Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn giao kết hợp đồng tín dụng ngân hàng theo pháp luật việt nam từ thực ti...

Tài liệu Luận văn giao kết hợp đồng tín dụng ngân hàng theo pháp luật việt nam từ thực tiễn ngân hàng oceanbank

.PDF
84
102
144

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM VŨ MONG GIAO KẾT HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN NGÂN HÀNG OCEANBANK LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM VŨ MONG GIAO KẾT HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN NGÂN HÀNG OCEANBANK Ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC MINH HÀ NỘI, 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan: Luận văn thạc sĩ “Giao kết hợp đồng tín dụng ngân hàng theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Ngân hàng OceanBank” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết, khảo sát tình hình thực tiễn và sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn Đức Minh. Các thông tin, số liệu được sử dụng trong Luận văn là hoàn toàn chính xác và có nguồn gốc rõ ràng. Hà Nội, ngày 20 tháng 8 năm 2019 Học viên Phạm Vũ Mong LỜI CẢM ƠN Với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn đến PGS.TS. Nguyễn Đức Minh người đã tận tình hướng dẫn và giúp tôi đưa ra những ý kiến và định hướng quý báu thực hiện Luận văn. Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo, bạn bè, đồng nghiệp và gia đình động viên, giúp đỡ tôi học tập và nghiên cứu để hoàn thành luận văn này! MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................................... 1 Chương 1 ............................................................................................................................ 7 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG ................... 7 1.1. Khái niệm về giao kết hợp đồng tín dụng .................................................................... 7 1.2. Cơ sở pháp lý và nội dung pháp luật điều chỉnh giao kết hợp đồng tín dụng ............ 10 1.3. Hình thức và chủ thể giao kết hợp đồng tín dụng ...................................................... 16 1.4. Điều kiện có hiệu lực của giao kết Hợp đồng tín dụng .............................................. 25 1.5. Trình tự, thủ tục giao kết hợp đồng tín dụng ........................................................ 30 1.6. Nguyên tắc giao kết hợp đồng tín dụng ..................................................................... 38 1.7. Mối quan hệ giữa giao kết hợp đồng bảo đảm tín dụng với giao kết hợp đồng tín dụng .............................................................................................................................. 41 1.8. Điều kiện giao dịch chung trong giao kết hợp đồng tín dụng .............................. 43 Chương 2 .......................................................................................................................... 48 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT, THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG QUA THỰC TIỄN NGÂN HÀNG OCEANBANK ....................................................................................... 48 2.1. Thực trạng pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng ........................................... 48 2.2. Thực tiễn giao kết hợp đồng tín dụng tại Ngân hàng OceanBank ............................. 53 2.3. Các kết luận và phát hiện qua nghiên cứu.................................................................. 56 2.4. Định hướng hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng .............................. 62 2.5. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng ............ 65 KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 74 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Stt Kí hiệu Diễn giải 1 BIDV Ngân hàng Thương Mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam 2 BLDS Bộ luật Dân Sự 3 HĐTD Hợp đồng tín dụng 4 NHNN Ngân hàng nhà nước 5 NĐ-CP Nghị định-Chính Phủ 6 QĐ Quyết định 7 TCTD Tổ chức tín dụng 8 TMCP Thương mại cổ phần 9 VBHD Văn bản hướng dẫn 10 WTO Tổ chức Thương Mại Thế giới LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm qua, Việt Nam đã và đang có những bước đi hết sức quan trọng trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế. Việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã thúc đẩy sự phát triển cho nền kinh tế nước nhà, tạo ra cho các doanh nghiệp những cơ hội to lớn để phát triển, mở rộng thị trường trong và ngoài nước nhưng đồng thời cũng đặt ra thách thức vô cùng to lớn cho các doanh nghiệp khi họ phải cạnh tranh với nhau và với các doanh nghiệp nước ngoài. Trong đó, Ngân hàng là một trong những lĩnh vực phải chịu ảnh hưởng nhiều nhất. Trong các hoạt động ngân hàng thì cho vay là hoạt động mang lại nguồn thu chủ yếu cho các ngân hàng nhưng cũng là hoạt động tiềm ẩn những rủi ro rất lớn, thậm chí có thể gây sụp đổ hệ thống ngân hàng tác động nghiêm trọng đến nền kinh tế đất nước. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế đang diễn ra sâu rộng tại Việt Nam thì nguy cơ rủi ro tín dụng ngày càng cao. Đồng thời, những cuộc khủng hoảng tín dụng tại một số nước trên thế giới là lời cảnh tỉnh cho Việt Nam trong việc nâng cao chất lượng tín dụng, kiểm soát rủi ro hoạt động. Do vậy, chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện cả về nội dung lẫn hình thức để đảm bảo hơn nữa tính thống nhất, đồng bộ, đầy đủ và hiệu quả pháp luật về ngân hàng nói chung và pháp luật về hợp đồng tín dụng nói riêng đặc biệt là giao kết hợp đồng. Trong những năm gần đây, Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp luật như: Bộ luật dân sự 2015; Luật Ngân hàng Nhà nước; Luật các tổ chức tín dụng 2010; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật các tổ chức tín dụng 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành…Những văn bản đó đã tạo ra một hành lang pháp lý quan trọng, tạo điều kiện để hoạt động cho vay của các ngân hàng phát triển, góp phần thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế nước nhà. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được thì pháp luật về hợp đồng tín dụng nói chung và pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng nói riêng vẫn còn nhiều bất cập, thiết sót. Việc tuân thủ nghiêm ngặt những quy định về thẩm quyền giao kết, trình tự, thủ tục, hình thức giao kết hợp đồng và sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng tín dụng ngân hàng luôn là một đòi hỏi cần thiết, bởi việc vi phạm hợp đồng tín dụng ngân hàng không chỉ gây tổn 1 hại cho lợi ích của các tổ chức tín dụng mà còn làm ảnh hưởng đến các chủ thể khác và lợi ích chung của toàn xã hội. Hơn nữa, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cũng đặt ra yêu cầu phải có sự thống nhất giữa quy phạm pháp luật quốc gia với các quy phạm pháp luật quốc tế, giữa các quy định của pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng với các cam kết của WTO mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Với các lý do như trên, em xin lựa chọn đề tài “Giao kết hợp đồng tín dụng ngân hàng theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Ngân hàng OceanBank” để nghiên cứu. Hi vọng rằng với những nghiên cứu này sẽ góp phần hoàn thiện những vấn đề bất cập trong việc giao kết hợp đồng tín dụng. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn Hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực tín dụng ngân hàng nói chung và giao kết hợp đồng tín dụng nói riêng ở những khía cạnh khác nhau như: - “Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng tín dụng và thời hiệu khởi kiện vụ án kinh tế về tranh chấp hợp đồng tín dụng” – Hoàng Quỳnh Chi – Kiểm sát. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, số 4/2002. Bài viết đã đề cập đến nhũng quy định của pháp luật về chủ thể, đối tượng, vấn đề giao kết và thực hiện hợp đồng tín dụng, thời hiệu khởi kiện vụ án kinh tế về tranh chấp hợp đồng tín của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. - “Các biện pháp pháp lý bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng” – Phạm Văn Đàm – Dân chủ và Pháp luật. Bộ Tư pháp, số 11/2011. Bài viết trình bày khái niệm, bản chất và đặc điểm sự cần thiết phải áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện HĐTD. Đối với các khoản tiền vay bằng tài sản: cầm cố, thế chấp, bảo lãnh... - “Vận dụng quy định của pháp luật về lãi suất để giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng tại Tòa án” – Lương Khải An – Tạp chí Kiểm sát, số 12/2012. Bài viết chỉ ra việc vận dụng các quy định về lãi suất quá hạn, lãi suất chậm thi hành án vẫn còn những quan điểm khác nhau; bên cạnh đó, hướng dẫn của ngành Ngân hàng còn chồng chéo với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên; các cơ quan liên ngành cũng chưa kịp thời phối kết hợp để cùng giải quyết vướng mắc nên việc giải quyểt tranh chấp còn thiếu thống nhất, chưa thỏa đáng. 2 - “Bàn về chủ thể của luật dân sự qua quy định về bảo hiểm tiền gửi của cá nhân ở các tổ chức tín dụng” – Đinh Dũng Sỹ – Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 02/2005. Tác giả đã nêu lên cái nhìn tổng quát về các chủ thể được quy định còn chung chung, chưa rõ ràng trong Bộ luật dân sự 2005 gây ra không ít khó khăn, phức tạp trong thực tiễn điều chỉnh pháp luật về bảo hiểm tiền gửi của các cá nhân ở các tổ chức tín dụng tại Việt Nam. Các công trình nghiên cứu trên đã đi sâu phân tích những vấn đề pháp lý về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng và những bất cập đang gặp phải, đưa ra định hướng cho sự phát triển của các ngân hàng nói riêng và của nền kinh tế Việt Nam nói chung. Tuy nhiên, những công trình này mới chỉ nghiên cứu hoạt động tín dụng ở một số lĩnh vực mà chưa có những phân tích cụ thể về vấn đề giao kết hợp đồng tín dụng - vấn đề này còn nhiều bất cấp, chưa phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế. Do đó, trên cơ sở kế thừa thành tựu của các công trình nghiên cứu trước đó, tác giả sẽ tiến hành nghiên cứu và làm rõ hơn những vấn đề lý luận về giao kết hợp đồng tín dụng, chỉ ra những bất cập của việc thực hiện các quy định đó trong thực tiễn, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ nội dung, cơ sở lý luận và thực tiễn của các quy định về giao kết hợp đồng tín dụng ngân hàng, thông qua việc phân tích các quy định của Bộ Luật Dân sự 2015, Luật các tổ chức tín dụng 2010; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật các tổ chức tín dụng 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành… và nghiên cứu thực tiễn giao kết hợp đồng tín dụng tại Ngân hàng OceanBank. Trên cơ sở nghiên cứu tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện những quy định bất cập, góp phần giải quyết các vướng mắc của thực tiễn giao kết hợp đồng tín dụng. Đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề sau: Thứ nhất là, nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng. Thứ hai là, phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng ở nước ta hiện nay, đặc biệt là tại Ngân hàng OceanBank. 3 Thứ ba là, đề xuất một số kiến nghị nhằm sửa đổi những quy định bất cập, góp phần hoàn thiện khung pháp lý về giao kết hợp đồng tín dụng để nâng cao hiệu quả của hoạt động tín dụng ở nước ta nói chung và Ngân hàng OceanBank nói riêng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài lấy đối tượng nghiên cứu là các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về giao kết hợp đồng tín dụng, cụ thể là thực tiễn áp dụng pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng tại Ngân hàng OceanBank. Đồng thời, qua việc nghiên cứu thực trạng pháp luật điều chỉnh hợp đồng tín dụng, đề tài sẽ chỉ ra một số vấn đề bất cập còn tồn đọng. Từ đó, tác giả đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng, nâng cao hiệu quả và tính khả thi của việc áp dụng pháp luật về hoạt động tín dụng vào thực tiễn tại Việt Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng ngân hàng có phạm vi nghiên cứu rất rộng, nội dung phức tạp, bao hàm nhiều lĩnh vực pháp luật như dân sự, hành chính, hình sự… Do đó, để nghiên cứu một cách toàn diện thì đòi hỏi sự đầu tư nghiên cứu rất nhiều kiến thức có liên quan đến nhiều ngành luật khác nhau. Vì vậy, với việc nghiên cứu dừng lại ở mức đề tài luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ giới hạn phạm vi nội dung nghiên cứu là pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng tại ngân hàng. Trên cơ sở đó, tác giả đề ra những giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng ngân hàng tại Việt Nam. Về thời gian: Luận văn sẽ nghiên cứu pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng trên cơ sơ pháp luật từ năm 2010 đến nay và nghiên cứu việc thực hiện hoạt động tín dụng tại Ngân hàng, cụ thể là: Bộ luật dân sự 2015, Luật các TCTD 2010 và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Về không gian: Luận văn tập trung làm rõ thực trạng giao kết hợp đồng tín dụng tại Ngân hàng OceanBank, từ đó đưa ra những định hướng góp phần hoàn thiện vấn đề này đối với các ngân hàng tại Việt Nam. 4 5. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở phương pháp luận Để giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra, tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận là của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để tìm ra mối quan hệ biện chứng giữa pháp luật và thực tế áp dụng cũng như thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý hay những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, các bài viết trên tạp chí, các vụ án được đề cập trên truyền thông đại chúng. 5.2. Các phương pháp nghiên cứu Bài luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu định tính như: - Phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động giao kết hợp đồng tín dụng tại Ngân hàng OceanBank. - Phương pháp điều tra, khảo sát thực tiễn nhằm nắm bắt được những khó khăn, vướng mắc của cơ quan quản lý trong quá trình thực tiễn hoạt động giao kết hợp đồng tín dụng tại Ngân hàng OceanBank. Sự kết hợp các phương pháp định tính là nền tảng cho cái nhìn khách quan nhất, đồng thời sẽ có những nhận xét, đánh giá xác thực và đề ra những phương hướng hoàn thiện có tính khả thi. Ngoài ra, việc thu thập, nghiên cứu, phân tích các tài liệu được cung cấp bởi Ngân hàng OceanBank cũng góp phần hoàn thành và làm rõ hơn mục đích nghiên cứu. Thêm nữa để có cái nhìn toàn diện, khách quan, đa chiều hơn về vấn đề nghiên cứu, tác giả cũng tiến hành nghiên cứu thông qua sách báo, tạp chí và internet. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Đề tài nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung và phát triển lý luận về giao kết hợp đồng tín dụng và tìm ra các giải pháp nhằm hạn chế tranh chấp trong giao kết hợp đồng tín dụng. Kết quả nghiên cứu của luận văn có tính ứng dụng thực tiễn. - Một là, nội dung của luận văn nhằm hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng. - Hai là, hạn chế các tranh chấp phát sinh trong quá trình giao kết hợp đồng tín dụng. 5 - Ba là, bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của bên cho vay và bên vay, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh cho sự phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của đề tài bao gồm: Chương 1: Những vấn đề lý luận về giao kết hợp đồng tín dụng Chương 2: Thực trạng giao kết hợp đồng tín dụng qua thực tiễn Ngân hàng OceanBank và giải pháp Cuối cùng là Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG 1.1. Khái niệm về giao kết hợp đồng tín dụng Từ trước đến nay, pháp luật về hợp đồng chiếm một vị trí quan trọng trong pháp luật Việt Nam, hầu hết các giao dịch trong xã hội đều liên quan đến hợp đồng. Do đó, các quy định của Bộ luật Dân sự 2015 liên quan đến hợp đồng dân sự nói chung chiếm một phần không nhỏ. Mục đích của pháp luật về hợp đồng nhằm bảo vệ quyền tự do ý chí của các bên. Hợp đồng hiểu theo nghĩa rộng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về một vấn đề nhất định trong xã hội nhằm làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quyền hay nghĩa vụ của các bên đó. Điều 385 Bộ luật Dân sự 2015 đã đưa ra khái niệm về hợp đồng dân sự như sau: “Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ đối với nhau”. Khái niệm “Tín dụng” có nguồn gốc từ thuật ngữ Latinh “Creditium” có nghĩa là sự tin tưởng, tín nhiệm. Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam, tín dụng có nghĩa là sự vay mượn. Theo đó, tín dụng là quan hệ kinh tế trong đó một chủ thể thỏa thuận để các chủ thể khác được sử dụng một số vốn nhất định của mình (dưới hình thức hàng hóa hoặc tiền tệ) và số vốn này bao giờ cũng được hoàn trả trong một khoảng thời gian nhất định dựa trên cơ sở có sự tín nhiệm. Về bản chất, hợp đồng tín dụng là một dạng của hợp đồng vay tài sản. Do đó, để hiểu được hợp đồng tín dụng là gì thì trước hết phải nghiên cứu khái niệm hợp đồng vay tài sản. Theo Điều 463 Bộ luật dân sự 2015 thì: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”. Ngoài ra, cũng có nhiều quan điểm về hợp đồng tín dụng như: “Hợp đồng tín dụng là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng (bên cho vay) với tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện do Luật định (bên vay), theo đó tổ chức tín dụng thỏa thuận ứng trước một số tiền cho bên vay sử dụng trong một thời hạn nhất định, với điều kiện có hoàn trả cả gốc lẫn lãi, dựa trên sự tín nhiệm” [23]. 7 Hay: “Hợp đồng tín dụng ngân hàng là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng (gọi là bên cho vay) và khách hàng vay vốn (gọi là bên đi vay), theo đó bên cho vay cấp cho bên đi vay một khoản tiền nhất định để sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định và khi hết hạn đó, bên đi vay phải hoàn trả lại cả gốc và lãi” [22]. Từ các định nghĩa nêu trên, chúng ta có thể hiểu: hợp đồng tín dụng là sự thoả thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng (bên cho vay) với khách hàng là tổ chức, cá nhân (bên vay) nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ nhất định giữa các bên theo quy định của pháp luật, theo đó tổ chức tín dụng (bên cho vay) giao hoặc cam kết giao cho khách hàng (bên vay) một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Bản chất của hợp đồng bao giờ cũng là sự thỏa thuận, nếu không có thỏa thuận thì không có hợp đồng. Nhưng chỉ được coi là hợp đồng tín dụng khi các bên tham gia nhằm làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Mỗi chủ thể tham gia giao kết hợp đồng tín dụng đều có mục đích, động cơ nhằm hướng tới lợi ích nhất định. Vì vậy, khi giao kết hợp đồng tín dụng các bên có thể tự do bày tỏ ý chí của mình theo nguyên tắc và trình tự nhất định, cùng thỏa thuận để đi đến thống nhất thành ý chí chung và nếu ý chí chung đó phù hợp với quy định của pháp luật thì hợp đồng đó được coi là có hiệu lực pháp luật, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên. Giao kết hợp đồng tín dụng là giai đoạn quyết định việc có tiến tới xác lập hợp đồng hay không và liên quan tới thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Trước tiên, là việc một bên biểu hiện ý chí của mình trước người khác bằng cách bày tỏ cho phía bên kia biết ý muốn tham gia giao kết với người đó một HĐTD. Bên đề nghị phải đưa ra những điều khoản của hợp đồng một cách cụ thể và rõ ràng. Việc đề nghị giao kết hợp đồng được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau. Quy trình giao kết hợp đồng tín dụng phải đảm bảo các yếu tố sau: - Ý chí muốn xác lập hợp đồng của mỗi bên được biểu hiện ra bên ngoài. - Có sự thông nhất ý chĩa giữa các bên Việc đề nghị giao kết hợp đồng được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau . Bên đề nghị có thể gặp mặt trực tiếp với người được đề nghị trao đổi, thỏa thuận 8 hoặc có thể thông qua điện thoại, chuyển công văn, giấy tờ qua đường bưu điện. Bên đề nghị có thể thay đổi hoặc rút lại đề nghị trong các trường hợp sau: - Bên được đề nghị chưa nhận được đề nghị - Bên đề nghị có nêu rõ điều kiện được thay đổi hoặc rút lại đề nghị và điều kiện đó đã đến. Ngoài ra, đề nghị giao kết hợp đồng được coi là chấm dứt khi bên nhận được đề nghị trả lời không chấp nhận hoặc trả lời chấp nhận chậm. Tiếp theo, chấp nhận đề nghị giao kết HĐTD là việc bên được đề nghị nhận lời và đồng ý tiến hành việc giao kết hợp đồng với bên đề nghị. Về nguyên tắc, bên được đề nghị phải trả lời ngay về việc có giao kết hợp đồng hay không. Trong những trường hợp, cần phải có thời gian để bên được đề nghị cân nhắc, suy nghĩ mà các bên đã ấn định thời hạn trả lời thì bên được đề nghị phải trả lời trong thời hạn đó. Nếu sau thời hạn nói trên, bên được đề nghị mới trả lời về vệc chấp nhận giao kết hợp đồng thì lời chấp nhận đó được coi như một lời đề nghị mới của bên chậm trả lời. Nếu việc trả lời được chuyển qua đường bưu điện thì ngày gửi đi theo dấu của bưu điện được coi là thời điểm trả lời. Căn cứ vào thời điểm đó để bên đã đề nghị xác định việc trả lời có chậm hay không so với thời hạn đã ấn định. Bên được đề nghị có thể chấp nhận toàn bộ nội dung đề nghị, cũng có thể chỉ chấp nhận một phần trong nội dung đó hoặc có thể chỉ chấp nhận giao kết hợp đồng nhưng không đồng ý với nội dung mà bên đề nghị đưa ra. Nghĩa là trong những trường hợp này, bên được đề nghị muốn sửa đổi hoặc thay đổi nội dung mà bên đề nghị đưa ra. Vì vậy, họ sẽ trở thành bên đề nghị mới và bên đã đề nghị trước đó lại trở thành bên được đề nghị. Bên đề nghị mới cũng chịu sự ràng buộc của mình về những nội dung đã đề nghị. Sự hoán vị này có thể xảy ra nhiều lần cho đến khi nào các bên thống nhất thỏa thuận được với nhau toàn bộ nội dung của hợp đồng thì sẽ đi đến giao kết hợp đồng tín dụng. Để thực hiện hoạt động cấp tín dụng, TCTD phải giao kết và tiến hành ký kết hợp đồng nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Trong giao kết HĐTD, TCTD luôn tham gia với tư cách là chủ thể cấp tín dụng nhằm phân phối lại nguồn vốn đã huy động từ tổ chức và cá nhân khác trong xã hội. Với tư cách là chủ thể cấp tín dụng, TCTD phải thẩm định được phương án vay vốn, tính hiệu quả của việc sử 9 dụng vốn vay. Điều này là vô cùng cần thiết vì nó có khả nẳng hoàn trả nợ vay của bên vay. Việc đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng được thực hiện bằng những hình thức khác nhau: văn bản viết, lời nói hoặc phương tiện khác. Việc trả lời do hai bên thỏa thuận: trả lời ngay hoặc một thời hạn do hai bên ấn định. Khi bên đề nghị giao kết có thời hạn ấn định trả lời thì việc chấp nhận giao kết hợp đồng chỉ có giá trị khi được thực hiện trong thời hạn đó. Nếu sự chấp nhận diễn ra sau thời hạn đó thì được xem như là một đề nghị giao kết hợp đồng mới. Bên đề nghị giao kết có thể thay đổi hoặc rút lại đề nghị trong trường hợp: khi bên được đề nghị giao kết chưa nhận được lời đề nghị hoặc bên đề nghị giao kết nêu rõ điều kiện được thay đổi hoặc rút lại lời đề nghị. 1.2. Cơ sở pháp lý và nội dung pháp luật điều chỉnh giao kết hợp đồng tín dụng 1.2.1. Cơ sở pháp lý Trong hệ thống các tổ chức tín dụng, ngân hàng được coi là một trong những đơn vị có vị trí quan trọng nhất, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, đất nước đang là thành viên của rất nhiều các tổ chức kinh tế thế giới, đòi hỏi cần thay đổi đề bắt kịp với các nước trong cùng khối cộng đồng là hết sức cần thiết. Nhằm phối hợp nhịp nhàng giữa nguồn cung và cầu vốn thì điều kiện cần là hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các hoạt động tài chính quốc gia cần được hoàn thiện và là nền tảng cho các tổ chức trong nền kinh tế, đặc biệt là các văn bản điều chỉnh những quan hệ của các tổ chức tín dụng. Mọi hoạt động của tổ chức tín dụng đều tác động đến nền kinh tế - xã hội của đất nước. Do đó mà quá trình quản lý các hoạt dộng của tổ chức tín dụng đã và được được Nhà nước ta đặc biệt quan tâm chú trọng. Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm đảm bảo hoạt động của tổ chức tín dụng có tầm ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế nước nhà, đồng thời định hướng cho sự phát triển của chính các tổ chức tín dụng. Cùng với đó, hoạt động giao kết hợp đồng tín dụng tại Việt Nam cần dựa trên khung pháp lý cụ thể đáp ứng đầy đủ các yêu cầu mà thực tiễn đang đặt ra. Để hoạt động giao kết hợp đồng tín dụng ngày càng hoàn thiện và tiến tới có vai trò trọng yếu trong nền kinh tế thị trường thì đòi hỏi cần tiếp tục hoàn thiện những quy 10 định của pháp luật để hoạt động giao kết hợp động tín dụng có được sự hỗ trợ tốt nhất trong tiến trình hội nhập và phát triển. 1.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh giao kết hợp đồng tín dụng Pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng là các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giao kết hợp đồng tín dụng giữa các tổ chức tín dụng và các bên liên quan. Từ khái niệm ta có thể rút ra một số thuộc tính cơ bản của pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng: Thứ nhất, đối tượng điều chỉnh của pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giao kết hợp đồng, thực hiện hành vi cho vay dưới hình thức hợp đồng tín dụng. Theo quy định pháp luật hiện hành thì hoạt động cho vay là một trong những hành vi cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho khách hàng thông qua một giao dịch hợp đồng, theo đó tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền trong một thời hạn nhất định có hoàn trả cả gốc và lãi. Việc cho vay được thể hiện dưới hình thức pháp lý là hoạt động giao kết hợp đồng, hay nói cách khác, việc cho vay phải được thông qua hoạt động giao kết hợp đồng tín dụng, giao kết hợp đồng tín dụng chính là hình thức pháp lý của quan hệ tín dụng ngân hàng, bởi lẽ nó phản ánh sự thỏa thuận trực tiếp của các bên trong việc xác lập một quan hệ tín dụng, xác lập các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của các bên trong việc vay vốn và hoàn trả vốn vay. Xuất phát từ vai trò của tín dụng trong nền kinh tế cũng như nhằm đảm bảo sự an toàn của hoạt động ngân hàng và an toàn của hệ thống các tổ chức tín dụng nên các nước đều coi trọng việc xây dựng một chế định về giao kết hợp đồng tín dụng chặt chẽ và chuẩn mực. Thứ hai, trình tự giao kết hợp đồng tín dụng là một quá trình mà trong đó các bên chủ thể bày tỏ ý chí với nhau bằng cách trao đổi ý kiến rồi đi đến thỏa thuận trong việc cùng nhau xác lập các quyền và nghĩa vụ của mỗi bên, xác định từng nội dung cụ thể của hợp đồng. Khi một bên muốn thiết lập một HĐTD thì ý muốn đó phải được thể hiện ra bên ngoài thông qua một hành vi nhất định. Chỉ như vậy, bên còn lại mới có thể nhận biết được ý muốn từ họ và từ đó đi đến việc giao kết hợp đồng. 11 Theo Khoản 1 Điều 386 BLDS 2015 thì: “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng (sau đây gọi chung là bên được đề nghị)”. Theo đó, đề nghị giao kết HĐTD là một bên biểu hiện ý chí, nguyện vọng của mình trước một người khác bằng cách bày tỏ cho phía bên kia biết được ý muốn tham gia giao kết với người đó một HĐTD. HĐTD mà Bên đề nghị đưa ra phải có những nội dung phù hợp và các điều khoản phải rõ ràng, cụ thể. Còn chấp nhận đề nghị giao kết HĐTD là việc bên được đề nghị nhận lời đề nghị và tiến hành việc giao kết hợp đồng với bên đề nghị. Theo quy định, bên được đề nghị phải trả lời ngay về việc có giao kết hợp đồng hay không. Trong những trường hợp, bên được đề nghị cần có thời gian để bàn bạc, suy nghĩ mà hai bên đã thỏa thuận thời hạn trả lời nhất định thì bên được đề nghị phải trả lời trong khoảng thời hạn đó. Nếu quá thời hạn nói trên, bên được đề nghị mới trả lời về việc chấp nhận giao kết hợp đồng thì theo thỏa thuận của hai bên, đề nghị giao kết HĐTD đó có thể bị chấm dứt hoặc lời chấp nhận đó được coi như một lời đề nghị mới của bên chậm trả lời. Bên được đề nghị có thể chấp nhận toàn bộ và vô điều kiện các nội dung đề nghị, cũng có thể chỉ chấp nhận một phần trong nội dung đó hoặc nhận lời đề nghị giao kết hợp đồng nhưng không đồng ý với nội dung mà bên đề nghị đưa ra. Có nghĩa là bên được đề nghị muốn sửa đổi hoặc thay đổi nội dung tại hợp đồng mà bên đề nghị đưa ra, khi đó bên được đề nghị sẽ trở thành bên đề nghị mới và bên đề nghị trước đó trở thành người được đề nghị. Quá trình này có thể lặp đi lặp lại nhiều lần cho đến khi có được chấp nhận giao kết hợp đồng đúng yêu cầu thì hợp đồng sẽ được coi là giao kết. Trình tự giao kết hợp đồng tín dụng bao gồm các bước: - Lập hồ sơ vay vốn - Thẩm định hồ sơ vay vốn - Quyết định cho vay - Đàm phán các điều khoản của hợp đồng và ký kết hợp đồng. Thứ ba, hợp đồng tín dụng là hợp đồng ưng thuận do vậy, thời điểm phát sinh hiệu lực pháp lý của hợp đồng là điểm mốc thời gian làm phát sinh quyền đồng thời cũng là cơ sở để phân định nghĩa vụ của các bên khi có tiền vay hoặc rủi ro xảy 12 ra. Thông thường khi giao kết HĐTD, các bên sẽ thỏa thuận ghi rõ thời gian mà hợp đồng có hiệu lực, trong trường hợp này nó là hợp đồng ưng thuận và chúng ta không có gì để bàn luận về thời điểm phát sinh hiệu lực pháp lý của HĐTD ngân hàng. HĐTD có thể được công chứng, chứng thực phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên. Trong HĐTD cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối ứng. Cụ thể là, TCTD có nghĩa vụ giải ngân theo đúng thỏa thuận, được quyền giám sát việc sử dụng vốn vay của khách hàng, quyền yêu cầu khách hàng trả tiền đúng thời hạn… Bên khách hàng có quyền yêu cầu TCTD giải ngân như đã cam kết, có nghĩa vụ sử dụng vốn đúng mục đích, hoàn trả cả gốc và lãi đúng thời hạn. Thứ tư, tổ chức giao kết hợp đồng tín dụng là chủ thể chủ yếu của pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng. Tại Khoản 2 Điều 2 Thông tư 39/2016/TT-NHNN Quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng thì các tổ chức tín dụng được phép thực hiện nghiệp vụ cho vay là tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng. Trước hết, theo quy định tại Khoản 1 Điều 4 Luật các Tổ chức tín dụng 2010 thì: “Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng”. Như vậy, xét về bản chất, tổ chức tín dụng là một doanh nghiệp nhưng nó có những đặc điểm riêng để phân biệt với các doanh nghiệp khác, chẳng hạn: - Việc cho vay của tổ chức tín dụng là hoạt động nghề nghiệp kinh doanh mang tính chức năng. Điều này được thể hiện rõ tại Khoản 7 Điều 161 Luật các TCTD 2010: “7. Kể từ thời điểm Luật này có hiệu lực thi hành, các tổ chức không phải là tổ chức tín dụng đang thực hiện một hoặc một số hoạt động ngân hàng phải chấm dứt ngay các hoạt động ngân hàng, trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều này”. - Hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng không chỉ là một ngành nghề kinh doanh mà hơn nữa còn là một ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Điều này thể hiện ở việc hoạt động cho vay của TCTD phải thỏa mãn một số điều kiện nhất định như phải có vốn pháp định; phải được NHNN cấp phép hoạt động ngân hàng trước khi tiến hành đăng ký kinh doanh theo luật định. Thứ năm, hình thức giao kết hợp đồng tín dụng. Xuất phát từ đặc thù của quan hệ tín dụng luôn tiềm ẩn độ rủi ro cao. Rủi ro trong hợp đồng tín dụng không chỉ ảnh hưởng đến tổ chức tín dụng mà còn ảnh 13 hưởng đến người gửi tiền, gây tác động lớn đền nền kinh tế. Do vậy, hầu hết pháp luật các nước trên thế giới đều yêu cầu các bên khi giao kết hợp đồng tín dụng phải được thể hiện dưới hình thức văn bản như: Luật ngân hàng thương mại Trung Quốc (Điều 37), Luật Ngân hàng Ba Lan (Điều 27.2). Ở Việt Nam, căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 23 Thông tư 39/2016/TT-NHNN thì thỏa thuận cho vay phải được lập thành văn bản, trong đó có nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng tiền vay, hình thức vay, số tiền vay, lãi suất, thời hạn vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết khác được các bên thỏa thuận. Ngoài ra, hiện nay, việc giao kết hợp đồng tín dụng còn được thực hiện dưới hình giao dịch điện tử phù hợp với điều kiện công nghệ thông tin ngày càng phát triển như hiện nay. Thứ sáu, pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng đề cao nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, tự chủ của các bên tham gia giao kết, nhất là ngân hàng thương mại khi tham gia quan hệ tín dụng ngân hàng. Nguyên tắc này phản ánh đúng bản chất quan hệ hợp đồng trong cơ chế thị trường, đó là các quan hệ tự nguyện. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Thông tư 39/2016/TT-NHNN Quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng thì: “Tổ chức tín dụng có quyền tự chủ trong hoạt động cho vay và tự chịu trách nhiệm về quyết định cho vay của mình. Không tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng”. Quy định này một mặt đề cao tính tự chủ của TCTD, mặc khác cũng thể hiện tư tưởng tách bạch hoạt động quản lý ra khỏi hoạt động kinh doanh, thể hiện tính tự chủ kinh doanh của các TCTD theo cơ chế thị trường. Qua đó thấy được, Nhà nước không làm thay cho doanh nghiệp cũng như không can thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là hoạt động kinh doanh của TCTD – một loại hình doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đặc thù là kinh doanh tiền tệ. Thứ bảy, trách nhiệm pháp lý do vi phạm nghĩa vụ giao kết hợp đồng tín dụng Theo Điều Khoản 1 Điều 351 Bộ luật dân sự, vi phạm nghĩa vụ dân sự là việc bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng thời hạn, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nội dung của nghĩa vụ và bên có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền. Tương tự như 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan