Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữu...

Tài liệu Luận văn giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữu

.PDF
110
120
143

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ------------- o0o ---------- NGUYỄN THỊ MỸ GIÁ TRỊ VÀ VỊ TRÍ TẬP THƠ "VIỆT BẮC" TRONG HÀNH TRÌNH THƠ TỐ HỮU CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ : 60.22.34: LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN m· sè : 60. 22. 34 Người hướng dẫn khoa học: GS. Phong Lê Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. Phong Lê Thái Nguyên - 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến GS. Phong Lê, thầy đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian làm luận văn tốt nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Ngữ Văn, cùng gia đình, bạn bè người thân đã tạo điều kiện giúp tôi hoàn thành luận văn này. Thái Nguyên, ngày... tháng... năm 2009 Nguyễn Thị Mỹ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................ 2 2.1. Những bài nghiên cứu về thơ Tố Hữu nói chung ......................... 2 2.2. Những bài nghiên cứu về các tập thơ của Tố Hữu ........................ 3 2.3. Xung quanh tập thơ "Việt Bắc" .................................................... 4 2.4. Khảo sát văn bản tập thơ Việt Bắc ............................................... 6 3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................ 10 5. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................... 10 6. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 10 7. Cấu trúc của luận văn ........................................................................... 10 Chƣơng 1: "VIỆT BẮC" TRONG NỀN THƠ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 ............ 11 1.1. Tổng quan về thơ Việt Nam 1945 đến 1954....................................... 11 1.2. Con đường thơ Tố Hữu từ tập thơ Từ ấy sang tập thơ Việt Bắc ......... 18 1.2.1. Từ tập thơ "Từ ấy"... ............................................................. 18 1.2.2... đến tập thơ "Việt Bắc" ......................................................... 21 Chƣơng 2: GIÁ TRỊ NỘI DUNG CỦA TẬP THƠ“ VIỆT BẮC” ................................... 25 2.1. Khát vọng và niềm vui giải phóng Đất nước qua các chặng đường .... 25 2.1.1. Cách mạng Tháng Tám năm 1945.......................................... 25 2.1.2. Kháng chiến chín năm ............................................................ 27 2.1.3. Chiến thắng Điện Biên phủ ..................................................... 29 2.2. Cái "tôi" tác giả gắn với cái "ta"quần chúng trong bức tranh nhân dân kháng chiến .............................................................................................. 31 2.2.1. Hình ảnh người lính ................................................................ 31 2.2.2. Hình ảnh người phụ nữ ........................................................... 45 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn 2.3. Tình yêu quê hương đất nước ............................................................ 53 2.4. Tình cảm gắn bó với lãnh tụ và quê hương cách mạng ...................... 59 Chƣơng 3: GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA TẬP THƠ “ VIỆT BẮC” ............................ 72 3.1. Sự gắn bó khăng khít giữa tính dân tộc và tính đại chúng .................. 72 3.1.1. Thể thơ, câu thơ ...................................................................... 72 3.1.2. Nhạc điệu ................................................................................ 78 3.1.3. Ngôn ngữ, hình ảnh ................................................................ 88 3.1.4. Niêm luật và vần ..................................................................... 92 3.2. Sự kết hợp giữa tính dân tộc và âm hưởng hiện đại ........................... 96 KẾT LUẬN................................................................................................................... 100 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 102 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Tố Hữu là tác gia có vị trí đặc biệt trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam thế kỷ 20. Trong hơn nửa thế kỷ qua, thơ ông gắn liền với các giai đoạn, các mục tiêu của cuộc đấu tranh cách mạng, có sức cổ vũ to lớn với đông đảo quần chúng và thu hút sự quan tâm sâu sắc của giới phê bình, nghiên cứu văn học ở Việt Nam. Bộ tuyển tập Tố Hữu - Về tác giả và tác phẩm, do Nhà xuất bản Giáo dục in năm 2003 gồm 929 trang, thuộc loại lớn nhất, đã tuyển chọn những bài viết, những công trình nghiên cứu về giá trị tư tưởng, giá trị giáo dục và giá trị nghệ thuật trong thơ ông. Thế nhưng sau khi chiến tranh kết thúc (1975), cho đến khi đất nước bước sang thời kỳ đổi mới dường như thơ Tố Hữu có nhạt dần đi vị trí và vai trò của mình trong nền thơ ca dân tộc. Từ tập thơ Một tiếng đờn (1992), cho đến Ta với ta (2000) trong đời sống học đường hầu như không có một luận văn nào nghiên cứu về thơ ông. Các tác phẩm trước đó trong hành trình sáng tác của ông cũng ít được nhắc tới. Để bù đắp vào chỗ trống thiếu đó chúng tôi muốn góp một phần nhỏ bé để nhìn nhận lại giá trị của thơ Tố Hữu nói chung và tập thơ Việt Bắc nói riêng trong nền thơ ca dân tộc. 1.2.Trong hành trình thơ Tố Hữu, tập thơ Việt Bắc (1954) và tập thơ Từ ấy lúc tái bản lần thứ nhất (1959), đã tạo nên hai cuộc tranh luận sôi nổi trong giới sáng tác và phê bình. Đáng chú ý là cuộc tranh luận về tập thơ Việt Bắc diễn ra ngay sau 1954, với những ý kiến nghiêng về phủ định nhằm hạ thấp giá trị thơ Tố Hữu, trên vấn đề đánh giá giá trị hiện thực, tính giai cấp, tính đảng của tập thơ, và cũng có nhiều ý kiến khẳng định giá trị cơ bản của tập Việt Bắc theo chiều hướng ngược lại. Do vậy chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu để định lại giá trị của tập thơ với tiêu đề: Giá trị và vị trí của tập thơ" Việt Bắc" trong hành trình thơ Tố Hữu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 http://www.Lrc-tnu.edu.vn 1.3. Tôi được sinh ra và lớn lên ở chiếc nôi quê hương cách mạng, gắn với cảnh quan thiên nhiên, và những con người bình dị đã làm nên lịch sử. Đó là mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào; là rừng cọ, đồi chè, bến nước Bình Ca…những địa danh in đậm dấu ấn lịch sử của dân tộc ta trong chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp. Lịch sử nơi đây đã trở thành kỷ niệm gắn bó sâu nặng với Tố Hữu, và được kết đọng lại trong các vần thơ của ông, trước hết là tập thơ Việt Bắc. Là người con của quê hương cách mạng, và là giáo viên một trường phổ thông mang tên địa danh lịch sử Tân Trào, tôi rất yêu thích và có nhiều cảm xúc đối với thơ Tố Hữu, đặc biệt là tập thơ Việt Bắc, bởi ông đã ghi lại một cách chân thực những nét đẹp mộc mạc, giản dị của con người và cảnh quan thiên nhiên một miền sơn cước - nơi tôi sống và công tác. Vì vậy nếu đề tài được thực hiện thành công, chúng tôi hy vọng sẽ góp phần để tác phẩm Việt Bắc mãi mãi nhận được sự đón đợi và mến mộ của đông đảo bạn đọc, trong đó có người đọc là các thế hệ trẻ của quê hương tôi. 2. Lịch sử vấn đề Trong hơn năm thập kỷ qua, thơ Tố Hữu đã trở thành một đối tượng nghiên cứu lớn của giới học thuật, thu hút đông đảo các nhà nghiên cứu, phê bình tên tuổi. 2.1. Những bài nghiên cứu về thơ Tố Hữu nói chung Ngay từ khi thơ Tố Hữu mới xuất hiện rải rác trên báo chí cách mạng vào những năm cuối thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương, cùng với sự đón nhận nồng nhiệt của công chúng, giới văn học cách mạng đã đánh giá cao thơ ông. Trong bài viết đầu tiên giới thiệu về thơ Tố Hữu ( báo Mới, số 1, ngày 1-5-1939) tác giả K và T đã khẳng định:“ Thơ Tố Hữu là cả một nguồn sinh lực đem phụng sự cho lý tưởng”, “ Với Tố Hữu, chúng ta có một nhà thơ cách mạng có tài”, “nhà thơ chiến sĩ”, “ nhà thơ của tương lai”… Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 http://www.Lrc-tnu.edu.vn Từ sau 1954 cho đến sau 1975, có rất nhiều bài viết về thơ Tố Hữu. Đặc biệt có ba công trình biên khảo chuyên sâu về thơ ông. Đó là: Thơ Tố Hữu của Lê Đình Kỵ (1979), Thơ Tố Hữu, tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí của Nguyễn Văn Hạnh (1985) và Thi pháp thơ Tố Hữu của Trần Đình Sử (1987). Hai công trình đầu tiếp cận thơ Tố Hữu theo phương pháp truyền thống, kết hợp khảo cứu công phu, khoa học với cảm thụ nghệ thuật tinh tế. Hai tác giả đã lần đầu tiên nghiên cứu thơ Tố Hữu như một chỉnh thể toàn vẹn, có hệ thống, với nhiều phát hiện và đánh giá quý báu theo phương pháp nghiên cứu mác xít. Công trình Thi pháp thơ Tố Hữu của Trần Đình Sử tiếp cận thơ Tố Hữu theo hướng thi pháp học đem đến những cảm nhận và đánh giá mới mẻ về thơ Tố Hữu khác với cách phân tích truyền thống. Hà Minh Đức, cũng là một người bền bỉ, chuyên tâm nghiên cứu về thơ Tố Hữu qua hai Lời giới thiệu công phu cho hai Tuyển tập thơ Tố Hữu vào các năm 1979 (Nxb Văn học) và 1995 ( Nxb Giáo dục). Ngoài ra còn có rất nhiều bài nghiên cứu về thơ Tố Hữu ở trong và ngoài nước, tiêu biểu như của Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Hoàng Trung Thông, Nguyễn Đăng Mạnh, Vũ Đức Phúc,...Nhìn chung các bài nghiên cứu đều có sự nhìn nhận đánh giá những giá trị cơ bản và nổi bật của thơ Tố Hữu. 2.2. Những bài nghiên cứu về các tập thơ của Tố Hữu Từ tập thơ đầu tay Từ ấy, đến các tập Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và Hoa,…đã có hàng trăm bài viết, công trình nghiên cứu phê bình phong phú, đa dạng dọc theo đời thơ Tố Hữu suốt nửa thế kỷ qua. Tập thơ Từ ấy có các bài viết tiêu biểu của Đặng Thai Mai, Phan Cự Đệ, Vũ Đức Phúc, Hoài Thanh,… Tập thơ Việt Bắc có các bài viết tiêu biểu của Vũ Đức Phúc, Hoài Thanh, Hoàng Trung Thông,.. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 http://www.Lrc-tnu.edu.vn Tập thơ Gió lộng có các bài viết tiêu biểu của Hoài Thanh, Lê Đình Kỵ, Nguyễn Văn Long, Hà Xuân Trường… Các tập thơ khác có các bài viết của Hà Minh Đức, Nguyễn Văn Hạnh, Hoài Thanh, … 2.3. Xung quanh tập thơ "Việt Bắc" Có nhiều bài phê bình, đánh giá về tập Việt Bắc, đặc biệt xuất hiện tập trung trong cuộc tranh luận diễn ra vào năm 1954- 1955 với hai luồng cảm hứng. Luồng cảm hứng phủ định với những bài viết của Hoàng Yến, Hoàng Cầm, Lê Đạt… Hoàng Yến phủ định“chủ nghĩa hiện thực trong tập thơ Việt Bắc". Nhận xét về bài thơ Bắn Hoàng Yến viết:“ Tác giả đã tổng kết sự việc trên tài liệu chứ chưa kinh qua thực tế của cuộc sống để tổng kết chất thơ”. “ Khi Tố Hữu nói về cái Việt Bắc oai hùng, cái đất thần thánh, thiêng liêng của cách mạng thì hơi thơ đuối, khí thơ đoản, cái nhiệt tình nóng cháy trên kia tưởng như giảm sút đi”... Cũng như Hoàng Yến, Hoàng Cầm nhận xét:“ Tập thơ Việt Bắc thiếu chất sống thực tế”, là“ thùng nước loãng”, là“ không hiện thực”, cụ thể khi nhận xét về bài Cá nước Hoàng Cầm viết: “Tình cảm gặp gỡ giữa anh cán bộ và anh bộ đội cũng chỉ nhẹ nhàng lớt phớt”. Ở bài Bắn“ Bài thơ tuy có vẻ sôi nổi giục bắn, mà thực ra bàng quan lạnh lùng”… Lê Đạt nhận xét:“ Tính chất tiểu tư sản và xa thực tế là hai khuyết điểm căn bản nó cản trở khả năng hiện thực của Tố Hữu. Nó là nguyên nhân của cái buồn, cái công thức, cái hời hợt rải rác trong tập thơ". Bác lại các ý kiến trên là những bài viết khẳng định giá trị cơ bản và nổi bật của tập thơ Việt Bắc, như của Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi, Vũ Đức Phúc, Xuân Diệu,… cùng một số bạn đọc. Vũ Đức Phúc nhận xét về tập thơ Việt Bắc, cụ thể bài thơ Em bé Triều Tiên “những dòng thơ của Tố Hữu, ngoài việc tả những cảnh thảm thiết, điển hình, có thực, cũng không có một chữ nào nói quá đi để làm cho người đọc ghê rợn”. Hoài Thanh khẳng định “Cả tập thơ Việt Bắc xây dựng trên một tình yêu lớn: tình yêu nước. Giá trị tập thơ, tác dụng tập thơ là ở Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 http://www.Lrc-tnu.edu.vn đó”. Nguyễn Đình Thi cũng đánh giá cao thơ Tố Hữu“ Thơ Tố Hữu đi vào thực tế quần chúng”. Xuân Diệu rất nhạy cảm để chỉ ra nét riêng của thơ Tố Hữu là“ Tiếng thơ của tình thương mến” làm nên“ hương vị của thơ Tố Hữu” và là nét chủ đạo trong phong cách nghệ thuật của ông. Cuộc thảo luận kết thúc với bài tổng kết của Hoàng Trung Thông về tập thơ Việt Bắc ( Báo Nhân dân, 11-1955). Năm 2005, Lại Nguyên Ân tập hợp những bài viết trong cuộc thảo luận, thành một ấn phẩm sưu tầm và biên soạn có tên: Tư liệu thảo luận 1955 về tập thơ" Việt Bắc". Nhìn chung, trong quan niệm văn học và cách phê bình lúc này, tính chất xã hội học là nét khá đậm, ở cả những ý kiến đề cao lẫn những ý kiến hạ thấp giá trị tập thơ. Qua hai luồng cảm hứng phủ định và khẳng định giá trị cơ bản của tập thơ, ta thấy những bài viết mang quan điểm phủ định quy chiếu tác phẩm văn học vào các nội dung xã hội, chính trị, đồng nhất văn học với chính trị, vận dụng quan điểm giai cấp một cách máy móc để phân tích văn học. Thậm chí đôi khi còn cường điệu, không nói đúng những gì tác phẩm vốn có, dẫn đến nhận định mang tính chủ quan cho rằng thơ Tố Hữu là“ bản chất tiểu tư sản cách mạng, chủ nghĩa ái quốc trong tập thơ Việt Bắc là chủ nghĩa ái quốc lãng mạn tiểu tư sản”. Trong cuộc thảo luận này ngoài hai luồng ý kiến ngược nhau như trên, cũng đã có nhiều bài phê bình thực sự có giá trị, khám phá và phân tích những giá trị nổi bật của tập thơ Việt Bắc. Để nhìn nhận đúng giá trị, vị trí của tập thơ, ta phải đặt tập thơ trong hoàn cảnh lịch sử xã hội lúc đó. Cụ thể là trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1946- 1954), thơ Tố Hữu giữ một vị trí quan trọng trong thơ kháng chiến, và được phổ biến rộng rãi, bởi thơ ông đáp ứng được sớm nhất và tốt nhất cho hai yêu cầu cơ bản của văn học cách mạng và kháng chiến- đó là dân tộc hoá và đại chúng hoá như đã được đặt ra trong Đề cương về văn hoá Việt Nam 1943; và hai phương châm: Cách mạng hoá tư tưởng và quần Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 http://www.Lrc-tnu.edu.vn chúng hoá sinh hoạt, trong những năm sau đó khi cả dân tộc bước vào cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp. Trong nền thơ kháng chiến chống Pháp không có một tên tuổi nhà thơ nào có được vị trí xứng đáng như nhà thơ Tố Hữu. Các tác giả khác tên tuổi họ thường chỉ gắn với một hoặc vài bài thơ như Hoàng Lộc với Viếng bạn, Hồng Nguyên với Nhớ, Tân Sắc với Lên Cấm Sơn, Trần Hữu Thung với Thăm lúa, Hồ Vi với Lời quê, Quang Dũng với Tây tiến…Riêng Tố Hữu là sự xuất hiện liên tục, đều đặn những bài thơ được quần chúng yêu mến, cho đến bài thơ dài Việt Bắc được chọn làm tên chung cho tập thơ gồm 37 bài được ấn hành ngay sau hoà bình lặp lại 1954. 2.4. Khảo sát văn bản tập thơ Việt Bắc Tìm hiểu giá trị tập thơ Việt Bắc, trên từng bài riêng lẻ, hoặc chung cho cả tập thơ, chúng ta không thể không kháo sát quá trình nhà thơ sửa chữa trên từng bài, và thêm bớt qua mỗi lần tái bản; qua đó thấy nhà thơ đã dụng công như thế nào để cho Việt Bắc luôn luôn đạt được sự hoàn thiện tối ưu trong tiếp nhận và cảm xúc thẩm mỹ của người đọc. Chưa có điều kiện khảo sát kỹ tất cả các bài; ở đây chúng tôi mới chỉ nêu hai trường hợp ghi nhận sự sửa chữa cẩn trọng của tác giả, từ khi in báo, và được đưa vào sách- đó là bài Lên Tây Bắc và bài Lượm. ● Bài Lên Tây Bắc, đăng lần đầu trên Tạp chí Văn nghệ (số 8, 9 ), tháng 1, 2 năm 1949; với mở đầu: Các anh đi trước, tôi đi sau Cũng lá che lưng lá lợp đầu Bỡ ngỡ anh trông người lính lạ Theo anh không biết để đi đâu Sáng nay ra trận lên Tây Bắc Hai đứa ta cùng đi đánh giặc Tay anh cắp súng vai đeo dao Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 http://www.Lrc-tnu.edu.vn Tôi có gì đâu, chỉ cái xắc Tôi đi như đứa trẻ thơ ngây Được mẹ cho theo dự cỗ đầy... Khi đưa vào tập thơ Việt Bắc, theo văn bản in xong ngày 15.4.1955 bốn câu thơ đầu đã bị lược bỏ và sáu câu thơ sau rút lại còn bốn câu thơ: Sáng nay ra trận lên Tây Bắc Hai đứa ta cùng đi đánh giặc Tay dao tay súng, gạo đầy bao Chân cứng đạp rừng gai đá sắc. ● Bài Lượm, đăng lần đầu trên báo Cứu quốc ngày 15.4.1948, với đoạn mở đầu như sau: Cháu Nha Trang ra Gặp chú ở Huế Chú hỏi : Còn ba? Cháu rằng: Mặc kệ ! Cháu không thương ba? Có. Nhưng ba sợ Ba chẳng chịu ra Ba làm cho nó. Cháu theo ông nội Cháu lên Xuân Trường Ông theo bộ đội Ông nội, cháu thương! Rồi Huế đổ máu... Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 http://www.Lrc-tnu.edu.vn Khi đưa vào tập Việt Bắc theo văn bản in xong ngày 15.4.1955, thì 12 câu thơ đầu được cắt bỏ và bài thơ được bắt đầu từ câu thơ: Ngày Huế đổ máu Chú Hà Nội về Tình cờ chú cháu Gặp nhau Hàng Bè... Phần cuối bài Lượm in xong ngày 15.4.1948 như sau: Thư đề "thượng khẩn" Chú ngã : Ruột phèo Chú đã chết Chết. Chết thật rồi... Lượm ơi! A chú cười Híp mí Chú đồng chí Chắc bây giờ Chú nửa ngờ Chú chưa biết Chú chết... Chú bé loắt choắt Phần cuối bài Lượm in xong ngày 15.4.1955 được thay bằng một đoạn thơ khác: Vụt qua mặt trận Đạn bay vèo vèo Thư đề" Thượng khẩn" Sợ chi hiểm nghèo! Đường quê vắng vẻ Lúa trổ đòng đòng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 http://www.Lrc-tnu.edu.vn Ca- lô chú bé Nhấp nhô trên đồng... Bỗng loè chớp đỏ Thôi rồ, Lượm ơi! Chú đồng chí nhỏ Một dòng máu tươi! Cháu nằm trên lúa Tay nắm chặt bông Lúa thơm mùi sữa Hồn bay giữa đồng. Lượm ơi còn không? ● Số lượng bài của Việt Bắc từ lần in đầu đến các lần in sau cũng có thay đổi. * Văn bản in xong ngày 15.4.1955, gồm 24 bài thơ. * Văn bản in xong tháng 12 năm 1998, gồm 27 bài thơ. - Thêm: 7 bài thơ ( Đêm xanh, Tình khoai sắn, Trường tôi, Lạnh lạt, Sợ, Bà bủ, Mưa rơi) - Bỏ : 4 bài thơ ( Em bé Triều Tiên, Bao giờ hết giặc, Bài ca tháng Mười, Đời đời nhớ Ông) Nhìn vào sự thay đổi này, chúng ta cũng có thể thấy những biến động lớn của thời cuộc đã quy định chặt chẽ giá trị của tác phẩm như thế nào. Trên đây là khảo sát bước đầu của chúng tôi (chưa thật đầy đủ) về văn bản tập thơ Việt Bắc đã được in và sửa chữa ở những thời gian khác nhau. Khi nghiên cứu chúng tôi dựa theo văn bản in xong tháng 12 năm 1998. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 http://www.Lrc-tnu.edu.vn 3. Mục đích nghiên cứu Luận văn nhằm chỉ rõ những giá trị về nội dung và nghệ thuật của tập thơ Việt Bắc, đồng thời khẳng định vai trò của tập thơ Việt Bắc trong nền thơ ca kháng chiến chống Pháp và rộng ra là nền thơ ca hiện đại Việt Nam. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu Để thực hiện luận văn, chúng tôi đã được tham khảo và nghiên cứu các tài liệu sau. - Toàn bộ thơ ca kháng chiến chống Pháp (1945- 1954) - Tập thơ Việt Bắc từ văn bản 1 đến văn bản cuối cùng. - Trong khi tập trung khảo sát tập thơ Việt Bắc, chúng tôi chú ý hai tập thơ có mối liên hệ kề cận là tập thơ Từ ấy và tập thơ Gió lộng. - Các công trình, bài viết xung quanh giá trị tập thơ Việt Bắc và về thơ Tố Hữu nói chung. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu - Luận văn chỉ ra những giá trị nội dung và nghệ thuật của tập thơ Việt Bắc. - Khẳng định vị trí của tập thơ trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp so sánh- đối chiếu. - Phương pháp phân tích- tổng hợp. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn có cấu trúc gồm 3 chương: Chương 1: Việt Bắc trong nền thơ Việt Nam từ 1945->1954. Chương 2: Giá trị nội dung của tập thơ Việt Bắc. Chương 3: Giá trị nghệ thuật của tập thơ Việt Bắc. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 http://www.Lrc-tnu.edu.vn CHƢƠNG I "VIỆT BẮC" TRONG NỀN THƠ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 1.1. Tổng quan về thơ Việt Nam 1945 đến 1954 Cách mạng Tháng Tám năm 1945 chấm dứt ngót tám mươi năm nô lệ dưới ách chủ nghĩa thực dân Pháp, mở ra một kỷ nguyên mới- kỷ nguyên Độc lập Tự do cho dân tộc. Đồng thời giải phóng cho văn học thoát khỏi những quẩn quanh, bế tắc, chán chường, tuyệt vọng, đem lại một nguồn cảm hứng sáng tạo lớn lao cho thơ ca. Trước hết đó là nguồn cảm hứng giải phóng, hồi sinh. Trong bầu không khí những ngày đầu cách mạng, hầu hết các nhà thơ từ các xu hướng nghệ thuật khác nhau đã tập hợp dưới ngọn cờ cách mạng. Chưa nhiều ý thức nhưng lại rất nhiều cảm xúc, bằng sự nhạy cảm của người nghệ sĩ, các nhà thơ đã nhanh chóng nhận ra ý nghĩa lớn lao của thời điểm lịch sử đánh dấu sự hồi sinh dân tộc trong độc lập tự do. Cảm hứng nổi bật và bao trùm thơ ca thời kỳ này là niềm vui sướng, tự hào đến mức say mê, nồng nhiệt trước cuộc“ tái sinh mầu nhiệm”( chữ dùng của Hoài Thanh) của đất nước và con người Việt Nam. Nguồn sống của thời đại mới khơi dậy sức sáng tạo cho các nhà thơ. Với hai khúc tráng ca Ngọn quốc kỳ, Hội nghị non sông, Xuân Diệu đã mở ra chặng đường thơ cách mạng trong sự nghiệp sáng tác của mình. Với Tố Hữu, nhà thơ hàng đầu của nền thơ cách mạng, thì thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là một luồng gió lớn cuốn mạnh hồn thơ lên đỉnh cao của cảm hứng lãng mạn sôi trào. Hơn bất cứ nhà thơ nào khác, ở tác giả Từ ấy, đó là niềm vui lớn như được dồn tụ vào một điểm hẹn không gian và thời gian: Huế Tháng Tám (1945). Một năm sau, hòa trong dòng người cuồn cuộn của đêm hội hoa đăng giữa lòng Hà Nội chào đón một năm ngày độc lập, Tố Hữu lại tràn ngập một niềm Vui bất tuyệt (1946). Trần Mai Ninh cũng là một cây bút tài năng, giàu nhiệt huyết từ thời kỳ Mặt trận Dân chủ. Nhà thơ da diết những cảm xúc về Tổ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 http://www.Lrc-tnu.edu.vn quốc trong Tình sông núi, dữ dội trong Nhớ máu."Trần Mai Ninh người đón trước và làm kết đọng hai tình cảm lớn của dân tộc, cũng là người đi đầu và sớm nhất trong việc tự do hóa và làm mới câu thơ..."( Lưu Khánh Thơ ) Đứng trước sự đe dọa của thù trong giặc ngoài, nền thơ ca mới đã thể hiện rõ nhiệt tình yêu nước chiến đấu, cổ động toàn dân tham gia vào công cuộc dựng nước và giữ nước, đả kích các thế lực tay sai phản động đang điên cuồng tấn công chính quyền cách mạng. Nền thơ kháng chiến đã thực sự bắt đầu cùng với khí thế giết giặc cứu nước và phong trào Nam tiến sôi nổi ngay sau khi thực dân Pháp quay lại xâm lược Miền Nam. Theo lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, cả nước bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp. Trên chặng đường chín năm ấy, thơ ca đã góp phần tích cực vào công cuộc kháng chiến của dân tộc và xây dựng nên nền móng vững chắc và hết sức cơ bản cho sự phát triển của nền thơ ca hiện đại. Trong nền thơ ca kháng chiến, thơ Hồ Chủ tịch có vị trí và ý nghĩa tiêu biểu. Thơ Bác hướng tới mọi tầng lớp quần chúng nhân dân, khơi dậy sức mạnh của toàn thể dân tộc. Trong lời kêu gọi của vị lãnh tụ như đã vang vọng lời đáp của nhân dân. Những bài thơ trữ tình của Bác trong kháng chiến, kết thành chùm thơ đặc sắc, mở ra một thế giới phong phú, những xúc động tâm tình của vị lãnh tụ cách mạng, của nhà thơ trong một bối cảnh không gian và lịch sử rộng lớn: đất nước kháng chiến, thiên thiên đất nước hiện lên đẹp đẽ với những rung cảm trữ tình, nhưng trung tâm của khung cảnh vẫn là con người, là hình ảnh cuộc kháng chiến: một tiếng chuông báo tin thắng trận, đội quân du kích đánh giặc trở về, tin báo tiệp dập dồn chân ngựa...Thơ Bác là sự kết tinh cao nhất hiện thực kháng chiến, tinh thần kháng chiến. Cả dân tộc bước vào cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện suốt chín năm để giành lại và bảo vệ chủ quyền, độc lập của dân tộc. Cũng như mọi lĩnh vực hoạt động văn hóa tinh thần khác, thơ ca đã được huy động vào cuộc chiến đấu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 http://www.Lrc-tnu.edu.vn của nhân dân, trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam kháng chiến. Hoài Thanh nhận xét:" Con người kháng chiến lo lắng, hồi hộp, chờ đợi, hy vọng, phấn khởi, sống dồn trong một hai năm nhiều hơn những cuộc sống nhạt kéo dài trong hàng thế kỉ. Do đó thấy cần phải có thơ. Các nhà thơ làm thơ, anh cán bộ chính trị, anh thông tin, anh đội viên binh nhì, các chị phụ nữ, các em thiếu nhi, hết thẩy đều làm thơ. Hầu hết những con người mang ba lô lặng lẽ đi trên các nẻo đường kháng chiến, trong một cuốn sổ tay nào đó cũng có ít bài thơ, trong các buổi họp mặt, các buổi liên hoan... trên báo tay, báo tường, thơ có khi lại còn nhiều hơn văn xuôi và thơ cũng là phần được công chúng những tờ báo ấy đọc nhiều hơn cả. Trong cuộc chiến tranh nhân dân của chúng ta, tiếng súng, tiếng nhạc, tiếng thơ, cùng hòa điệu". Phong trào sáng tác thơ, ca dao, hò, vè của quần chúng phát triển sôi nổi và rộng khắp: Có thơ của từng giới, từng ngành; có thơ bộ đội, thơ dân công, thơ quân giới, thơ nông binh…; thơ kết thành từng mảng đề tài: thơ phát động, thơ trong chiến dịch sông Thao, thơ chiến dịch Điện Biên Phủ… Phong trào thơ quần chúng là cái nền vững chắc của thơ kháng chiến, là điểm tựa vạm vỡ nâng đỡ cho mọi tìm tòi của nhà thơ. Hướng đi của thơ kháng chiến là nhằm theo cái hướng sống chắc nịch được thể hiện giản dị và lành mạnh trong thơ ca quần chúng. Trong phong trào thơ ca quần chúng nổi bật lên vai trò thơ bộ đội, thơ “đội viên”, thơ của những người lính thực sự. Thơ trở thành một công cụ tự nhận thức, tự giáo dục, trở thành một hình thức tuyên truyền đầy sức mạnh, khi người đội viên, chiến sĩ, chủ yếu là những người lính nông dân ý thức được bản thân mình, cũng ý thức được quyền làm chủ của mình. Và trong sinh hoạt, thơ bộ đội đã diễn ra sự giao thoa và đan kết kỳ lạ giữa cuộc sống và văn thơ, giữa ý thức tự giác và bản năng sáng tạo hồn nhiên, giữa chức năng giáo dục và chức năng giải trí, giữa yêu cầu kháng chiến hóa văn hóa và yêu cầu văn hóa hóa kháng chiến mà Hồ Chủ tịch đã đúc kết thành phương châm. Trong những năm đầu của nền thơ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 http://www.Lrc-tnu.edu.vn ca dân chủ cộng hòa trẻ tuổi, thơ bộ đội, thơ của người lính là một phong trào thơ sôi nổi mạnh mẽ, đóng vai trò khai phá, xung kích của nền thơ kháng chiến. Phương châm dân tộc hoá, đại chúng hóa là xu hướng mà nhiều nhà thơ đã tìm đến ngay từ những năm đầu của cuộc kháng chiến và nó sớm trở thành khuynh hướng chủ đạo trong thơ ca giai đoạn này, đã thu hút nhiều cây bút thuộc nhiều thế hệ khác nhau. Thế hệ nhà thơ trước Cách mạng Tháng Tám cũng chuyển hẳn sang viết những bài thơ theo lối thơ đại chúng. Xuân Diệu có Bà cụ mù lòa, Tặng làng Còng và tập thơ Mẹ con được viết trong thời gian đi tham gia phát động quần chúng ở Thanh Hóa. Chế Lan Viên viết Bữa cơm thường trong bản nhỏ, Nhớ lấy để trả thù. Lưu Trọng Lư dựa trên các điệu dân ca hát giặm, để viết những bài O tiếp tế, Tiếng hát tăng gia, Ngò cải đơm hoa... Nguyễn Bính ở Nam Bộ có hai bài thơ dài Đồng Tháp Mười và Ông lão mài gươm. Tế Hanh kể chuyện Người đàn bà Ninh Thuận…Ở thế hệ nhà thơ này diễn ra bước ngoặt chuyển biến với rất nhiều dằn vặt đớn đau của một qúa trình “lột xác”. Mỗi nhà thơ đều gánh vác những công tác kháng chiến với tinh thần công dân tích cực. Những chuyến đi cùng dân công, cùng bộ đội, những đợt tham gia đấu tranh giảm tô và cải cách ruộng đất, phương châm “cách mạng hóa tư tưởng, quần chúng hóa sinh hoạt” được hưởng ứng một cách tự giác, đã từng bước làm chuyển biến tư tưởng và tình cảm nhà thơ, tuy nhanh chậm khác nhau. Nhìn chung, ở lớp nhà thơ này, quá trình nghiền ngẫm tìm tòi để đổi mới hồn thơ còn kéo dài trên suốt chặng hành trình kháng chiến, có người viết nhiều, viết khỏe nhưng chưa thật nhuần nhuyễn; có người viết còn cầu kỳ, rắc rối; có người viết rất ít, hoặc gần như im lặng. Điều nhận ra ở đây là thơ của họ đã đến với cuộc sống, phản ánh tâm tư nguyện vọng của quần chúng một cách chân thành. Tuy thành quả chưa nhiều, nhưng mỗi nhà thơ đều có những bài thơ có ý nghĩa đánh dấu sự chuyển biến của nhận thức, xúc cảm và bút pháp, góp phần vào thành tựu chung của thơ ca cách mạng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 http://www.Lrc-tnu.edu.vn Bộ phận các nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến sớm từng bước khẳng định sức sáng tạo của mình. Họ đã đến được với tiếng nói trữ tình của quần chúng và đóng góp cho thơ kháng chiến nhiều tác phẩm tiêu biểu. Hoàng Trung Thông với tập Quê hương chiến đấu, Trần Hữu Thung với Đồng tháng năm và Dặn con, Minh Huệ với bài Đêm nay Bác không ngủ, Hồng Nguyên với Nhớ, Hồ Vi với Lời quê... Các nhà thơ dân tộc thiểu số như Nông Quốc Chấn, Bàn tài Đoàn, và nhiều nhà thơ khác đã đem đến cho thơ kháng chiến tiếng thơ độc đáo, hồn nhiên, mang bản sắc riêng của mỗi dân tộc... Phần lớn trong số họ được rèn luyện và trưởng thành từ công tác kháng chiến, từ phong trào văn nghệ quần chúng. Thực tế lớn lao của kháng chiến, vẻ đẹp lớn lao của những con người đánh giặc là cảm hứng chủ đạo, thôi thúc họ cầm bút với những trang viết tràn đầy cảm xúc về tình đồng chí, đồng đội, lòng yêu quê hương, tinh thần chiến đấu, trách nhiệm công dân và lòng trung thành với Tổ quốc. Thơ kháng chiến tập trung biểu hiện những tình cảm cộng đồng và tinh thần công dân mà bao trùm là tình yêu nước, với những biểu hiện phong phú, thấm sâu vào mọi mặt trong đời sống của con người kháng chiến. Thế giới của cái"tôi" trở nên chật hẹp, thậm chí bị coi là lạc lõng, vô nghĩa khi nó không hòa nhập vào cái "ta" cộng đồng. Con người kháng chiến sống với những biến cố dữ dội, những sự kiện lịch sử, những rung động mạnh mẽ và mới lạ, họ chỉ thực sự tìm thấy sức mạnh, niềm vui và niềm tin tưởng ở trong đội ngũ đông đảo của tập thể, của giai cấp và dân tộc. Cách mạng không chỉ giải phóng cho đông đảo quần chúng nhân dân mà còn phải dựa hẳn vào lực lượng quần chúng, phát huy sức mạnh vĩ đại và tiềm năng cách mạng của quần chúng để thực hiện những sự nghiệp lớn. Quần chúng nhân dân, mà trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp chủ yếu là công nông binh, đã trở thành nhân vật chính yếu của lịch sử, do đó trở thành những nhân vật chủ chốt và tiêu biểu của nền văn học mới. Trong thơ kháng chiến, hình ảnh con Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 http://www.Lrc-tnu.edu.vn người quần chúng đã xuất hiện ngay từ buổi đầu và ngày càng đông đảo, đa dạng, chân thực. Làm biến đổi hẳn các dạng thức của cái "tôi" trữ tình và nhân vật trữ tình trong thơ lãng mạn trước đây. Cách mạng và kháng chiến đưa thơ trở về với hiện thực cuộc sống của đất nước và nhân dân. Giúp các nhà thơ tìm thấy chất thơ trong cuộc sống hàng ngày, trong sinh hoạt, lao động và đấu tranh của quần chúng. Con đường đi của phong trào thơ mới trước Cách mạng là con đường thoát ly thực tại, tìm đến cảnh tiên hay tìm về quá khứ vàng son và còn bao nhiêu những lối thoát ly khác nữa, trong tình và mộng, trong vũ trụ siêu hình, hoặc trong cái "tôi" cô đơn, cô độc. Nhà thơ của thời đại mới trước hết là một công dân, một cán bộ, hay chiến sĩ, sống với cuộc đời thực, với mọi gian khổ, buồn vui, lo lắng, hy vọng của con người kháng chiến, cùng với đông đảo mọi người. Đời sống như vậy đã tác động và làm biến đổi cách nhìn, cách nghĩ, điệu cảm xúc của người làm thơ. Các nhà thơ Việt Nam thời kỳ này tề tựu đông đủ trở thành một lực lượng mạnh, tràn đầy khí thế sôi nổi, đem hết tâm hồn và nghị lực của mình hòa chung vào dòng thác lớn thời đại, cố gắng nắm bắt hiện thực mới. Họ đã xây dựng nhiều hình ảnh đẹp về anh bộ đội, những người lính giản dị mà vô cùng anh dũng; về những người mẹ, người phụ nữ cần cù chịu khó và giàu lòng yêu thương; về những em bé gan dạ, quên mình vì kháng chiến; về lòng biết ơn sâu sắc với Chủ tịch Hồ Chí Minh; về những tên đất, tên làng, những trận đánh được phản ánh khá chi tiết; về những sự việc, chính sách, đường lối kháng chiến được thể hiện khá nhuần nhị, làm nên diện mạo mới cho nền thơ ca kháng chiến. Trong nền thơ kháng chiến, tập thơ Việt Bắc là thành công lớn nhất, tiêu biểu nhất." Chỉ có nhà thơ lớn mới có thể hiểu thấu chất thơ của thời đại mình vì chất thơ của mọi thời đại trước đó bao giờ cũng dễ hiểu hơn"( H. Hainơ). Tố Hữu là nhà thơ lớn trước hết theo ý nghĩa ấy. Vậy điều gì đã khiến nhà thơ có được sự thành công. Đó là: Ông tiếp thu truyền thống thơ ca dân gian, cổ điển của dân tộc, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 http://www.Lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan