sử dụng trong một thời hạn nhất định với một chi phí nhất định ” và ” Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng phát sinh giữa ngân hàng và khách hàng, theo đó có thể là quan hệ cho vay của ngân hàng đối với hoặc quan hệ gởi tiền của khách hàng vào ngân hàng ”. Một số sách chỉ cho rằng tín dụng ngân hàng tập trung vào quan hệ cho vay của ngân hàng đối với khách hàng. Còn theo Luật các TCTD 2010 thì không có giải thích từ tín dụng mà chỉ giải thích cụm từ cấp tín dụng: ” Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.” Thông thường trong các giáo trình , các nhà soạn sách thường đồng nhât tín dụng với cho vay, còn các nghiệp vụ chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng sẽ được giảng ở các phần khác không thuộc phần tín dụng. Tín dụng có vai trò to lớn trong việc phát triển kinh tế xã hội, được thể hiện trên các phưong diện: 14 -Tín dụng ngân hàng đáp ứng vốn để duy trì quá trình tái sản xuất, đồng thời đầu tư phát triển kinh tế. Do quá trình tái sản xuất xã hội là thưòng xuyên và liên tục nên nhu cầu về vốn thường xuyên ở mức độ cao. Trong khi đó lại có tổ chức, cá nhân có nguồn vốn nhàn rỗi tạm thời trong một thời gian nhất định. Bên cần vốn thì có thể vay được vốn với chi phí thấp và kịp thời để hoàn thành công việc của mình, bên có vốn thì thu được khoản lợi trong thời gian mình không dùng tới khoản vốn đó. Hoạt động tín dụng ra đời biến các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong xã hội thành những nguồn vốn đưa vào hoạt động kinh doanh có hiệu quả cho các doanh nghiệp trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh cũng như phục vụ cho mọi tầng lớp dân cư khi cần vốn. Thông qua tín dụng ngân hàng các nguồn vốn được tập trung và các nguồn vốn đó được đưa vào quá trính sản xuất kinh doanh. Điều này khiến đầu tư cho nền kinh tế được mở rộng góp phần thúc đẩy, kích thích tăng trưởng kinh tế. -Tín dụng ngân hàng là công cụ thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất. Tín dụng ngân hàng là hoạt động đi vay để cho vay, làm nhiệm vụ đưa vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu. Nguồn vốn tín dụng ngân hàng tạo điều kiện cho ngân hàng đầu tư vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Trong quá trình đầu tư, tín dụng ngân hàng không chia đều cho mọi chủ thể có nhu cầu mà việc đầu tư được thực hiện một cách tập trung chủ yếu vào những doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Đầu tư tập trung là quá trình tất yếu vừa đảm bảo tránh rủi ro, vừa thúc đẩy được quá trình tăng trưởng kinh tế. -Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình luân chuyển hàng hoá, tiền tệ, điều tiết trong lưu thông và kiểm soát lạm phát. 15 Tín dụng ngân hàng sẽ làm cho hàng hóa , dịch vụ được tiêu thụ nhanh hơn, nhiều hơn. Qua đó thúc đẩy luân chuyển hàng hóa , tiền tệ. Việc điều hoà vốn tín dụng trong nền kinh tế không chỉ là giải quyết mối quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế mà còn tạo điều kiện để mở rộng phạm vi thanh toán không dùng tiền mặt và hạn chế việc sử dụng tiền mặt, từ đó tiết kiệm được chi phí lưu thông cho xã hội, góp phần vào việc điều hoà và ổn định lưu thông tiền tệ, đồng thời kiểm soát được lạm phát. -Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện để phát triển các quan hệ kinh tế với nước ngoài. Quá trình phát triển kinh tế của mỗi nước đều gắn liền với thị trường thế giới. Tín dụng ngân hàng được mở rộng sẽ kéo theo quan hệ đầu tư trong nền kinh tế tăng khiến cho các quan hệ thương mại khác cũng tăng theo. Thông qua quá trình nhận và cho vay, tài trợ, xuất nhập khẩu của các nước cấp tín dụng cũng như các tổ chức tín dụng khác cũng tham gia trực tiếp vào quan hệ thanh toán quốc tế. Đồng thời tín dụng ngân hàng thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển và làm mối quan hệ giữa các nước trở nên tốt đẹp. 1.1.4.2.3 Đầu tư Đầu tư có vị trí quan trọng thứ hai sau tín dụng bởi nó mang lại khoản thu nhập lớn và đáng kể của ngân hàng. Tuy nhiên cũng như tín dụng, đầu tư là nghiệp vụ sinh lời nhưng hoạt động bị giới hạn do có độ rủi ro tiềm tàng cao. Các ngân hàng có thể tham gia góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng khác, kể cả việc góp vốn vào các công ty con, công ty liên kết, quỹ đầu tư hoặc mua các loại chứng khoán vốn, chứng khoán nợ trên thị trường như mua trái phiếu chính phủ, chính quyền địa phương, trái phiếu công ty, cổ phiếu, các loại tín phiếu, của các tổ chức tài chính khác…. 1.1.4.3 Nghiệp vụ tài sản nợ và vốn 1.1.4.3.1 Tiền gởi 16 Đây là các khoản tiền của các tổ chức, của dân cư gửi vào ngân hàng với những mục tiêu an toàn, hưởng lãi, hoặc hưởng các tiện ích của dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Nguồn tiền gửi được xem là nguồn vốn chủ yếu của các ngân hàng nhất là NHTM nên tính ổn định của nguồn tiền gửi có ý nghĩa hết sức quan trọng với các NH. 1.1.4.3.2 Vay trên thị trường tài chính và liên ngân hàng Đây là quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng trong thị trường liên ngân hàng, thông qua các hoạt động như tái chiết khấu, vay qua đêm, với mục tiêu chủ yếu là tăng khả năng thanh toán cho các ngân hàng.Trên thực tế một số ngân hàng nhỏ do thiếu khả năng huy động nguồn tiền gửi có thể dung vốn vay để sử dụng vào hoạt động tín dụng. Trong khi các ngân hàng qui mô lớn, có thương hiệu lâu đời dùng nguồn huy động của mình để cho vay lại các ngân hàng nhỏ. Đây là một hạn chế trong hoạt động đi vay và cho vay của các ngân hàng cần được quản lý. 1.1.4.3.3 Vốn tự có Vốn tự có của ngân hàng là yếu tố tài chính quan trọng bậc nhất vừa cho thấy qui mô của ngân hàng vừa phản ánh khả năng đảo bảo các khoản nợ của ngân hàng đối với khách hàng. Mặc dù chiếm tỉ trọng tương đối nhỏ trong tổng số hoạt động kinh doanh của ngân hàng nhưng vốn tự có là một bộ phận không thể thiếu của NHTM để xây dựng trụ sở, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động kinh doanh của NH, bảo đảm thanh toán cho người ký gửi khi vỡ nợ, góp phần duy trì chức năng trả nợ, là căn cứ để cơ quan quản lý xem xét để cấp giấy phép hoạt động, thiết lập các chi nhánh, giới hạn tín dụng đầu tư … 1.1.4.4 Nghiệp vụ ngoại bảng Các nghiệp vụ này không thể hiện trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Phổ biến nhất trong số nghiệp vụ ngoại bảng là những cam kết của ngân hàng đối với khách hàng Một số nghiếp vụ ngoại bảng phổ biến sau : -Nghiệp vụ thanh toán và quản lý ngân quỹ 17 -Nghiệp vụ môi giới, trung gian chứng khoán, ngoại hối -Nghiệp vụ bảo lãnh, cam kết -Nghiệp vụ ủy thác -Nghiệp vụ tư vấn -Nghiệp vụ két sắt, bảo quản vật có giá Trong số các nghiệp vụ nêu trên, có một số nghiệp vụ ngân hàng chỉ được phép thực hiện khi thành lập các công ty con, công ty liên kết như nghiệp vụ môi giới chứng khoán, bảo hiểm, quản lý danh mục đầu tư, mua bán cổ phiếu…Quy định này tùy thuộc vào luật ngân hàng của mỗi quốc gia Hệ thống NHTM Việt Nam : Hệ thống NHTM Việt Nam được thành lập từ sau nghị định 53 của hội đồng bộ trưởng ngày 26/3/1988, Trải qua hơn 35 năm hoạt động, các NHTM ngày càng trưởng thành và phát triển. Hiện nay có các loại hình NHTM nhà nước , cổ phần , vốn nước ngoài và liên doanh. Nhìn chung các NHTM của Việt Nam có hệ thống quản trị rủi ro còn chưa đáp ứng được yêu cầu thể hiện qua tình trạng nợ xấu trầm trọng hiện nay trong nền kinh tế. Các NHTM chưa phát huy vai trò trung tâm thanh toán vì tình trạng thanh toán không dùng tiền mặt vẫn chưa phát triển. Các NHTM chưa phát huy tốt vai trò điều phối, cung ứng vốn cho nền kinh tế thể hiện qua hiện tượng lúc thiếu vốn ( cách đây vài năm ) lúc thừa vốn ( hiện nay ). Theo trang vi.wikipedia.org ngày 15/3/2014 thì danh sách các NHTM Việt Nam ( Bao gồm cả các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, chi nhánh NH Liên doanh ) như tại Phụ lục 1 1.2 Hành lang pháp lý cho tín dụng NHTM trong nền kinh tế thị trường : 1.2.1 Khái niệm hành lang pháp lý : Hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng NHTM là toàn bộ các văn bản quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh hành vi của các chủ thể tham gia vào mối quan hệ tín dụng của các NHTM 1.2.2 Khái niệm ,đặc điểm của văn bản quy phạm pháp luật 1.2.2.1 Khái niệm : 18 Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự chặt chẽ , trong đó chứa đựng các quy phạm pháp luật có hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Đây là hình thức pháp luật được sử dụng phổ biến nhất hiẹn nay trên thế giới. 1.2.2.2 Đặc điểm : Từ khái niệm này ta thấy văn bản quy phạm pháp luật có các đặc điểm sau : - Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được pháp luật quy định. Điều này có nghĩa là các cơ quan nhà nước có thể ban hành hoặc phối hợp ban hành nhiều văn bản khác nhau, nhưng không phải văn bản nào cũng được xem là văn bản pháp quy mà chỉ có những văn bản do cơ quan có thẩm quyền ban hành với những quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tục, tên gọi, ngôn ngữ , thẩm quyền được quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 hoặc Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004 mới được gọi là văn bản quy phạm pháp luật. - Nội dung của văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng các quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung đối với mọi chủ thể pháp luật mà nó điều chỉnh. Các quy phạm pháp luật chứa trong các văn bản này có giá trị điều chỉnh chung đối với các đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của văn bản đó, Điều này cũng có nghĩa là văn bản quy phạm pháp luật không có giá trị áp dụng cá biệt cho một cá nhân , tổ chức nào cụ thể mà được áp dụng cho bất kỳ cá nhân tổ chức nào được pháp luật quy định - Văn bản quy phạm pháp luật được Nhà nước bảo đảm thực hiện trên thực tiễn : Pháp luật là do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo một trật tự và định hướng của Nhà nước.Vì thế , khi ban hành ra văn bản quy phạm pháp luật , Nhà nước dùng các công cụ cưỡng chế của mình để đảm bảo cho các văn bản đó được thực hiện đúng như Nhà nước đã mong muốn khi ban hành. 1.2.3 Một số vấn đề khi áp dụng văn bản quy phạm pháp luật 1.2.3.1 Thời gian hiệu lực : 19 Hiệu lực về thời gian của văn bản quy phạm pháp luật là giá trị thi hành của văn bản quy phạm pháp luật trong một thời hạn nhất định. Hiệu lực này được xác định bằng từ ngày có hiệu lực đến ngày kết thúc hiệu lực của văn bản. Theo quy định tại điều 78 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 thì thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được quy định trong văn bản nhưng không sớm hơn bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành. Trường hợp trong tình trạng khẩn cấp thì có thể có hiệu lực kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành nhưng phải được đưang ngay trên trang điện tử của cơ quan ban hành, đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng; đăng Công báo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chậm nhất sau 2 ngày làm việc kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành . Văn bản quy phạm pháp luật phải được đăng Công báo, văn bản quy phạm pháp luật không đăng Công báo thì không có hiệu lực thi hành trừ trương hợp văn bản thuộc bí mật nhà nước và các trường hợp trong tình trạng khẩn cấp. Theo quy định tại điều 51 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2004 thì văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có hiệu lực sau 10 ngày và phải được đăng trên công báo cấp tỉnh chậm nhất là 5 ngày; cấp huyện có hiệu lực sau 7 ngày và phải được niêm yết chậm nhất là 3 ngày; cấp xã có hiệu lực sau 5 ngày và phải được niêm yết chậm nhất là 2 ngày, kể từ ngày Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân thông qua hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân ký ban hành, trừ trường hợp văn bản quy định ngày có hiệu lực muộn hơn. Các trường hợp văn bản hết hiệu lực được quy định tại điều 81 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008. Về mặt nguyên tắc, văn bản quy phạm pháp luật chỉ có giá trị pháp lý từ thời điểm có hiệu lực trở đi đến tương lai theo đúng quy luật thời gian. Tuy nhiên, vì một số lý do nhất định, một văn bản có thể có giá trị tác động đối với những hành vi, những vụ việc xảy ra trước ngày văn bản đó có hiệu lực . Đó gọi là hiệu lực trở về trước của văn bản quy phạm pháp luật hay gọi cách khác là hiệu lực hồi tố. Điều này được quy định tại điều 79 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008. Còn theo điều 51 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban 20 nhân dân năm 2004 thì không quy định hiệu lực hồi tố đối với văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân . Văn bản quy phạm pháp luật bị đình chỉ thi hành thì ngưng hiệu lực cho đến khi có quyết định xử lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. 1.2.3.2 Phạm vi, đối tượng áp dụng Văn bản chỉ có giá trị áp dụng trong phạm vi và đối tượng áp dụng của mình, đa số tất cả văn bản đều có quy định về nội dung này tại phần đầu văn bản. Do đó, trước khi áp dụng bất kỳ quy định nào trong văn bản, nên xem lại thật kỹ phần phạm vi và đối tượng áp dụng, để tránh được các rủi ro đáng tiếc. Văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước trung ương ban hành thì có hiệu lực trong phạm vi cả nước được áp dụng đối với các cá nhân, tổ chức mà văn bản đó quy định. Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân có hiệu lực trong phạm vi nhất định đơn vị hành chính địa phương đó, áp dụng cho các cá nhân, tổ chức tham gia các quan hệ xã hội được văn bản đó điều chỉnh. 1.2.3.3 Nguyên tắc lựa chọn áp dụng Pháp luật Việt Nam còn chưa được hoàn thiện, nhiều nội dung chồng chéo lên nhau là thực tế mà không chuyên gia nào trong lĩnh vực pháp luật phủ nhận. Do đó, đương nhiên có những trường hợp có nhiều văn bản cùng điều chỉnh một vấn đề, lúc đó phải có sự cân nhắc phù hợp đề tìm ra luật áp dụng: - Áp dụng văn bản có giá trị pháp lý cao hơn. - Áp dụng văn bản mới hơn. - Trường hợp văn bản có giá trị pháp lý như nhau thì luật riêng ưu tiên hơn luật chung; luật nào sát với lĩnh vực của vấn đề thì ưu tiên hơn các lĩnh vực khác. 1.2.4 Hệ thống văn bản quy phạm pháp tại Việt Nam : Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta hiện nay bao gồm : 1. Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. 2. Pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. 3. Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước. 4. Nghị định của Chính phủ. 5. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan