Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn hình tượng tác giả trong thơ lưu quang vũ...

Tài liệu Luận văn hình tượng tác giả trong thơ lưu quang vũ

.PDF
101
186
108

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM KIỀU THỊ LIÊN HÌNH TƢỢNG TÁC GIẢ TRONG THƠ LƢU QUANG VŨ LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Thái Nguyên - 2015 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ i Lời cam đoan Tôi xin cam đoan đề tài luận văn khoa học: “Hình tượng tác giả trong thơ Lưu Quang Vũ” với các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất cứ công trình nào khác, hoàn toàn là công trình nghiên cứu của tôi. Tác giả luận văn Kiều Thị Liên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ ii Lời cảm ơn Để hoàn thành luận văn này tôi xin chân thành cảm ơn : Ban Giám hiệu, Ban Chủ nhiệm Khoa Ngữ văn, Khoa Sau đại học trường Đại học Sư Phạm - Đại học Thái Nguyên. Các thầy, cô giáo ở Viện Văn học, trường Đại học Sư phạm I Hà Nội, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội, trường Đại học Sư Phạm Thái Nguyên đã trực tiếp giảng dạy tôi trong suốt khoá học. Đặc biệt tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Lưu Khánh Thơ, người đã tận tình hướng dẫn, động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình hoàn thành luận văn. Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đã luôn ở bên động viên, khích lệ, tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Tác giả luận văn Kiều Thị Liên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ iii MỤC LỤC Trang phụ bìa Trang Lời cam đoan ...................................................................................................... i Lời cảm ơn .........................................................................................................ii Mục lục ........................................................................................................... iii MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 01 1. Lí do chọn đề tài .......................................................................................... 01 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................. 02 3. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 05 4. Môc ®Ých nghiªn cøu ...................................................................... 05 5. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................ 05 6. Đóng góp của luận văn ................................ 06 7. Cấu trúc của luận văn ................................................................................. 06 NéI DUNG ...................................................................................................... 07 Chƣơng 1: KH¸I NIÖM H×NH T¦îNG T¸C GI¶ Vµ HµNH TR×NH S¸NG T¸C CñA L¦U QUANG Vò ............................................................. 07 1.1. Kh¸i niÖm h×nh t-îng t¸c gi¶ ........................................... 07 1.2. Hµnh tr×nh s¸ng t¸c vµ h×nh t-îng t¸c gi¶ trong th¬ L-u Quang Vò ................................. 10 1.2.1. Vµi nÐt vÒ cuéc ®êi L-u Quang Vò ............. 10 1.2.2. Hµnh tr×nh s¸ng t¸c cña L-u Quang Vò ....... 12 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ iv 1.2.3. H×nh t-îng t¸c gi¶ trong th¬ L-u Quang Vò . 20 Chƣơng 2: c¸c cÊp ®é thÓ hiÖn h×nh t-îng t¸c gi¶ trong th¬ L-u Quang Vò .................................. 24 2.1. Con ng-êi c¸ nh©n .............................. 24 2.1.1. Kh¸i niÖm con ng-êi c¸ nh©n ............................................. 24 2.1.2. Con ng-êi c¸ nh©n trong th¬ L-u Quang Vò..... 25 2.2. C¸i t«i t×nh yªu ........................................................................ 29 2.2.1. Kh¸i niÖm c¸i t«i vµ c¸i t«i t×nh yªu ........ 29 2.2.2. C¸i t«i t×nh yªu trong th¬ L-u Quang Vò ................ 30 2.3. H×nh t-îng ng-êi lÝnh trong th¬ L-u Quang Vò ... 42 Chƣơng 3: nghÖ thuËt thÓ hiÖn h×nh t-îng t¸c gi¶ trong th¬ L-u Quang vò .................................. 50 3.1. H×nh ¶nh biÓu t-îng ..................................................... .......................... 50 3.1.1. Kh¸i niÖm biÓu t-îng.......................... 50 3.1.2. Mét sè biÓu t-îng tiªu biÓu trong th¬ L-u Quang Vò .................................................................................................................... 51 3.2. Giäng ®iÖu ..................................... 68 3.2.1. Kh¸i niÖm giäng ®iÖu .............................................................. 68 3.2.2. Giäng ®iÖu th¬ L-u Quang Vò................... 69 3.3. Ng«n ng÷ ...................................... 76 3.3.1. Kh¸i niÖm ngôn ngữ ....................................................................... 76 3.3.2. Ngôn ngữ th¬ L-u Quang Vò ...................... 76 3.4. ThÓ th¬ .................................................................................................. 81 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ v 3.4.1. ThÓ th¬ tù do ................................ 82 3.4.2. Mét sè thÓ th¬ kh¸c ....................... 85 KẾT LUẬN..................................................................................................... 90 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 92 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ vi MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Lƣu Quang Vũ một tác giả thành công trên nhiều thể loại nhƣ làm thơ, viết truyên ngắn và sáng tác kịch. Hầu nhƣ ở lĩnh vực nào trong hoạt động nghệ thuật ông cũng gặt hái đƣợc nhiều thành công nhất định. Ngay từ thời niên thiếu ông đã sớm bộc lộ năng khiếu hội họa, đồng thời cũng bộc lộ cốt cách của một thi sĩ tài hoa. Con đƣờng sự nghiệp của ông đã khởi đầu từ thơ và kết thúc là kịch. Từ năm 1980, ông đã đƣợc biết đến với tƣ cách là một nhà viết kịch nói Việt Nam. Tháng 9 năm 2000, Lƣu Quang Vũ đã đƣợc tặng giải thƣởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Bên cạnh thơ và kịch, truyện ngắn của ông đã tạo đƣợc nét riêng để lại dấu ấn khó quên trong lòng ngƣời đọc. Dù đạt đƣợc vinh quang trên lĩnh vực sân khấu, nhƣng với Lƣu Quang Vũ thơ cũng có một vị trí quan trọng trong cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông. Lƣu Quang Vũ là một tài thơ “thuộc loại bẩm sinh”, ông đến với thơ ở độ tuổi đẹp nhất trong cuộc đời. Từ Hƣơng cây - Bếp Lửa (1968), Mây trắng của đời tôi (1989), Bầy ong trong đêm sâu (1993), đến tuyển thơ Gió và tình yêu thổi trên đất nƣớc tôi (2013), thơ của ông đã chiếm đƣợc biết bao trái tim ngƣời đọc. Trong các sáng tác Lƣu Quang Vũ viết nhiều về quê hƣơng, đất nƣớc, nhân dân, tình yêu, ở đề tài nào thơ ông cũng gợi sức quyến rũ. Nên chúng ta mới hiểu, mặc dù kịch là nơi đã đƣa Lƣu Quang Vũ đến vinh quang nhƣng theo nhƣ nhiều ngƣời thì thơ mới là sự đam mê lớn nhất, nơi ông kí thác nhiều nhất. Ông thƣờng nói với bạn bè là ông thích làm thơ hơn viết kịch, thành công trong thơ đem lại cho ông niềm vui nhiều hơn trong kịch. Có lẽ, thơ là một thể loại bộc lộ sâu sắc diện mạo tâm hồn con ngƣời, nhất là con ngƣời đa tài nhƣ ông. Thơ Lƣu Quang Vũ từ khi xuất hiện cho đến nay vẫn còn làm xao xuyến thi đàn và những ngƣời yêu thơ. 1 Chọn “Hình tượng tác giả trong thơ Lưu Quang Vũ” làm đề tài nghiên cứu. Chúng tôi mong muốn đem đến một cái nhìn hệ thống, toàn diện về con ngƣời cũng nhƣ con đƣờng sự nghiệp thơ ca Lƣu Quang Vũ, trên cơ sở đó khẳng định vị trí và đóng góp của ông trên nền thơ ca Việt Nam hiện đại. 1. Lịch sử vấn đề 2.1. Những bài nghiên cứu chung khái quát về tác giả Lƣu Quang Vũ. Theo thời gian, có rất nhiều bài nghiên cứu về Lƣu Quang Vũ đƣợc đăng tải trên các báo, và đƣợc tập hợp trong tuyển tập Lƣu Quang Vũ về tác gia tác phẩm. Lƣu Quang Vũ đã đƣợc giới sân khấu đánh giá là một gƣơng mặt mới, đáng chú ý, năm 1985 ông “Đã được giới báo chí gọi là “Cây Bút Vàng” của kịch trường Việt Nam” [49, tr.17]. Điều đáng chú ý, là bên cạnh việc khẳng định những thành tựu của Lƣu Quang Vũ - một nhà viết kịch tài hoa, đã đƣợc đánh giá là một cây bút tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam. Tháng 9 năm 2000, ông đã đƣợc tặng giải thƣởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Trong bài Sức sáng tạo của một tài năng Lý Hoài Thu đã khẳng định: “Với hành trình sáng tác hơn 20 năm, khoảng thời gian chưa dài nhưng Lưu Quang Vũ thực sự là một tài năng, một cá tính độc đáo trong dòng thơ Việt Nam hiện đại nửa cuối thế kỉ XX” [49, tr.25]. Cái tên Lƣu Quang Vũ, đã lập tức thu hút sự chú ý của các nhà phê bình danh tiếng. Hoài Thanh bằng một dự cảm tinh tƣờng đã gọi Lƣu Quang Vũ là “Một cây bút nhiều triển vọng” [49, tr.57]. Lý Hoài Thu đã nhận định về Lƣu Quang Vũ trong bài Sức sáng tạo của một tài năng : “Một hiện tượng nghệ thuật độc đáo của văn học Việt Nam chặng cuối thế kỷ XX. Ông là hình mẫu nghệ thuật tiêu biểu về tài năng và sức sáng tạo” [49, tr.54]. Khi tập thơ đầu tay Hƣơng Cây - Bếp Lửa in chung cùng Bằng Việt ra đời năm 1968, đã thu hút sự chú ý của các nhà phê bình. Lƣu Quang Vũ đã 2 đƣợc ghi nhận là “một trong những đỉnh cao của thơ ca chống Mỹ, và vẫn là một hồn thơ được nhiều người ưu ái nhất”. Tác giả Nguyễn Việt Chiến đánh giá về Lƣu Quang Vũ: “Tôi coi anh là một nhà thơ “sáng giá” nhất trong thế hệ các nhà thơ những năm bảy mươi” [49, tr.201]. Qua các bài nghiên cứu, đánh giá nhận xét về cuộc đời cũng nhƣ nghệ thuật thơ ca Lƣu Quang Vũ. Chúng tôi thấy rằng, các tác giả đã có những đóng góp nhất định trong việc phát hiện ra những nét tiểu biểu, đặc sắc trong con ngƣời Lƣu Quang Vũ. Đây chính là những gợi dẫn đầy quý báu, góp phần định hƣớng cho chúng tôi nghiên cứu đề tài “Hình tượng tác giả trong thơ Lưu Quang Vũ”. 2.2. Những bài nghiên cứu về thơ Lƣu Quang Vũ. Mỗi tác phẩm của Lƣu Quang Vũ ra đời, đã gây đƣợc sự chú ý không chỉ bạn đọc mà cả giới phê bình, và các bài viết của các nhà nghiên cứu đã đánh giá cao tài năng và những đóng góp của Lƣu Quang Vũ với thơ ca Việt Nam hiện đại. Thơ Lƣu Quang Vũ, thể hiện sâu sắc diện mạo tâm hồn ông cũng nhƣ mọi sự đƣợc mất trong cuộc đời ông. Qua thơ ông ngƣời đọc phát hiện ra một Lƣu Quang Vũ khác, một Lƣu Quang Vũ không chỉ mạnh mẽ đến quyết liệt trƣớc những vấn đề của đời sống xã hội mà còn rất tinh tế, sâu sắc trong những cảm nhận về thế giới con ngƣời. Vũ Quần Phƣơng đã nhận xét một cách sâu sắc về ông: “Đọc thơ anh cảm giác anh viết kịch để sống với mọi người, và thơ để sống với riêng mình” [48, tr.34]. Tác giả Bích Thu trong bài Những bài thơ sống với thời gian đã nhận định: “Thơ của Vũ lôi cuốn người đọc không ở sự chau chuốt lời lẽ, ngôn từ với những kĩ xảo, ngõn nghề mà chính ở một hồn thơ đắn đuối mà chân thành, giản dị, nồng nàn, da diết. Anh làm thơ như là một sự kí thác gửi gắm, như một sự tự bộc lộ những gì đã có trong lòng anh” [48, tr.101]. 3 Lý Hoài Thu trong bài Sức sáng tạo của một tài năng đã khẳng định: “Lưu Quang Vũ trước hết là con người thơ ca. Chất thơ là nhân tố chính trong cấu trúc tâm hồn và cá tính nghệ sĩ của ông. Nó có sức lan tỏa mạnh mẽ sang các thể loại khác và dệt nên đặc trưng nổi bật nhất trong phong cách nghệ thuật của Lưu Quang Vũ” [49, tr.54]. Khi tập thơ đầu tay Hƣơng cây - Bếp lửa (in chung với Bằng Việt) ra đời, Lê Đình Kỵ với sự nhạy cảm sắc sảo của một cây bút phê bình thơ tài hoa đã nhận ra: “Thơ Lưu Quang Vũ có một điệu tâm hồn riêng và không thiếu tâm tình, một tâm tình sâu sắc, tự nhiên không rứt ra được, nó như có tự bao giờ và được đem san sẻ cho các bài thơ” [49, tr.73]. Với tựa đề Những bài thơ “viển vông cay đắng u buồn” viết trong những năm tháng chiến tranh, Vƣơng Trí Nhàn đã thể hiện sự cảm nhận sâu sắc về những bài thơ trong tập thơ Bầy ong trong đêm sâu của Lƣu Quang Vũ. Tác giả nhận xét: “Tiếp nối vào những vần thơ rất mơ mộng rất trong sáng của anh trong Hương cây, những vần thơ sau đây cho thấy một Lưu Quang Vũ khác, Vũ của dằn vặt, đau xót, lầm lỡ, cô đơn, mà cũng là vũ của những tha thiết muốn vượt lên trên mọi mệt mỏi, hoài nghi để sống, để tồn tại. Hai chặng khác nhau nhưng đều là của một con người thống nhất” [48, tr.64]. Khi đọc tập thơ Mây trắng của đời tôi ,Vũ Quang Vinh trong bài viết Đọc Mây trắng của đời tôi nhớ Lƣu Quang Vũ, đã khẳng định Lƣu Quang Vũ là một nhà thơ tài năng. Vũ Quang Vinh nhận xét: “Điều đáng quý nhất trong thơ Lưu Quang Vũ không nằm trong kĩ xảo trau chuốt ngôn từ mà chính là một hồn thơ chân thành, da diết. Sức nói, sức gợi, sức cảm của thơ anh chính bắt nguồn từ đó” [48, tr.96]. Nguyễn Thị Minh Thái đã rất tinh tế sau khi đọc thơ Lƣu Quang Vũ và nhận ra: “Thơ là nơi ẩn náu cuối chót của chàng thi sĩ buồn này. Thơ Lưu Quang Vũ là tất cả sự hàm ơn và trang trải riêng tư của tâm hồn chàng với đời sống” [49, tr.108]. 4 Mặc dù đã có nhiều bài viết, nghiên cứu về thơ Lƣu Quang Vũ nhƣng vẫn chƣa có đề tài nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về “Hình tượng tác giả trong thơ Lưu Quang Vũ”. Do vậy, chúng tôi chọn và nghiên cứu đề tài này mong muốn chỉ ra những nét đặc trƣng tiêu biểu trong thơ ca Lƣu Quang Vũ với thế hệ các nhà thơ cùng thời. Khẳng định Lƣu Quang Vũ nhƣ một gƣơng mặt tiêu biểu của thời kì thơ ca kháng chiến chống Mỹ, cũng nhƣ thơ ca của thế kỉ XX. 3. Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu “Hình tượng tác giả trong thơ Lưu Quang Vũ” luận vặn tập chung khảo sát chủ yếu trong các tập thơ: Hƣơng cây - Bếp lửa, in chung với Bằng Việt - Nxb Văn học, 1968. Mây trắng của đời tôi - Nxb. Tác phẩm mới, 1989. Bầy ong trong đêm sâu - Nxb. Hội nhà văn, 1993. Gió và tình yêu thổi trên đất nƣớc tôi - Nxb. Hội nhà văn, 2013. 4. Mục đích nghiên cứu Trong luận văn này, chúng tôi tìm hiểu những thành tựu trong sự nghiệp sác tác của Lƣu Quang Vũ. Đặc biệt, đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện hình tƣợng tác giả trong thơ Lƣu Quang Vũ. Từ đó, nhìn nhận rõ hơn sự sáng tạo và đặc điểm tƣ duy nghệ thuật Lƣu Quang Vũ. Thấy đƣợc giá trị của hình tƣợng tác giả, trong việc góp phần làm nên phong cách độc đáo của nhà thơ tài hoa nhƣng bạc mệnh này. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu. - Phƣơng pháp tiếp cận hệ thống. - Phƣơng pháp thống kê, khảo sát. - Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu. - Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp. 5 6. Đóng góp của luận văn Qua việc tìm hiểu toàn bộ sự nghiệp thơ ca Lƣu Quang Vũ, luận văn là công trình nghiên cứu, khảo sát hình tƣợng tác giả trong thơ Lƣu Quang Vũ một cách hệ thống, toàn diện và chỉ ra đƣợc những nét đặc trƣng độc đáo trong phong cách thơ Lƣu Quang Vũ. Trên cơ sở đó, chúng tôi hi vọng đóng góp một phần nhỏ bé vào việc nghiên cứu thơ Lƣu Quang Vũ, khẳng định giá trị đích thực cùng những đóng góp của Lƣu Quang Vũ trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Luận văn là tài liệu tham khảo hữu ích cho những độc giả quan tâm, yêu thích thơ Lƣu Quang Vũ. 7. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung của luận văn đƣợc triển khai gồm ba chƣơng: Chương 1: Khái niệm hình tượng tác giả và hành trình sáng tác của Lưu Quang Vũ. Chương 2: Các cấp độ thể hiện hình tượng tác giả trong thơ Lưu Quang Vũ. Chương 3: Nghệ thuật thể hiện hình tượng tác giả trong thơ Lưu Quang Vũ. 6 NéI DUNG Chƣơng 1: KHÁI NIỆM HÌNH TƢỢNG TÁC GIẢ VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA LƢU QUANG VŨ 1.1. Khái niệm hình tƣợng tác giả Tác giả là ngƣời sáng tạo, khai sinh ra tác phẩm vì vậy dấu ấn của các tác giả trong tác phẩm hiện lên rất rõ. Việc nghiên cứu tác phẩm giúp chúng ta khám phá hình tƣợng tác giả, tìm hiểu cảm xúc, quan niệm của ngƣời nghệ sĩ về con ngƣời và cuộc sống. Có thể nói, tác giả là một trong những khái niệm cơ bản đƣợc sử dụng nhiều nhất trong lịch sử văn học và phê bình văn học. Theo Trần Đình Sử: “Tác giả là trung tâm tổ chức nội dung và hình thức cái nhìn nghệ thuật trong tác phẩm, là người mang cảm quan thế giới đặc thù và là trung tâm tổ chức lại ngôn từ theo nguyên tác nghệ thuật. Do vậy, hình tượng tác giả, kiểu tác giả là những phạm trù của thi pháp học hiện đại” [38, tr.126]. Chính vì vậy, tác giả nói chung và hình tƣợng tác giả nói riêng thật sự là những vấn đề quan trọng, thiết yếu. Tìm hiểu tác giả trong nghiên cứu văn học nhƣ một khái niệm của thi pháp học, là nghiên cứu ngƣời xây dựng đƣợc ngôn ngữ nghệ thuật mới, có phong cách riêng, có giọng điệu riêng, có bộ mặt riêng trong thể loại, có hệ thống hình ảnh biểu tƣợng, đặc trƣng riêng. Đó chính là ngƣời nghệ sĩ luôn hiện hình trong tác phẩm văn chƣơng. Theo Trần Đình Sử: “Hình tượng tác giả là hình tượng được sáng tạo ra trong tác phẩm theo nguyên tắc tự biểu hiện cảm nhận về thế giới thẩm mĩ đỗi với thế giới xung quanh. Nó không chỉ là sự phản ánh cái tôi của tác giả vào tác phẩm thể hiện tương quan giữa người sáng tạo ra văn học và bản thân văn học mà còn là vấn đề của cấu trúc nghệ thuật, sự thể hiện của chủ thể. Hình tượng tác giả thể hiện chủ yếu ở cái nhìn riêng độc đáo, nhất quán, có ý nghĩa tư tưởng, đạo 7 đức, thẩm mĩ; giọng điệu tác giả thâm nhập cả vào giọng điệu nhân vật; và ở sự miêu tả có hình dung của tác giả đối với chính mình” [38, tr.13]. Hình tƣợng tác giả là phạm trù thi pháp quan trọng, giúp chúng ta hiểu sâu hơn về tác giả cũng nhƣ tác phẩm. Hình tƣợng tác giả có tính chất loại hình sâu sắc, nhƣng cũng mang đậm cá tính tác giả. Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Hình tượng tác giả là phạm trù thể hiện cách tự ý thức của tác giả về vai trò xã hội và vai trò văn học của mình trong tác phẩm, một vai trò được người đọc chờ đợi. Cơ sở tâm lý của hình tượng tác giả là hình tượng cái tôi trong nhân cách mỗi người thể hiện trong giao tiếp. Cơ sở nghệ thuật của hình tượng tác giả trong văn học chính là tính chất gián tiếp của văn bản nghệ thuật: văn bản của tác phẩm bao giờ cũng là lời của người trần thuật, người kể chuyện hoặc nhân vật trữ tình. Nhà văn xây dựng một văn bản đồng thời với việc xây dựng ra hình tượng người phát ngôn văn bản ấy với một giọng điệu nhất định” [12, tr.149]. Định nghĩa trên đã bám sát vấn đề cái tôi, cái tôi trong nhân cách cũng nhƣ cái tôi trong nghệ thuật. Cái tôi trong nhân cách của tác giả góp phần lớn vào khả năng, năng lực tự ý thức, tự đánh giá vai trò của cá nhân đối với cuộc sống con ngƣời. Cái tôi đó là cấu trúc phần tự giác, tự ý thức của nhân cách, đó chính là trung tâm tinh thần, là cơ sở hình thành những tình cảm xã hội của con ngƣời xác định mặt cá tính của nhân cách. Cái tôi về sự tự ý thức về chủ thể, về các vấn đề đời sống cá nhân với tƣ cách là một cá tính là điều không thể thiếu trong tác phẩm văn học. Từ cái tôi nhân cách hình thành nên cái tôi nghệ thuật. Nhƣ vậy, sự tự ý thức của tác giả trong tác phẩm chính là hạt nhân của hình tƣợng tác giả. Hình tƣợng tác giả, cũng là một hình tƣợng đƣợc sáng tạo ra trong tác phẩm nhƣ hình tƣợng nhân vật nhƣng theo một nguyên tắc khác: “Nếu hình tượng nhân vật xây dựng theo nguyên tắc hư cấu, được miêu tả theo một quan niệm nghệ thuật về con người và theo tính cách nhân vật, thì hình tượng tác giả được thể hiện theo nguyên tắc tự biểu hiện sự cảm nhận và thái độ thẩm mĩ đối với thế giới nhân vật” [38, tr.37]. 8 Đối với quan niệm về khái niệm hình tƣợng tác giả nói trên, Trần Đình Sử là ngƣời đã góp phần quan trọng trong việc làm rõ khái niệm này. Theo Trần Đình Sử “Hình tượng tác giả cũng giống như hình tượng nhân vật đều là những sáng tác nghệ thuật trong tác phẩm văn học, song chúng khác nhau ở nguyên tắc sáng tạo. Nếu hình tượng nhân vật được sáng tạo theo nguyên tắc hư cấu, được miêu tả theo quan niệm nghệ thuật về con người và theo tính cách nhân vật, thì hình tượng tác giả được hiểu theo nguyên tắc tự biểu hiện sự cảm nhận và thái độ thẩm mĩ đối với thế giới nhân vật. Nhu cầu tự biểu hiện mình là nhu cầu rất tự nhiên của con người tiến bộ. Trong giao tiếp, người ta có nhu cầu tự biểu hiện mình như người phát hiện, người khám phá cái mới, người có nhãn quan cấp tiến, có cá tính nghệ sĩ … điều đõ đã trở thành nhu cầu quy ước đối với người đọc” [38, tr.107]. Hình tƣợng tác giả trong văn học, là cái đƣợc biểu hiện trong tác phẩm văn học một cách đặc biệt. Các nhà nghiên cứu, đã cho rằng hình tƣợng tác giả là yếu tố quyết định nên phong cách nhà văn. Nhà thơ Đức I.WGớt đã nhận xét: “Mỗi nhà văn, bất kể muốn hay không đều miêu tả chính mình trong tác phẩm của mình một cách đặc biệt. Có nghĩa là nhà văn biểu hiện cảm nhận của mình về thế giới, cách suy nghĩ, ngôn ngữ và cách diễn đạt của mình. Cảm nhận đó thành trung tâm tổ chức tác phẩm và sự thống nhất của tác phẩm về phong cách học” [38, tr.35]. A.Chichêrin cũng cho rằng: “Hình tượng tác giả được sáng tạo ra như hình tượng nhân vật. Đây là sự chân thật nghệ thuật, không phải là chân lí của sự kiện, mà là chân lí của ý nghĩa của tư duy như chân lí của thơ ca” [37, tr.107]. M.Bakhtin thì cho rằng tác giả nằm ngoài thế giới nhân vật, tiếp xúc với mặt ngoài của biểu hiện nhân vật: “Tác giả nên ở trên đường ranh giới của thế giới do anh ta sáng tạo ra … lập trường của tác giả có thể xách định qua cách mà anh ta miêu tả bề ngoài thế giới đó” [38, tr.129]. Nhƣ vậy, tác giả hiện diện tại hình thức tác phẩm nhƣ là một nguyên tắc thẩm mĩ tạo hình cho thế giới nghệ thuật. 9 Có thể nói, vấn đề hình tƣợng tác giả đã đƣợc tiếp cận ở nhiều góc độ trong lý luận văn học, và là một vấn đề đang đƣợc nghiên cứu. Có ngƣời xem hình tƣợng tác giả biểu hiện ở phƣơng diện ngôn ngữ, có ngƣời thì lại xem hình tƣợng tác giả biểu hiện trên tất cả các yếu tố: từ cách quan sát, cách suy nghĩ, đến giọng điệu lời văn. Giọng điệu thì lại có giọng điệu ngƣời trần thuật, giọng điệu nhân vật. Qua các ý kiến của các nhà nghiên cứu, có thể thấy hình tƣợng tác giả là một phạm trù quan trọng trong nghiên cứu văn học. Nó không chỉ là sự phản ánh tác giả vào trong tác phẩm, hay sự tƣơng quan giữa con ngƣời sáng tạo ra văn học và văn học, còn là vấn đề của cấu trúc nghệ thuật, sự thể hiện của chủ thể. Chúng ta có thể hiểu theo cách khác, hình tƣợng tác giả trong sáng tác biểu hiện trên các phƣợng diện cơ bản sau: Cái nhìn riêng, độc đáo, nhất quán có ý nghĩa tƣ tƣởng, đạo đức thẩm mỹ; giọng điệu của tác giả thâm nhập vào cả giọng điệu nhân vật và ở sự miêu tả; sự tự thể hiện của tác giả thành hình tƣợng. 1.2. Hành trình sáng tác và hình tượng tác giả trong thơ Lưu Quang Vũ 1.2.1. Vài nét về cuộc đời Lƣu Quang Vũ Lƣu Quang Vũ sinh ngày 17/04/1948, là con trai nhà viết kịch Lƣu Quang Thuận và bà Vũ Thị Khánh. Lƣu Quang Vũ sinh ra tại thôn Gia Điền, xã Thiệu Cơ, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ; quê gốc ở Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Suốt cuộc đời Lƣu Quang Vũ sống và gắn bó với Hà Nội. Ông đã bộc lộ năng khiếu về văn học nghệ thuật từ thuở còn thơ bé, năm 1961 khi mới 13 tuổi ông đã giành giải thƣởng của thành phố về văn và họa. Năm 1965, Lƣu Quang Vũ xung phong vào bộ đội đƣợc biên chế về binh chủng phòng không không quân. Đây là giai đoạn có những đổi thay lớn về cuộc đời Lƣu Quang Vũ, ông làm rất nhiều thơ. Những bài thơ đầu của Lƣu Quang Vũ trong Hƣơng Cây in chung với Bằng Việt trong tập Hƣơng Cây Bếp Lửa khi ông 20 tuổi, sớm bộc lộ một giọng thơ ngọt ngào, đằm thắm, thiết 10 tha với đất nƣớc, giàu mơ mộng và khát vọng. Thơ Lƣu Quang Vũ mang cảm xúc, hơi thở mới, tiêu biểu cho một thế hệ trẻ háo hức lên đƣờng cứu nƣớc. Năm 1970, Lƣu Quang Vũ xuất ngũ. Lúc này ông đã có vợ là diễn viên điện ảnh Tố Uyên và con trai Lƣu Minh Vũ. Lƣu Quang Vũ đã gặp nhiều trắc trở trong cuộc sống, nhƣng ông vẫn tiếp tục viết truyện và làm thơ. Rồi cuộc sống gia đình tan vỡ, cuộc đời ông sang một ngã rẽ và thơ ông cũng chuyển giọng, thành một nốt trầm chứa bao đau đớn, u buồn của đời riêng cũng nhƣ thời cuộc. Những bài thơ Lƣu Quang Vũ viết từ những năm 1970 đến 1973 đƣợc tuyển chọn và in vào tập Bầy ong trong đêm sâu (1993) cho ngƣời đọc thấy một Lƣu Quang Vũ khác - một Lƣu Quang Vũ đầy dằn vặt, đau xót, cô đơn, trăn trở, hoài nghi, có lúc chán nản đến tuyệt vọng. Đến tập thơ Mây trắng của đời tôi Lƣu Quang Vũ viết những năm tám mƣơi đƣợc xuất bản năm (1989) do tự tay tác giả chuẩn bị, nhƣng sau khi ông qua đời mới đến đƣợc với bạn đọc, đánh dấu một chặng đƣờng mới của ông. Cảm xúc vẫn tài hoa, tinh tế, nhƣng suy nghĩ sâu hơn, giàu chất khái quát và chất tạo hình. Đặc biệt là tuyển thơ Gió và tình yêu thổi trên đất nƣớc tôi (2010) với hơn 100 thi phẩm có thể xem nhƣ tuyển tập thơ Lƣu Quang Vũ đầy đủ, công phu và kỹ lƣỡng nhất cho đến thời điểm này. Qua tập sách, ngƣời đọc có thể thấy đƣờng thơ Lƣu Quang Vũ đƣợc thể hiện tƣơng đối rõ nét, từ những trong trẻo đầu tiên của những ngày Hƣơng cây đầy say mê, náo nức cho đến những linh cảm, những lo âu ban đầu về cuộc đời, rồi bi kịch vỡ mộng của con ngƣời đã từng mang trong mình nhiều khát vọng, ƣớc mơ trƣớc cuộc sống hiện thực trần trụi. Lƣu Quang Vũ vẫn sống hết mình, yêu hết mình cái cuộc đời đầy gió bụi, lắm đắng cay này, vẫn gắn bó cả đời mình với “đất nước đàn bầu” dầu không nguôi quằn quại, dằn vặt bởi những ngang trái, đớn đau. Năm 1973, đánh dấu một sự kiện quan trọng trong cuộc đời Lƣu Quang Vũ, ông kết hôn với nhà thơ Xuân Quỳnh. Gắn bó cuộc đời với Xuân Quỳnh, ông 11 không chỉ gắn bó với một ngƣời bạn đời mà còn có một ngƣời bạn thơ, cùng nhau vƣợt qua khó khăn, lận đận và xác định hƣớng đi đúng cho cuộc đời mình. Năm 1978, Lƣu Quang Vũ làm biên tập ở tạp chí sân khấu. Đến năm 1979, cuốn Diễn viên sân khấu của Lƣu Quang Vũ (in chung với Xuân Quỳnh và Vƣơng Trí Nhàn) đƣợc xuất bản. Cũng trong năm này, kịch bản đầu tay Sống mãi với tuổi 17 của ông ra đời và đƣợc Nhà Hát Tuổi trẻ dàn dựng, tham gia hội diễn sân khấu toàn quốc đƣợc trao huy chƣơng vàng. Những năm tiếp theo, Lƣu Quang Vũ có những bƣớc đi phi thƣờng trong lĩnh vực sân khấu. Ngày 29/08/1988, Lƣu Quang Vũ - Xuân Quỳnh và con trai Lƣu Quỳnh Thơ đột ngột qua đời trong một tai nạn giao thông khủng khiếp. Lƣu Quang Vũ kết thúc cuộc đời ở tuổi bốn mƣơi. Nhƣng độc giả vẫn không quên và vẫn nhắc tới Lƣu Quang Vũ, tới thơ, kịch và di cảo của ông. 1.2.2. Hành trình sáng tác của Lƣu Quang Vũ 1.2.2.1. Thơ Lƣu Quang Vũ Lƣu Quang Vũ làm thơ bắt đầu từ năm 1958 đến năm 1968 ông đã ra mắt bạn đọc với tập Hƣơng cây - Bếp lửa (in chung với Bằng Việt). Tập thơ đã “làm xao động tâm hồn của những người trẻ tuổi bởi chất tươi mát ngọt ngào và những hoài niệm đẹp đẽ về tình yêu cuộc sống.” Chỉ với hơn 20 bài thơ đầu tay Lƣu Quang Vũ thực sự đã có một “điệu tâm hồn riêng”, kịp định hình một phong cách thơ trẻ trung, sôi nổi, mê đắm, tràn ngập niềm yêu đời và yêu cuộc sống. Trong tập thơ, Lƣu Quang Vũ đã có những cảm nhận thật sâu sắc và vô cùng trong trẻo, tinh tế về quê hƣơng đất nƣớc. Viết về quê hƣơng đất nƣớc một đề tài muôn thuở, nhƣng ông đã góp đƣợc tiếng nói riêng của mình “một tiếng nói nhỏ nhẹ và sâu”. Lƣu Quang Vũ đã để tâm hồn mình hòa theo bƣớc đi của năm tháng trên đất nƣớc kì diệu. Một đất nƣớc muôn sắc muôn hƣơng của thiên nhiên, một đất nƣớc không khí rộn ràng đầy thanh sắc trong đêm lên đƣờng ra trận, một đất nƣớc với không khí xây dựng, nhựa sống đang 12 trào dâng rực rỡ. Bên cạnh đó, còn là những tình cảm mến thƣơng với tuổi thơ, với mẹ, với những rung động ngọt ngào trong tình yêu của ông. Đầu thập kỉ 70, khi đất nƣớc bƣớc vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cũng là khoảng thời gian ghi dấu một bƣớc ngoặt mới đầy biến động trong cuộc đời Lƣu Quang Vũ, là giai đoạn “gian khó, cô đơn đến cùng cực” gắn liền với những vần thơ “viển vông cay đắng u buồn”. Năm 1970, Lƣu Quang Vũ ra khỏi quân đội, trở về, không nghề nghiệp, không việc làm, hạnh phúc gia đình tan vỡ. Tất cả những điều này, ông đều dồn vào thơ. Vì vậy, thơ Lƣu Quang Vũ có một giọng điệu khác, hoàn toàn khác biệt với giọng điệu chung của thời đại. Những sáng tác của ông trong giai đoạn này, đƣợc tập hợp lại trong tập thơ Bầy ong trong đêm sâu. Đƣợc giới phê bình đánh giá là những tác phẩm có giá trị, mang tinh thần hiện thực, làm phong phú thêm sắc màu diện mạo thơ ca kháng chiến chống Mỹ nói riêng và thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung. Tập thơ Mây trắng của đời tôi, đƣợc Lƣu Quang Vũ viết vào những năm tám mƣơi. Là giai đoạn nhà thơ vƣợt qua khủng hoảng của cuộc đời, những sáng tác trong Mây trắng của đời tôi ông viết ấm áp hơn, vui tƣơi hơn, cái ấm áp đời thƣờng dễ thân với mọi ngƣời, nhƣng mạch thơ Lƣu Quang Vũ không hề đứt nối; giai đoạn trƣớc kiến tạo cho giai đoạn sau. Sức mạnh của câu thơ yêu đời đƣợc bắt đầu từ câu thơ mất mát. Ở giai đoạn này, ngòi bút của Lƣu Quang Vũ vừa đề cập đến vấn đề nhỏ nhặt trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, nhƣ bài: Thằng Mý, Nhà chật, Buổi chiều đón con … vừa vƣơn tới những vấn đề rộng lớn về quê hƣơng đất nƣớc, về ƣớc mơ khát vọng của con ngƣời tới một thế giới tốt đẹp nhƣ bài: Đất nƣớc đàn bầu, Gió và tình yêu thổi trên đất nƣớc tôi … Bên cạnh Hƣơng cây - Bếp lửa (in chung với Bằng Việt), Mây trắng đời tôi, Bầy ong trong đêm sâu thì Gió và tình yêu thổi trên đất nƣớc tôi với hơn 100 thi phẩm có thể coi nhƣ một tuyển tập thơ trọn vẹn, công phu nhất 13 về hồn thơ đắm say Lƣu Quang Vũ. Qua tuyển thơ, ngƣời đọc có thể thấy đƣờng thơ Lƣu Quang Vũ đƣợc thể hiện tƣơng đối rõ nét, từ những trong trẻo đầu tiên của những ngày Hƣơng cây đầy say mê, náo nức cho đến những linh cảm, những lo âu ban đầu về cuộc đời, rồi bi kịch vỡ mộng của con ngƣời đã từng mang trong mình nhiều khát vọng, ƣớc mơ trƣớc cuộc sống hiện thực trần trụi. Gió và tình yêu thổi trên đất nƣớc tôi mang đến cho độc giả một thế giới tinh thần đầy phong phú của Lƣu Quang Vũ. Đó là nơi ông thể hiện nhiều sắc màu tình yêu: tình yêu với thành phố nơi mình sinh ra và lớn lên, tình yêu đôi lứa, tình yêu với đất nƣớc, quê hƣơng, tình yêu bạn bè, đồng loại. Nhà thơ Vũ Quần Phƣơng có nhận xét: “Đây là một tập thơ hay, có lẽ hay nhất trong các tập của Lưu Quang Vũ. Tôi đọc và sửng sốt, đây là một Lưu Quang Vũ khác, một Lưu Quang Vũ mà bạn bè còn ít biết tới. Ở đây anh cô đơn hơn, cay đắng hơn và nhiều ý nghĩ của anh bế tắc quá. Nhưng cũng chính ở đây anh viết thực chân thành, trái tim trần trụi nhoi nhóp đập sau nét chữ mảnh mai như chữ con gái - chưa bao giờ tôi thấy thơ Lưu Quang Vũ chân thành đến tàn nhẫn với chính mình như ở tập này.” [55, tr.356]. Dõi theo chặng đƣờng thơ Lƣu Quang Vũ, thơ Lƣu Quang Vũ cũng là đời Lƣu Quang Vũ. Và một điều dễ nhận thấy, dƣờng nhƣ đối với ông niềm đam mê thơ ca còn lớn hơn cả kịch trƣờng. Ông lặng lẽ miệt mài sáng tạo để có đƣợc những vần thơ đích thực với nghệ thuật đắm chìm cùng thời gian, sống trong lòng bạn đọc. Lƣu Quang Vũ xứng đáng là một gƣơng mặt đầy cá tính, độc đáo của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. 1.2.2.2. Truyện ngắn Lƣu Quang Vũ “Truyện ngắn Lưu Quang Vũ là những truyện ngắn mang dư vị thơ. Và những truyện ngắn hàm chứa nhiều chất kịch” [49, tr.231]. Đứng ở thời điểm cuối bảy mƣơi, đầu tám mƣơi mà nhìn lại, khi hào quang chiến thắng hƣớng về tƣơng lai của dân tộc có phần nhạt đi trƣớc các 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan