LUẬN VĂN:
Đổi mới việc thực hiện chính sách đối
với nông dân ở tỉnh Đồng Tháp trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn xưa và nay luôn chiếm vị trí quan trọng, là
nguồn cơm áo của con người, là cái gốc của sự sinh tồn, là nền tảng của phát triển kinh tế xã hội. C.Mác đã từng nhấn mạnh sản xuất nông nghiệp là “ nền tảng của mọi xã hội”, “là
tiền đề đầu tiên của lịch sử”. Vị trí quan trọng của “tam nông” được quyết định bởi địa vị
của giai cấp nông dân trong cách mạng giành chính quyền, xây dựng chủ nghĩa xã hội và
địa vị của nông nghiệp đối với an ninh lương thực của quốc gia, sự ổn định xã hội nông
thôn và sự phát triển bền vững nền kinh tế quốc dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: nước ta là một nước nông nghiệp. Muốn phát
triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung, phải lấy phát triển nông nghiệp làm gốc,
làm chính. Theo tinh thần đó, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản
Việt Nam luôn coi trọng phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và đề ra
chính sách đúng đắn nhằm cải thiện và nâng cao đời sống nông dân. Vấn đề “tam nông”
luôn được Đảng ta xác định là vấn đề có tính chiến lược và căn bản, liên quan đến sự
nghiệp của Đảng và nhân dân: nông nghiệp đồi dào thì nền tảng vững mạnh, nông dân
giàu thì nước thịnh, nông thôn ổn định thì cả xã hội yên. Chính vì vậy, khi bàn về “Tam
nông” trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta chỉ rõ:
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, là cơ sở và lực
lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững , giữ vững ổn định
chính trị, đảm bảo an ninh quốc phòng; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước [7, tr.1].
Ở Việt Nam hiện nay, vấn đề “tam nông” phải được giải quyết đồng bộ gắn với
quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong đó công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn được Đảng xác định là con đường duy nhất để đưa
đất nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo nàn và lạc hậu; là yếu tố cơ bản trực tiếp góp phần
đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế- xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, đưa nông thôn
nước ta phát triển lên trình độ mới, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Đảng ta đã
đề xướng: Phấn đấu đến năm 2020, về cơ bản Việt Nam trở thành một nước công nghiệp.
Tuy nhiên, cùng với bước chuyển từ nên kinh tế truyền thống sang hiện đại, từ mô
hình kinh tế vật chất, kế hoạch hóa tập trung với co chế hành chính quan liêu bao cấp sang
mô hình kinh tế hàng hóa với cơ chế thị trường, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn, bên cạnh những mặt tích cực về phát triển kinh tế - xã hội, nó tác
động sâu s8a1c đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp
về chính trị- xã hội.
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thức 7 (khóa X) họp từ ngày 9 đến
17/7/2008 đã ban hành Nghị quyết số NQ26-NQ/TU “về nông nghiệp, nông dân, nông
thôn” đã nhấn mạnh:
Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được thành tựu khá toàn diện
và to lớn … bộ mặt nhiều vùng nông thôn thay đổi. Đời sống vật chất và tinh
thần của dân cư ở hầu hết các vùng nông thôn ngày càng được cải thiện. Xóa
đói giảm nghèo đạt kết quả to lớn. Hệ thống chính trị ở nông thôn được cũng cố
và tăng cường. Dân chủ sơ sở được phát huy. An ninh chính trị, trật tự, an toàn
xã hội được giữ vững … [7, tr.1]
Tuy nhiên, Đảng ta cũng chỉ rõ:
… những thành tựu đạt được chưa xứng với tiềm năng, lợi thế và chưa
đồng đều giữa các vùng. Nông nghiệp phát triển còn kém bền vững, tốc độ tăng
trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt nguồn lực
phát triển sản xuất; nghiên cứu, chuyển giao khoa học và công nghệ và đào tạo
nguồn nhân lực còn hạn chế. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cách
thức sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ, phân
tán; năng suất, chất lượng, giá trị tăng nhiều mặt thấp [7, tr.1].
Đồng Tháp là một tỉnh thuần nông trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đạt được những thành quả nhất
định. Tuy nhiên, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, cơ sở hạ tầng nông thôn như điện,
đường, thủy lợi … phục vụ cho nông nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu của một nền sản
xuất hàng hóa lớn. Quan hệ sản xuất chậm đổi mới, còn nhiều lúng túng dẫn đến trì trệ,
hoạt động của các tổ chức kinh tế đạt thấp. Công việc xóa đói giảm nghèo của tỉnh được
chú trọng nhưng thiếu một chính sách cụ thể và hoàn chỉnh nên chưa kích thích nông dân
xoá nghèo.
Muốn thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn phát triển
đòi hỏi phải cần phải đổi mới hệ thống chính sách đối với nông dân để phát huy vai trò
chủ thể, động lực thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển. Hơn thế, việc đổi mới chính
sách đối với nông dân trong thời gian tới là nhằm nâng cao đời sống nhân dân lao động nói
chung và của nông dân tỉnh Đồng Tháp nói riêng góp phần thực hiện mục tiêu của Đảng ta
đề ra là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh .
Vì vậy, tôi chọn đề tài “Đổi mới việc thực hiện chính sách đối với nông dân ở
tỉnh Đồng Tháp trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá” Chính sách chuyển dịch cơ
cấu nông nghiệp kinh tế nông thôn; chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và chính
sách tạo việc làm phát triển nguồn nhân lực nông thôn làm luận văn tốt nghiệp chương
trình đào tạo cao học, chuyên ngành CNXHKH.
2- Tình hình nghiên cứu đề tài:
Thực hiện đường lối đổi mới đất nước, Đảng ta đã từng bước cụ thể hóa nội dung
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, xác định chủ trương, chính sách
nhằm thúc đẩy phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, tạo bước chuyển biến căn bản
trong khu vực này, đem lại cho nông thôn một diện mạo mới. Tuy nhiên, trong quá trình
đó đã làm nảy sinh nhiều vấn đề chính trị- xã hội đặt ra cho nông nghiệp, nông dân và
nông thôn hiện nay.
Ngoài những Nghị quyết, Chỉ thị, chính sách … của Đảng và Nhà nước về công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn nói riêng ( tiêu biểu là Nghị quyết 10 của Bộ Chí trị về khoán trong nông
nghiệp, đặc biệt là NQ số 26-NQ/TU ngày 17/7/2008 về về nông nghiệp, nông dân, nông
thôn), trong những năm qua nhiều vấn đề liên quan đến nội dung đề tài đã được quan tâm
khá nhiều khía cạnh, cấp độ khác nhàu. Đã có nhiều công trình, bài viết tập trung về những
vấn đề liên quan tới đề tài
- Nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại
hoá.Nxb.CTQG, H.1997 của Trung tâm tư vấn đầu tư hổ trợ phát triển nông nghiệp, nông
thôn (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) đã tập trung đánh giá thành tựu và những
vấn đề đặt ra khi nông thôn chuyển sang giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá như về
cơ cấu kinh tế chưa hợp lý, cơ cấu dân số nông thôn- thành thị chưa có sự thay đổi đáng
kể, lao động nông thôn co xu hướng dư thừa quá lớn… Từ đó, các tác giả đề xuất chiến
lược phát triển nông nghiệp Việt Nam theo hường hiện đại.
- Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Nxb.CTQG,
H.,2004, PGS.TS. Chu Hữu Quý và PGS.TS. Nguyễn Kế Tuấn (đồng chủ biên). Trong đó,
các tác giả quan tâm nhiều đến lý luận và quan điểm công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn và con đường của nó. Bên cạnh đó, các tác giả đã đánh giá khái quát
thực trạng nông nghiệp, nông thôn nước ta khi bước vào con đường công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Không chỉ dừng lại ở đây, các tác giả còn đề xuất một số
định hướng, mục tiêu, giải pháp, chính sách cụ thể, trong đó nhấn mạnh đến giải pháp kinh
tế.
- Vai trò của nông nghiệp, nông thôn thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá của
tác giả Nguyễn Thanh Bình (Thông tin tư liệu chuyên đề, Học viện CTQG Hồ Chí Minh,
2003) đã nhấn mạnh nông nghiệp là một bộ phận hợp thành của nền kinh tế quốc dân. Nó
giữ vị trí quan trọng và có ảnh hưởng rất lờn và trực tiếp đến phát triển kinh tế, ổn định
chính trị và tiến bộ đất nước, góp phần giải quyết vấn đề an toàn lương thực quốc gia.
Nông nghiệp, nông thôn là địa bàn quan trọng bảo vệ môi trường sinh thái, một trong 3
vốn quan trọng của nhân loại. Do vậy, phát triển nông nghiệp, nông thôn là một trong
những nhiệm vụ của Đảng Cộng sản Việt Nam trong chiến lược ổn định và phát triển kinh
tế- xã hội; đồng thời cũng là yếu tố cơ bản để đảm bảo ổn định chính trị trong nước. Ở đây
tác giả nhấn mạnh muốn công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn phải tập
trung chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát triển sức sản xuất, xóa đói
giảm nghèo, giải quyết việc làm, phân công lại lao động trong nông nghiệp, nông thôn.
- Xây dựng hạ tầng cơ sở nông thôn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
ở Việt Nam, của PGS.TS Đỗ Hoài Nam và TS Lê Cao Đàm (đồng chủ biên), Nxb, KHXH,
H.2001. Các tác giả d94 làm rõ tầm quan trọng của hạ tầng cơ sở đối với phát triển kinh tếxã hội ở nông thôn, phân tích thực trạng của hạ tầng cơ sở nông thôn nước ta hiện nay và
sự tác động của nó tới phát triển kinh tế, xã hội. Nhiều vấn đề bê bối, bức xúc, nóng bỏng
trong nông thôn do việc phát triển hạ tầng cơ sở ảnh hưởng tới an ninh nông thôn được
trình bày khá rõ nét. Tiêu biểu như việc thực hiện các công trình điện, đường trường, trạm
ở nông thôn Thái Bình, Bên cạnh những thành quả đem lại cho nông thôn, là những tiêu
cực, bức xúc nảy sinh. Từ đó các tác giả đi tìm câu trả lời cho các vấn đề: làm thế nào để
phát triển hạ tầng nông thôn thích ứng với yêu cầu phát triển của nông nghiệp và nông
thôn trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
và hội nhập kinh tế vào tiến trình phát triển hiện đại của thế giới
- Chính sách nông nghiệp, nông thôn Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX và một số định
hướng. Nxb.CTQG, H.,2002, tác giả Trần Ngọc Bút đã tập trung làm rõ các chính sách
phát triển nông nghiệp ớ nước ta trong các giai đoạn trước cách mạng Tháng Tám, trong
những năm đầu cải cách ruộng đất và thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới, trong đó có đi
sâu phân tích những chính sách nông nghiệp, nông thôn từ năm 1986 đến nay. Công trình
cũng đã đề cập đến một số vấn đề bức xúc cần quan tâm đối với nông thôn, nông thôn,
nhất là nông dân trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đề xuất một số chính sách
phát triển nông nghiệp, nông thôn; định hướng các lĩnh vực ưu tiên, các vùng của cả nước,
đặc biệt kiến nghị về chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn, đối với nông dân thời
kỳ 2010
- “Việc làm ở nông thôn- Thực trạng và giải pháp”, Nxb, Nông nghiệp,H.,2001,
tác giả Chu Tiến Quang (chủ biên) đã làm rõ thực trạng, lao động và việc làm ở nông thôn
nước ta và đề xuất những giải pháp tạo cơ hội cho lao động nông thôn có thể tiếp cận đến
việc làm. Tác giả phân tích mặt mạnh, yếu của lao động ở nông thôn về trình độ học vấn,
tay nghề, kỹ năng lao động, văn hóa lao động… và chỉ nguyên nhân của tình trạng trên là
do nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, tâm lý sản xuất nhỏ, điều kiện giáo dục về học vấn,
nghề nghiệp, ý thức lao động… ở nông thôn rất hạn chế. Những hạn chế này chính là cản
trở người lao động tiếp cận với việc làm đòi hỏi phải có tay nghề, có ý thức trách nhiệm
cao hiện nay. Để người lao động ở nông thôn có việc làm đảm bảo thu nhập, tác giả nhấn
mạnh đến công tác giáo dục học vấn, dạy nghề và mở rộng sản xuất, kinh doanh …, coi đó
là nhiệm vụ hàng đầu ở nông thôn hiện nay.
- 55 năm nông nghiệp, nông thôn Việt Nam của PGS.TS Nguyễn Sinh Cúc. Nxb
Nông nghiệp, H.2001. Tác giả đã làm rõ thành tựu nổi bật và to lớn của nông nghiệp trong
55 năm qua, đặc biệt là trong 15 năm đổi mới đã giải quyết vững chắc vấn đề lương thực,
đảm bảo an ninh lương thực quốc gia biến Việt Nam từ một nước thiếu ăn triền miên thành
nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Sản xuất công nghiệp ở nông thôn đang khởi sắc, các
hoạt động kinh tế nông thôn có hướng đi mới, góp phần xóa đói giảm nghèo với tốc độ
nhanh nhất so với các nước trong khu vực và vượt xa dự kiến. Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ
ra, nông nghiệp, nông thôn đang làm khó khăn cần phải nỗ lực giải quyết về thu nhập, việc
làm và môi trường sống, song chưa bao giờ nông nghiệp, nông thôn và đời sống nông dân
lại đạt được nhiều thành tựu khởi sắc như những năm cuối thế kỷ XX. Những thành tựu
này đã tạo ta thế và lực mới để nông nghiệp, nông thôn Việt Nam cất cánh vào thiên niên
kỷ mới.
Tuy vậy, cho đến nay chua có công trình nghiên cứu một cách cụ thể về chính
sách đối với nông nghiệp,nông dân và nông thôn ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long nói
chung và tỉnh thuần nông như Đồng Tháp.
Đứng trước thực tiễn địa phương, Đồng Tháp yêu cầu cần có sự hổ trợ tích cực,
mạnh mẽ của chính sách Nhà nước đối với nông dân để phát triển nông nghiệp đáp ứng
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Việc yêu cầu “Đổi mới việc thực hiện chính
sách đối với nông dân ở tỉnh Đồng Tháp trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá”
được đặt ra là cần thiết. Giải quyết tất yếu yêu cầu này sẽ góp phần triển khai có hiệu quả
Nghị quyết Trung ương lần thứ 7 của Đảng ( khoá X) và kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội
đến năm 2010 của Đảng và Nhà nước ta trên địa bàn một tỉnh như Đồng Tháp.
3- Mục đích và nhiệm vụ của đề tài.
3.1- Mục đích của đề tài nhằm.
Trên cơ sở làm rõ tầm quan trọng của chính sách đồi với nông dân trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và thực trạng của việc thực hiện chính sách đồi với nông
dân ở tỉnh Đồng Tháp, từ đó đề xuất một số quan điểm, giải pháp cần đổi mới việc thực
hiện chính sách đối với nông dân ở tỉnh Đồng Tháp trong thời kỳ CNH,HĐH hiện nay.
3.2- Nhiệm vụ của đề tài
- Làm rõ tầm quan trọng việc thực hiện chính sách và đổi mới việc thực hiện chính
sách đối với nông dân ở tỉnh Đồng Tháp trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
hiện nay
- Phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra trong việc thực hiện chính sách đối
với nông dân tỉnh Đồng Tháp trong quá trình trong thời gian tới.
- Đề xuất những quan điểm, giải pháp đổi mới việc thực hiện chính sách đối với nông
dân Đồng Tháp trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
4- Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung nghiên cứu để làm rõ việc thực hiện chính sách đối với nông
dân ở Đồng Tháp trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Đặc biệt tập trung làm rõ việc đổi mới thực hiện chính sách đối với nông dân trên
một số chính sách sau: Chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn;
chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và chính sách tạo việc làm phát triển nguồn
nhân lực nông thôn.
5- Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
5.1- Cơ sở lý luận và thực tiễn
Cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng ta về việc hoạch định chính sách đối với nông dân, nông nghiệp và nông thôn ở nước
ta hiện nay.
Cơ sở thực tiễn là kết quả khảo sát tình hình thực hiện chính sách đối với nông
dân, nông nghiệp và nông ở tỉnh Đồng Tháp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử phân tích, khảo sát, so sánh, tông hợp, thống kê.
Kế thừa có chọn lọc các thành tựu nghiên cứu có liên quan đến luận văn.
6- Những đóng góp về mặt lý luận, thực tiễn và đóng góp mới của luận văn
Về mặt lý luận: Luận văn góp phần vào việc nghiên cứu tình hình thực hiện chính
sách đối với nông dân trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay.
Về mặt thực tiễn: Từ những đánh giá tình hình thực hiện chính sách đối với nông
dân, nông nghiệp và nông thôn của tỉnh
- Từ đó đưa ra những giải pháp nhằm đổi những chính sách của tỉnh đối với nông
dân trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
7- Ý nghĩa thực tiễn và khả năng sử dụng của luận án
- Kết quả của luận văn góp phàn tạo cơ sở khoa học để các cấp lãnh đạo,
quản lý ở tỉnh Đồng Tháp tham khảo, vận dụng trong việc hoạch định chính sách đối
với nông dân trên địa bàn toàn tỉnh.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ giảng dạy, nghiên
cứu về nông dân, nông nghiệp và nông thôn ở các trường Chính trị tỉnh, thành phố.
8- Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Luận văn gồm
3 chương và 9 tiết.
CHƯƠNG 1
VỊ TRÍ CỦA NÔNG DÂN VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA CHÍNH SÁCH
ĐỐI VỚI NÔNG DÂN TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ.
1.1. Vị trí của nông dân, nông nghiệp, nông thôn trong sự phát triển xã hội.
1.2.1. Vị trí của nông dân trong sự phát triển xã hội.
“Nông dân là một giai cấp xã hội đặc biệt; giai cấp nông dân hình thành trong
quá trình tan rã của chế độ công xã nguyên thuỷ và quá trình phát triển của chế độ tư hữu
về tư liệu sản xuất và tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất” [15, tr.227].
Giai cấp nông dân là một lực lượng lao động chiếm đa số trong xã hội. Mặt khác
trong lịch sử phát triển xã hội loài người, nông nghiệp luôn là loại hình hoạt động sản xuất
hàng đầu đảm bảo sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Do vậy, giai cấp nông dân
có vai trò hết sức quan trọng trong lịch sử, nông dân là “nhân tố rất cơ bản trong dân cư,
của nền sản xuất và của lực lượng chính trị” [14, tr.715]. Quan điểm của những nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác- Lênin xác định ví trí, vai trò của giai cấp nông dân dựa trên chế
độ tư hữu của họ, vì thế: tính tư hữu nhỏ và sản xuất nhỏ là đặc điểm kinh tế cơ bản của
người nông dân. Nông dân là những chủ sở hữu nhỏ về đất đai, nông cụ và do đó có kinh
tế độc lập, Ph.Ăngghen khẳng định: “Tư liệu sản xuất thích hợp với sử dụng cá nhân, vì
thế dĩ nhiên là có tính thô sơ, nhỏ nhặt, có tác dụng rất hạn chế. Sản xuất là cho tiêu dùng
trực tiếp của chính người sản xuất, hoặc của bọn lãnh chúa phong kiến của họ” [13, tr.33].
- Giai cấp nông dân có tinh thần yêu nước đấu tranh chống lại giai cấp thống trị
khi họ bị áp bức, bóc lột. Nhưng do bản chất là sở hữu nhỏ, nên trong cách mạng chống
phong kiến, vô sản người nông dân dân có tính hai mặt. Do bản chất tư hữu, người nông
dân có thể thỏa hiệp với giai cấp địa chủ và tư sản để giữ lấy tài sản nhỏ bé của mình. Mặt
khác, với tính chất là người lao động bị bóc lột, người nông dân có khả năng đi theo giai
cấp vô sản làm cách mạng để giải phóng mình khỏi cách áp bức. bóc lột.
Tính hai mặt của nông dân được C.Mác phân tích rõ qua cuộc đấu tranh giai cấp ở
Pháp năm 1848-1850. Sau này được V.I.Lênin tiếp tục làm rõ trong quá trình cách mạng
xã hội chủ nghĩa.
Nói đến nông dân là nói đến bộ phận dân cư sống ở nông thôn, sản xuất ra những
sản phẩm nông nghiệp. Họ là tầng lớp chiếm đa số trong xã hội, có điều kiện sinh hoạt
giống nhau nhưng không ràng buộc với nhau vì phương thức sản xuất của họ rất phân tán.
Mặc dù tính cơ động xã hội của nông dân ngày càng cao (số người từ nông dân chuyển
sang các thành phần xã hội khác như công nhân, buôn bán … chiếm tỷ lệ ngày càng lớn,
trước hết là trong lớp nông dân trẻ tuổi) nhưng nông dân vẫn chiếm đại da số trong dân cư
ở những nước đang phát triển [24, tr.192-193]. Trong sản xuất, người nông dân thường
liên hệ với tự nhiên nhiều hơn với xã hội. Mỗi gia đình nông dân được xem là một đơn vị
kinh tế gần như độc lập, bởi họ sản xuất tự túc gần như hoàn toàn những nhu cầu thiết yếu
của cuộc sống.
Người nông dân xem sở hữu về đất đai là cơ sở sinh ra mọi của cải vật chất. Do
đó, mảnh ruộng được sở hữu là “tổ quốc”, là bầu trời riêng của nông dân. Một đặc điểm
làm cho giai cấp nông dân khác với giai cấp vô sản là ở chỗ họ có tư liệu sản xuất dù rất
nhỏ. Chính một ít tư liệu sản xuất riêng đó đã chi phối nặng nề tư tưởng, tâm lý của người
nông dân. Mọi hoạt động, lợi ích, suy nghĩ của người nông dân đều diễn ra trong ranh giới
đó. Điều đó, làm cho người nông dân sống bảo thủ, cục bộ địa phương.
Bản chất xã hội và địa vị của nông dân trong xã hội là do phương thức sản xuất
thống trị quy định và được thay đổi cùng với sự thay đổi của hình thái kinh tế - xã hội và
của các giai đoạn phát triển của nó, vì thế giai cấp nông dân chưa bao giờ trở thành giai
cấp lãnh đạo trong xã hội.
Trong điều kiện chủ nghĩa xã hội phát triển, bản chất xã hội của giai cấp nông dân
cũng thay đổi về căn bản. Giai cấp nông dân đã trở thành một giai cấp mới. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản, họ đang tham gia tích cực vào quá trình giải phóng xã hội và giải
phóng chính mình thoát khỏi sự bóc lột và nghèo đói. Tiến bộ khoa học-kỹ thuật đã làm
cho nội dung lao động của nông dân có những thay đổi đáng kể: lao động của nông dân
dần dần trở thành một dạng của lao động công nghiệp, chế độ dân chủ được củng cố và
phát triển, tính tích cực chính trị - xã hội của những người lao động nông nghiệp được tăng
lên. Việc xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội đang tạo ra những khả
năng kinh tế để khắc phục những khác biệt về xã hội giữa giai cấp nông dân và công nhân,
giữa nông thôn và thành thị, giữa những người lao động chân tay và những người lao động
trí óc.
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở lực lượng quan
trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm
bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ
môi trường sinh thái của đất nước [7, tr.2].
Ngày nay, trong xu thế công nghiệp hóa và đô thị hóa, nông dân bị thu hẹp dần về
số lượng (tương đối cũng như tuyệt đối). Có những nước trên thế giới về căn bản nông dân
không còn nữa, hoặc nông dân (chủ trang trại) chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong dân cư (510%). Nhưng ở các nước đang phát triển, do tỷ lệ dân số cao, trình độ công nghiệp hóa và
đô thị hóa còn thấp, nên nông dân không giảm đi mà còn tăng về số lượng.
Vận dụng quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, Hồ
Chí Minh sớm nhận thấy giai cấp nông dân có vai trò quan trọng trong cách mạng nước ta.
Mặc dù vậy nhưng Hồ Chí Minh nhìn thấy ở giai cấp nông dân Việt Nam một sức mạnh
tiềm ẩn, mặc dù bị áp bức nhưng giai cấp nông dân không phải chỉ có chịu đựng, mà họ
còn nung nấu một tinh thần phản kháng mạnh mẽ. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đằng sau sự
phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ
bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến” [16, tr.28].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định: nông dân là lực lượng cách mạng to lớn, một
người bạn đồng minh tự nhiên, tin cậy, trung thành của giai cấp công nhân. Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định: “ Nông dân là một lực lượng rất to lớn của dân tộc, một đồng minh
rất trung thành của giai cấp công nhân” [17, tr.266], người nông dân muốn được giải
phóng thì phải được tổ chức và tổ chức của giai cấp vô sản.
Khi đề cập đến vấn đề nông thôn trong mối quan hệ với nông nghiệp và nông dân.
Hồ Chí Minh nêu: “ Làm thế nào để thật sự đoàn kết nông thôn?, làm thế nào để giải quyết
hợp tình, hợp lý vấn đề tinh thần và vấn đề vật chất cho mọi người, và mọi tầng lớp trong
thôn xã” [18, tr.255]. Người luôn theo dõi những biến động trong nông thôn và xem vấn
đề nông dân, nông thôn có ý nghĩa chính trị to lớn trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và
dân tộc ta.
Với cách nhìn đúng đắn đó, Hồ Chí Minh thấy rõ sức mạnh thật sự của giai cấp
nông dân Việt Nam. Hồ Chí Minh luôn nhìn thấy đậm nét hơn tính lao động của giai cấp
nông dân Việt Nam hơn.
Tóm lại, các nhà tư tưởng Mác-xít khi nói đến người nông dân dù ở phương Đông
hay phương Tây, từ thời cận đại hay hiện đại cũng đều khẳng định rằng chính điều kiện
sản xuất và điều kiện sinh sống là những nhân tố tạo ra đặc điểm điển hình của giai cấp
nông dân. Đồng thời những nhà tư tưởng Mác-xít cũng chỉ ra rằng giai cấp nông dân có
vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển của xã hội loài người. Tuy nhiên, ở mỗi quốc
gia, trong những thời điểm khác nhau giai cấp nông dân ở đó có vai trò lịch sử và nét đặc
thù riêng.
Nông dân là chủ thể để phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Đối
với nước tà từ một nước nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của quốc gia, trong
quá trình chuyển đổi từ một nước nông nghiệp để trở thành một nước công nghiệp phát
triển, Đảng ta đã chủ trương thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông
thôn thì nông dân có vai trò quan trọng thúc đẩy quá trình xây dựng nông thôn mới. Nông
nghiệp, nông thôn cũng chính là mục đích cần đạt tới trong giai đoạn hiện nay.
1.2.2. Vị trí của nông nghiệp, nông thôn trong sự phát triển xã hội.
Phát triển kinh tế- xã hội nông thôn chiếm một vị trí quan trọng trong sự nghiệp
phát triển kinh tế- xã hội của một quốc gia, bởi đây là lĩnh vực sản xuất ra những sản phẩm
thiết yếu nuôi sống con người. Mặt khác, đây là lĩnh vực của đới sống kinh tế- xã hội bao
gồm một tổng hợp ngành, với môi trường gồm nhiều hoạt động kinh tế- xã hội diễn ra.
Trước đây, vị trí đó chưa được nhận thức một cách đầy đủ, thậm chí một số nước trong
quá trình phát triển kinh tế còn phạm phải sai lầm không quan tâm đến nông nghiệp, nông
thôn gây nên hậu quả to lớn cả về kinh tế- xã hội, cả về môi trường và nhân văn. Nhưng
những năm cuối thế kỷ XX, ở hầu hết các nước, sự phát triển nông nghiệp, nông thôn ngày
càng được chú trọng hơn và trở thành một trong những chiến lược phát triển của mỗi quốc
gia. Phát triển nông nghiệp, nông thôn được khẳng định là điều kiện quan trọng để đẩy
nhanh nhịp độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Thực tế hiện nay cho thấy, qua xem xét
nước trên thế giới có trên 50 nước đang thiếu lương thực. Tình trạng nghèo đói, nạn suy
dinh dưỡng đang là vấn đề mang tính toàn cầu, là mối quan tâm của nhiều nước, nhiều tổ
chức quốc tế và nhiều vùng. Những nước có nền nông nghiệp, kinh tế nông thôn phát triển
vững chắc đã đạt được những bước phát triển ổn định về kinh tế.
Trong thời đại ngày nay, cùng với sự ra đời của thị trường hiện đại, nông nghiệp
không những cung cấp lương thực, thực phẩm tối cần thiết cho đời sống con người, cung
cấp nguyên liệu cho công nghiệp, mà còn là thị trường tiêu thụ rộng lớn của công nghiệp
và các ngành khác. Đồng thời nó liên quan trực tiếp đến vấn đề môi trường, vấn đề bảo vệ
tài nguyên đất đai, rừng, nguồn nước, biển …
Phát triển nông thôn là tạo nên những nỗ lực nhằm nâng cao năng lực sản xuất, thu
nhập nâng cao mức sống vật chất và tinh thần của người dân sống ở nông thôn, tạo điều
kiện quan trọng phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
Nước ta, một nước nông nghiệp, các ngành kinh tế nông thôn chiếm tỷ trọng lớn
trong GDP cho nên nông nghiệp, nông thôn càng có vị trí quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí
Minh thường ví công nghiệp và nông nghiệp như hai chân của nền kinh tế, hai chân đi
khỏe và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến đích. Tầm quan trọng đó
được biểu hiện cụ thể ở những điểm sau đây:
Một là, nông nghiệp, nông thôn sản xuất ra những nông sản thiết yếu: lương thực
và thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp và cung cấp nông sản xuất khẩu. Hiện nay,
kinh tế nông thôn chiếm hơn 40% GDP và hơn 40% kim ngạch xuất khẩu
Những năm qua, thành tựu nổi bậc nhất của nông nghiệp, nông thôn nước ta là sản
xuất lương thực thực phẩm. Về cơ bản đã giải quyết được lương thực, bảo đảm an toàn
lương thực quốc gia. Khối lượng lương thực xuất khẩu có chiều hướng tăng lên thứ 2 thế
giới (2007). Nhờ đó đời sống dân cư ổn định, tạo cơ sở chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp,
kinh tế nông thôn và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Đây cũng là điều kiện then chốt, là tiền
đề để đất nước ổn định về mặt xã hội và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Hai là, nông nghiệp, nông thôn cung cấp lao động cho các ngành kinh tế quốc dân.
Hiện nay hơn 56% lao động xã hội ở lĩnh vực nông thôn và chủ yếu trong nông nghiệp.
Việc nâng cao trình độ văn hóa, khoa học- kỹ thuật cho lực lượng lao động ở nông thôn và
cùng với quá trình đầu tư để đổi mới trang thiết bị và công cụ lao động, tổ chức hợp lý quá
trình lao động là điều kiện cơ bản để tăng năng suất lao động trong nông nghiệp và các
ngành sản xuất khác trong nông thôn. Trên cơ sở đó cho phép nông nghiệp cung cấp cho
các ngành khác nông sản, nguyên vật liệu chế biến …, thực hiện sự phân công lao động xã
hội trong nông thôn cũng như trong cả nước, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
và cơ cấu kinh tế của cả nước hợp lý và có hiệu quả.
Ba là, phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn tạo ra thu nhập một bộ phận
dân cư ngày càng tăng, sức mua tăng và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm xã hội, làm
cho hoạt động ở nông thôn trở nên sôi động hơn, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
Sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp, nông thôn kéo theo các ngành khác như cơ
khí, hóa chất, điện, chế biến … có thị trường nội địa và các ngành dịch vụ tiêu thụ hàng
hóa, cung ứng vật tư, kỹ thuật, dịch vụ tài chính … trong khu vực nông thôn hình thành và
phát triển. Các quan hệ trao đổi giữa khu vực, các ngành và thành phần kinh tế trong nông
thôn tao ra không khí sôi động của thị trường nông thôn rộng lớn, thúc đẩy nền kinh tế
quốc dân phát triển.
Bốn là, phát triển nông thôn có ý nghĩa to lớn trong việc bảo vệ và sử dụng tài
nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường sinh thái. Nông thôn bao gồm một khu vực rộng
lớn. Ở đây, các tài nguyên của quốc gia chiếm tuyệt đại bộ phận như đất đai, khoáng sản,
động thực vật, rừng, biển, nguồn nước… Phát triển nông nghiệp, nông thôn cho phép sử
dụng hợp lý các tài nguyên thiên nhiên, đồng thời bảo vệ chúng trong quá trình sử dụng.
Năm là, phát triển nông nghiệp, nông thôn là cơ sở quan trọng để bảo đảm ổn định
chính trị, xã hội, phát triển kinh tế bền vững, củng cố và tăng cường quốc phòng, an ninh.
Lịch sử thế giới đã chứng minh rằng trong quá trình vươn lên chưa có một quốc
gia nào đi bằng con đường nông nghiệp mà lại trở thành một quốc gia phát triển mạnh
Hiện nay, nền kinh tế nước ta vẫn mang nặng tính chất nông nghiệp, phát triển chậm so
với một số nước trong khu vực. Vì thế, để thoát khỏi tình trạng nước nghèo, chậm phát
triển, tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới, chúng ta
không có con đường nào khác ngoài việc tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn như Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII Đảng Cộng sản
Việt Nam tháng 01 năm 1994 đã xác định đưa đất nước chuyển dần sang một thời kỳ phát
triển mới, thời kỳ đẩy tới một bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [3, tr.22].
1.2. Chính sách đối vối nông dân
1.1.1.Về chính sách và đổi mới chính sách
1.1.1.1- Về chính sách
Muốn đảm bảo sự hợp lý trong việc xây dựng và thực thi chính sách có hiệu quả
cần coi trọng và tăng cường việc nghiên cứu hệ thống lý luận chính sách.
Thuật ngữ “chính sách” được sử dụng rộng rãi, trên các phương tiện thông tin đại
chúng và trong đời sống xã hội. Hiểu một cách giản đơn, chính sách là chương trình hành
động do các nhà lãnh đạo hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc
phạm vi thẩm quyền của mình.
Theo James Anderson cho rằng chính sách là một quá trình hành động có mục
đích được theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề mà họ
quan tâm. Chính sách, sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt được một mục đích nhất
định, đưa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế. Chính sách được thực hiện
trong một thời gian nhất định.
Từ điển bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm về chính sách như sau: “Chính
sách là những chuẩn tác cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực
hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung
và phương hướng của chính sách tuỳ thuộc tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị,
kinh tế, văn hóa ….” [21, tr.475].
Định nghĩa này không làm rõ được thực chất của chính sách, chỉ đưa ra một cách
hiểu chung chung là những chuẩn tác (chuẩn tác là gì?) để thực hiện đường lối, nhiệm vụ
(đường lối, nhiệm vụ nào, của ai?) trong một thời gian nhất định và trên những lĩnh vực cụ
thể. Định nghĩa như vậy không chỉ nói về chính sách, mà còn hiểu là bất kỳ một kế hoạch,
một hoạt động nào đó.
Tiến sỹ Nguyễn Hữu Đổng và Lê Minh Quân định nghĩa:
“Chính sách với nghĩa rộng (nghĩa chung nhất) là tổng thể các quan điểm, các
biện pháp mà chủ thể lãnh đạo quản lý (Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội)
tác động lên đối tượng quản lý nhằm đạt đến một mục tiêu nào đó trong một khoảng thời
gian nhất định”.
“Còn Chính sách theo nghĩa hẹp, là một quy định cụ thể nào đó nhằm thực hiện
đường lối, nhiệm vụ trong một thời gian nhất định” [22, tr.9].
Chính sách là một bộ phận của khoa học chính trị. Khoa học chính sách ở nước ta
cũng như các nước khác không nghiên cứu chính sách nói chung mà tập trung chủ yếu vào
nghiên cứu chính sách công.
Đây là một thuật ngữ chưa được dùng phổ biến ở nước ta, thậm chí cả trong giới
nghiên cứu khoa học chính trị. Hiện nay các nhà nghiên cứu thường chỉ mạnh dạn dùng
thuật ngữ “chính sách” và “chính sách quốc gia” để chỉ những nội dung mà thực chất
trước hết là thuộc về “chính sách công”. Thuật ngữ được dùng phổ biến trong khoa học
chính trị quốc tế. Sự e ngại đó có những lý do thực tế bởi vì nếu “chính sách công” chỉ
được hiểu như trong khoa học chính trị tư sản- tức là chỉ gắn với Nhà nước, mà Nhà nước
cũng chỉ được hiểu thuần tuý như một tổ chức công quyền, “đứng trên” mọi tầng lớp, mọi
giai cấp và về nguyên tắc là quyền lực tối cao quy định tổ chức và hoạt động của các chính
Đảng- thì rõ ràng thì thuật ngữ đó là không thể tương thích với hiện thực chính trị, thể chế
và hệ thống chính trị, chính sách ở nước ta. Cho nên, dùng khái niệm “ chính sách” hoặc
cụ thể hơn “chính sách quốc gia” ở ta là thích hợp.
Song nếu nhìn rộng và sâu hơn, có thể thấy, dù diễn giải nội dung có thể là khác
nhau tuỳ theo quan điểm chính trị. Nhưng khoa học chính sách ở nước nào cũng tập trung
nghiện cứu vào những quyết định quan trọng nhất của xã hội ( định nghĩa của G.Brewer và
P.d Leon) chỉ dẫn và quy định hành động của hệ thống chính trị. Đó chẳng phải là cái gì
khác ngoài “chính sách công”. Do vậy nếu dùng thuật ngữ này chúng ta có một “khung”
thích hợp để phát triển khoa học chính sách ở nước ta qua trao đổi, phản biện với khoa học
chính sách trên thế giới. Đồng thời cũng là một hình thức đánh dấu bước đưa quá trình
chính sách hiện thực ở nước ta đi vào khoa học, khách quan và hiệu quả hơn. Như vậy
định nghĩa chính sách mà chúng ta phải đi tới là định nghĩa về “chính sách công”.
“Chính sách công” trước hết là “chính sách”. Trong thực tế, chính sách tồn tại
dưới nhiều hình thức, lĩnh vực, nhiều cấp độ rất phổ biến, đa dạng, đan xen. Có những
chính sách cả quốc gia, có chính sách chỉ của địa phương. Có chính sách của cơ quan nhà
nước. Có chính sách của công ty, tập đoàn tư nhân … Tuy nhiên, những điểm căn bản,
chung nhất từ hình thức thực hiện và những đặc trưng thực chất của tất cả các loại hình chính
sách đó, từ những gợi ý về nội dung của các định nghĩa nêu ra ở trên, có thể định nghĩa:
Chính sách là tập hợp những văn bản theo một hướng xác định được quyết định
bởi những chủ thể cầm quyền nhằm quy định quá trình hành động của những đối tượng
nào đó, để giải quyết những vấn đề mà nhóm chủ thể- đối tượng đó quan tâm theo một
phương thức nhất định để phân bổ giá trị.
Chính sách là lĩnh vực tập trung mọi hoạt động của Đảng và Nhà nước, là “sản
phẩm đầu ra” của toàn bộ hệ thống chính trị.
Hai chục năm qua, đời sống đổi mới của đất nước ta vừa là khởi đầu vừa là kết quả
của một hệ thống các chính sách đổi mới. Qua bao khó khăn, trăn trở, theo sát thực tiễn để
chỉ dẫn thực hiện, đến nay hệ thống chích sách ở nước ta - các lõi cốt cụ thể của con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội, những quy định và chỉ dẫn đời sống thực tiễn ở nước ta - đã định
hình với những nội dung văn bản và thiết thực. Ở tầm tổng thể, định hướng chính trị cho
sự phát triển của đất nước, đó là “Cương lĩnh của Đảng cộng sản Việt Nam” là “Hiến pháp
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (1990); là đường lối của Đảng qua nghị quyết
các đại hội VI (1986), Đại hội VII (1991), Đại hội VIII (1996), Đại hội IX ( 2001), Đại hộ
X (2006). Đối với những lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội, đó là các nghị quyết của các
Hội nghị Trung ương, Chỉ thị của Bộ Chính trị, các luật pháp và pháp lệnh của Quốc hội,
Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các Nghị định, Quyết định của Chính phủ và Thủ tướng
trong hoạt động và cải cách kinh tế, đổi mới chính trị, phát triển văn hóa, khoa học, xã hội,
trong hoạt động ngoại giao, quốc phòng an ninh. Trên cơ sở những đường lối và chính
sách lĩnh vực cơ bản đó mà những chích sách cụ thể được xây dựng dưới nhiều hình thức
quyết định, quy chế cụ thể.
- Thực thi chính sách.
Thực thi chính sách là một giai đoạn trong quy trình chính sách, trong giai đoạn
đó, chính sách được đưa vào áp dụng trong cuộc sống nhằm đem lại những kết quả thực tế
đáp ứng mục tiêu đề ra.
Có thể nói, thực thi chính sách là giai đoạn biến các ý đồ chính sách thành những
kết quả thực tế thông qua hoạt động có tổ chức của các cơ quan trong bộ máy nhà nước
nhằm đạt tới những mục tiêu đã đề ra.
Chính sách được hoạch định xuất phát từ yêu cầu khách quan của thực tế, từ
những như cầu của xã hội, của nhân dân. Thực thi chính sách là quá trình giải quyết trên
thực tế những nhu cầu đó, đem lại những biến đổi trên các lĩnh vực của đời sống xã hội,
nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân.
Trong quá trình thực thi chính sách, các nguồn lực vật chất, tài chính, khoa học
công nghệ và con người được đưa vào các hoạt động có tính định hướng để đạt được các
mục tiêu đã đề ra. Nói khác đi, đây là quá trình kết hợp giữa con người với nguồn lực vật
chất, tài chính, khoa học công nghệ nhằm sử dụng các nguồn lực này một cách có hiệu
quả theo những mục tiêu đề ra.
Chủ thể thực thi trước hết và quan trọng nhất là các cơ quan hành chính nhà nước,
bởi vì đây chính là các cơ quan có nhiệm vụ quản lý và tổ chức triển khai các công việc
hàng ngày của nhà nước để đạt được các mục tiêu đặt ra. Chính sách là những nhiệm vụ
mà nhà nước đề ra trên các lĩnh vực, đương nhiên phải do các cơ quan hành chính nhà
nước quản lý và tổ chức thực thi. Tuy nhiên, các cơ quan lập pháp và tư pháp cũng như các
đảng phái, đoàn thể cũng có vai trò quan trọng trong việc huy động và tổ chức lực lượng
tham gia triển khai chính sách.
Trên thực tế giai đoạn thực thi chính sách được coi là giai đoạn tổng hợp của ba
giai đoạn của quy trình chính sách (hoạch định chính sách, thực thi chính sách, đánh giá
chính sách). Nhiều chính sách do các cơ quan trung ương đề ra và giao cho địa phương
thực hiện, nhưng khi chính sách về đến địa phương, người ta phải tiến hành nghiên cứu áp
dụng nó cho phù hợp với thực tế của địa phương. Điều đó có nghĩa là giai đoạn thực thi
chính sách lại bao hàm cả nội dung hoạch định chính sách. Từ đó, có thể giải thích tại sao
nhiều chính sách của Trung ương lại không được thi hành triệt để. Hơn nữa, trong quá
trình thực hiện chính sách, người ta phải tiến hành đánh giá chính sách để có thể điều
chỉnh kịp thời cho phù hợp với mục tiêu. Vì vậy, giai đoạn thực thi chính sách lại bao gồm
cả những công việc thuộc về đánh giá chính sách.
1.1.1.2. Đổi mới chính sách.
Đổi mới là thay đổi hoặc bổ sung cho tốt hơn, tiến bộ hơn so với trước.
Đổi mới tư duy có cách nhìn cách nghĩ mới tiến bộ phù hợp với tình hình mới, có
tác dụng làm thay đổi trong hành động.
Cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp từ nhiều năm qua không tạo được động
lực phát triển, làm yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng cải tạo các thành
phần kinh tế khác, kìm ham năng xuất, chất lượng, hiệu quả, gây rối trong phân phối lưu
thông và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Cơ chế quản lý kinh tế bằng mệnh
lệnh hành chính là chủ yếu, với hệ thống chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh chi tiết từ trên xuống,
không phù hợp nguyên tắc tập trung dân chủ. Cơ quan quản lý hành chính- kinh tế can
thiệp sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị cơ sở, nhưng không có trách
nhiệm gì về vật chất đối với các quyết định của mình; các đơn vị kinh tế cơ sở vừa không
có quyền tự chủ, vừa không bị ràng buộc trách nhiệm với kết quả sản xuất, kinh doanh.
- Xem thêm -