VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG TRUNG ANH
ĐỊNH TỘI DANH TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 16
TUỔI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM, TỪ THỰC
TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI - 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG TRUNG ANH
ĐỊNH TỘI DANH TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 16
TUỔI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM, TỪ THỰC
TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS TRẦN VĂN ĐỘ
HÀ NỘI – 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, trích dẫn nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ
công trình nào.
TÊN TÁC GIẢ
HOÀNG TRUNG ANH
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐỊNH
TỘI DANH TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI THEO
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ............................................................ 7
1.1. Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi theo pháp luật hình sự
Việt Nam .................................................................................................... 7
1.2. Định tội danh tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi .......................... 16
Chương 2: THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI
NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ........ 37
2.1. Khái quát về tình hình tội phạm dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2015 đến năm 2019 ..................... 37
2.2. Những kết quả đạt được và bất cập, hạn chế trong định tội danh
tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội. ..... 40
Chương 3: YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG ĐỊNH TỘI DANH TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 16
TUỔI ............................................................................................................... 53
3.1. Dự báo tình hình tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi trên địa
bàn thành phố Hà Nội ............................................................................... 53
3.2. Các yêu cầu về việc đảm bảo chất lượng định tội danh đối với tội
dâm ô đối với người dưới 16 tuổi. ............................................................ 55
3.3. Các giải pháp nâng cao chất lượng định tội danh tội dâm ô đối với
người dưới 16 tuổi. .................................................................................... 57
KẾT LUẬN .................................................................................................... 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 74
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
Bộ luật hình sự
BLTTHS
Bộ luật tố tụng hình sự
NXB
Nhà xuất bản
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
TAND
Tòa án nhân dân
CSĐT
Cảnh sát điều tra
QPPL
Quy phạm pháp luật
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Những điểm khác biệt cơ bản giữa định tội danh chính thức và
định tội danh không chính thức ............................................................ 25
Bảng 2.1: Số liệu về diễn biến tình hình tội dâm ô đối với người dưới 16
tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2015 đến năm 2019. ......... 39
Bảng 2.2: Tội danh do các cơ quan tiến hành tố tụng xác định đối với các
vụ dâm ô đối với người dưới 16 tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội
từ năm 2015 đến năm 2019 ................................................................... 41
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Định tội danh trong khoa học pháp lý được hiểu là một quá trình đa dạng,
phức tạp trong việc áp dụng pháp luật hình sự. Quá trình này được tiến hành
qua nhiều công đoạn: giải thích pháp luật hình sự, xác định hiệu lực pháp luật
về không gian, thời gian, viện dẫn quy phạm, quyết định hình phạt,… Trong
các giai đoạn đó, định tội danh luôn diễn ra trong tất cả các giai đoạn tố tụng
hình sự như: điều tra, truy tố và xét xử. Định tội danh còn được coi là tiền đề,
cơ sở cho việc áp dụng các quy phạm pháp luật khác của pháp luật hình sự và
tố tụng hình sự.
Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã nêu
cao tinh thần bảo vệ các quyền con người thông qua nhiều quy định, trong đó
Điều 31 quy định quyền được suy đoán vô tội: “Người bị buộc tội được coi là
không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản
án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật…” [17, Điều 31]. Điều 13 Bộ
luật Tố tụng hình sự cũng quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có
tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy
định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” [16, Điều 13].
Điều đó có nghĩa, khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật thì người bị buộc tội vẫn được coi là người không có tội. Như vậy, hoạt
động xét xử của Tòa án, trong đó có hoạt động định tội danh là hoạt động
mang tính chất quyết định, xác định một người có tội hay không có tội. Đây là
nội dung cơ bản của việc áp dụng pháp luật hình sự trong quá trình xét xử và
là một trong những biện pháp đưa các quy phạm pháp luật hình sự vào cuộc
sống. Trên cơ sở xác định người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội gì,
quy định tại điều, khoản nào của Bộ luật Hình sự (Định tội danh), cơ quan có
thẩm quyền (Tòa án) sẽ áp dụng hình phạt phù hợp đối với hành vi phạm tội
đó. Vì thế, định tội được xem là tiền đề, điều kiện cho việc áp dụng hình phạt
1
đúng đắn, góp phần mang lại hiệu quả trong phòng ngừa và chống tội phạm.
Trong trường hợp định tội không chính xác, mặc dù mức hình phạt có thể đã
tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện
nhưng việc kết án sai tội danh sẽ liên quan đến nhiều hậu quả pháp lý khác
mà bị cáo phải gánh chịu như: xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm, tính
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thời hạn xác định án tích… Thực tiễn
xét xử các vụ án hình sự cho thấy các cơ quan tiến hành tố tụng còn gặp nhiều
khó khăn, vướng mắc trong việc định tội danh, đặc biệt là đối với tội dâm ô
đối với người dưới 16 tuổi.
Tội phạm hình sự nói chung, tội phạm xâm hại tình dục trẻ em nói riêng
đang là một trong những vấn đề báo động ở nước ta trong thời gian vừa qua
và đã trở thành một trong những vấn đề nhức nhối đối với toàn xã hội trong
công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm xâm hại trẻ em. Hậu quả của vấn
đề này hết sức nghiêm trọng cả về thể chất và tính thần đối với trẻ em - thế hệ
tương lai của đất nước. Nhà nước và các ban ngành chức năng, truyền thông
báo chí cũng đã có những hành động, chương trình cụ thể để ngăn ngừa, giảm
thiểu tình trạng này. Tuy nhiên đến nay, tình trạng xâm hại tình dục trẻ em
vẫn có những diễn biến phức tạp và nghiêm trọng; công tác bảo vệ trẻ em
khỏi tình trạng xâm hại tình dục vẫn gặp phải nhiều khó khăn, rào cản.
Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là một tội phạm còn khá mới trong
pháp luật hình sự nước ta. Bộ luật hình sự năm 2015 cũng có nhiều điểm mới
liên quan đến tội phạm này. Trên thực tế hiện nay tình hình tội phạm này
đang ngày một gia tăng nhanh chóng cả về số lượng cũng như tính chất
nghiêm trọng. Bên cạnh đó vấn đề định tội danh đối với tội dâm ô đối với
người dưới 16 tuổi nói chung, trong các trường hợp đặc biệt như tội phạm
chưa hoàn thành, chuyển hóa tội phạm,… đã và đang đặt ra yêu cầu nghiên
cứu về mặt lý luận cũng như phân tích, đánh giá thực tiễn.
2
Xuất phát từ những phân tích trên, tác giả chọn đề tài: “Định tội danh tội
dâm ô đối với người dưới 16 tuổi theo pháp luật hình sự Việt Nam, từ thực
tiễn thành phố Hà Nội” làm đề tài Luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Vấn đề định tội danh nói chung, định tội danh tội dâm ô đối với người
dưới 16 tuổi theo pháp luật hình sự Việt Nam (Điều 146 Bộ luật hình sự năm
2015, sửa đổi bổ sung năm 2017) nói riêng đã và đang được nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm cả từ phương diện lý luận và thực tiễn. Bộ luật hình sự năm
2015 đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/7/2016 đã có
những thay đổi nhất định đối với quy định về nhiều tội danh trong đó có tội
dâm ô đối với người dưới 16 tuổi. Vì vậy mà hoạt động định tội danh đã được
đề cập trong rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học của các chuyên gia luật
hình sự của nước ta như:
- Định tội danh và áp dụng hình phạt, Giáo trình Học viện Tòa án, 2019
của PGS. TS. Trần Văn Độ;
- Một số vấn đề lý luận chung về định tội danh, Chương I, Giáo trình Luật
hình sự Việt Nam – khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003 của GS.TSKH
Lê Cảm;
- Giáo trình lý luận về định tội danh, NXB Công an nhân dân, Hà
Nội(2003) của GS.TS Võ Khánh Vinh;
- Định tội danh và quyết định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam,
NXB Công an nhân dân, 2004 của TS. Lê Văn Đệ;
- Định tội danh và quyết định hình phạt, NXB Lao động xã hội, 2007 của
TS Dương Tuyết Miên;
- Phương pháp định tội danh và hướng dẫn định tội danh đối với các tội
phạm trong BLHS hiện hành, NXB Tư pháp, 2010 của Đoàn Tấn Minh;
-
https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/ban-ve-hanh-vi-dam-o-voi-
nguoi-duoi-16-tuoi : Bàn về hành vi dâm ô với người dưới 16 tuổi của tác giả
Bích Phượng – Ngọc Trâm;
3
- Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử: “Tội dâm ô người dưới 16 tuổi – lý
luận và thực tiễn”, ngày 16/6/2019;
- Báo Kiểm sát online: “Về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”, ngày
14/3/2019;
- Tạp chí Cảnh sát nhân dân – tập 32: Đặc điểm, nguyên nhân và giải pháp
phòng ngừa xâm hại tình dục trẻ em ở nước ta hiện nay của Đỗ Văn Thanh.
Thực tế cũng đã có nhiều tài liệu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
thực tiễn trong định tội danh nói chung và định tội danh dâm ô đối với người
dưới 16 tuổi nói riêng. Tuy vậy, trong tình hình hiện nay, các nghiên cứu trên
vẫn chưa làm rõ những nhận thức thống nhất, khái quát nhất về định tội danh
đối với loại tội phạm này. Đặc biệt đối với địa bàn có tính đặc thù như thành
phố Hà Nội thì chưa có công trình nghiên cứu cụ thể nào nghiên cứu đánh giá
tính đặc thù trên địa bàn, để từ đó đưa ra những đánh giá khoa học trong việc
định tội danh đối với tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi theo quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có mục đích là trên cơ sở hoàn thiện thêm những vấn đề lý luận
về định tội danh tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi, phân tích quy định của
pháp luật hình sự, đánh giá thực tiễn trong việc xác định tội danh đối với tội dâm
ô người dưới 16 tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội, đề xuất một số kiến nghị
hoàn thiện các quy định pháp luật về loại tội phạm này và các giải pháp nâng cao
chất lượng, hiệu quả định tội danh tội Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi.
Nhằm đạt được mục đích nghiên cứu của luận văn, Luận văn tập trung giải
quyết các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc định tội danh nói chung, định tội
danh tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi nói riêng;
- Phân tích, bình luận các quy định của BLHS, các văn bản có liên quan
để làm sáng tỏ cơ sở pháp lý của việc định tội danh tội dâm ô đối với
người dưới 16 tuổi.
4
- Khảo sát, đánh giá thực tiễn định tội danh tội dâm ô đối với người dưới
16 tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội, làm rõ những bất cập, vướng
mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định của BLHS và các văn bản có
liên quan và nguyên nhân của bất cập, vướng mắc này.
- Đề xuất những giải pháp, kiến nghị nâng cao chất lượng định tội danh
tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quan điểm khoa học về định
tội danh nói chung và định tội danh đối với tội dâm ô đối với người dưới 16
tuổi nói riêng, những quy định của pháp luật về định tội danh tội dâm ô đối
với người dưới 16 tuổi cũng như các tội phạm khác, thực tiễn định tội danh
tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về phạm vi nghiên cứu, luận văn đã lựa chọn địa bàn thành phố Hà Nội
làm không gian nghiên cứu;
Về thời gian, đề tài được giới hạn phạm vi theo các số liệu liên quan đã thu
thập được từ thực tiễn xét xử mà Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã xét xử
từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn chủ yếu là những kiến thức của khoa học về định
tội danh, kết hợp với những kiến thức khoa học của luật học, khoa học hình
sự,… được tác giả lựa chọn làm cơ sở lý luận trong việc nghiên cứu luận văn.
Ngoài ra các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin, đường lối, chính sách
của Đảng về hoàn thiện Nhà nước pháp quyền và pháp luật là những cơ sở lý
luận đáng tin cậy để tác giả lựa chọn làm phương pháp nghiên cứu của luận văn.
Phương pháp luận nghiên cứu của đề tài là những kiến thức của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đề tài sử dụng một số phương
5
pháp cụ thể như: phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, tổng hợp,
phương pháp hệ thống, lịch sử, thống kê, khảo sát. Từ thực tiễn, trao đổi
chuyên gia, vụ việc điển hình đó, nhữn vấn đề liên quan đến định tội danh đối
với tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội được
xem xét, đánh giá từ nhiều góc độ khác nhau, đảm bảo tính đầy đủ, toàn diện, có
hệ thống và xác thực của những nội dung, vấn đề được trình bày trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Việc nghiên cứu thành công luận văn là cơ sở cho việc bổ sung các quan
điểm lý luận trong định tội danh, xác định rõ hơn các cơ sở khoa học trong
định tội danh đối với tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi ở nước ta hiện nay;
Chỉ ra những thành công và hạn chế về định tội danh trong thực tiễn xét xử
đối với tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội;
Kết quả của luận văn có thể sư dụng là tài liệu tham khảo trong nghiên cứ
và giảng dạy trong các trường nghiệp vụ của ngành luật, trong thực tiễn điều
tra, truy tố, xét xử cũng như trong học tập, nghiên cứu về định tội danh, về
pháp luật hình sự cũng như góp phần nâng cao hiệu quả trong quá trình định
tội danh đối với tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Bao gồm phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần nội
dung của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về định tội danh tội dâm ô
đối với người dưới 16 tuổi theo pháp luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Thực tiễn định tội danh tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chương 3: Yêu cầu và các giải pháp nâng cao chất lượng định tội danh tội
dâm ô đối với người dưới 16 tuổi.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐỊNH TỘI
DANH TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI THEO PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi theo pháp luật hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
Trong Bộ luật Hình sự Việt Nam, tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
được quy định trong chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự của con người. Điều 146 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi
bổ sung năm 2017 quy định tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi như sau: “1.
Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan
hệ tình dục khác, …” [14, Điều 146].Dễ nhận thấy, so sánh với Bộ luật hình
sự năm 1999, cụm từ “trẻ em” không còn được sử dụng trong BLHS năm
2015, thay vào đó, nhà làm luật đã chi tiết hóa độ tuổi của nhóm đối tượng
này, đó là “người dưới 16 tuổi”. Ví dụ như tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112)
thành tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142); tội cưỡng dâm trẻ em
(Điều 114) thành tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều
144)… Như vậy, BLHS năm 2015 có sự tương thích với Luật Trẻ em năm
2016 khi thống nhất độ tuổi trẻ em là người dưới 16 tuổi. Tương tự, chủ thể là
người đã thành niên trong các điều luật cũng được thay thế bằng “người đủ 18
tuổi” như tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người
từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145); tội dâm ô đối với người dưới 16
tuổi (Điều 146). Việc quy định chi tiết độ tuổi của nạn nhân cũng như người
thực hiện tội phạm đã giải quyết được những bất đồng quan điểm về khái
niệm “trẻ em”, “người chưa thành niên”, “người đã thành niên” trong BLHS
năm 1999.
7
Để đưa ra khái niệm tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi, chúng ta cần
phải xuất phát từ khái niệm tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật
Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:
“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ
luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân
thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh
tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp
pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công
dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà
theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự” [14, Điều 8].
Nhà làm luật đã quy định cụ thể hơn hành vi dâm ô so với BLHS năm
1999, theo đó, hành vi dâm ô này phải “không nhằm mục đích giao cấu hoặc
không nhằm thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác”. Tuy BLHS năm 2015 vẫn
chưa làm rõ được khái niệm dâm ô nhưng theo Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP
ngày 01 tháng 10 năm 2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy
định về một số tình tiết định tội của tội dâm ô như sau:
“…3. Dâm ô quy định tại khoản 1 Điều 146 của Bộ luật Hình sự là hành vi
của những người cùng giới tính hoặc khác giới tính tiếp xúc về thể chất trực
tiếp hoặc gián tiếp qua lớp quần áo vào bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm,
bộ phận khác trên cơ thể của người dưới 16 tuổi có tính chất tình dục nhưng
không nhằm quan hệ tình dục, gồm một trong các hành vi sau đây:
a) Dùng bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm tiếp xúc (ví dụ: đụng chạm, cọ
xát, chà xát...) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác của
người dưới 16 tuổi;
b) Dùng bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: tay, chân, miệng, lưỡi...) tiếp xúc (ví
dụ: vuốt ve, sờ, bóp, cấu véo, hôn, liếm...) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy
cảm của người dưới 16 tuổi;
8
c) Dùng dụng cụ tình dục tiếp xúc (ví dụ: đụng chạm, cọ xát, chà xát...) với bộ
phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của người dưới 16 tuổi;
d) Dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi dùng bộ phận khác trên cơ thể của họ
tiếp xúc (ví dụ: vuốt ve, sờ, bóp, cấu véo, hôn, liếm...) với bộ phận nhạy cảm
của người phạm tội hoặc của người khác;
đ) Các hành vi khác có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình
dục (ví dụ: hôn vào miệng, cổ, tai, gáy... của người dưới 16 tuổi).
…”[5, khoản 3 Điều 3].
Từ những vấn đề nhận thức trên, tác giả khái niệm tội dâm ô đối với
người dưới 16 tuổi được hiểu là: “Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là
hành vi nguy hiểm cho xã hội tiếp xúc về thể chất trực tiếp hoặc gián tiếp
vào bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác trên cơ thể của
người dưới 16 tuổi có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình
dục xâm phạm nhân phẩm, danh dự người dưới 16 tuổi, do người từ đủ 18
tuổi trở lên không ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình
sự thực hiện một cách cố ý”.
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội dâm ô đối với người dưới 6 tuổi
Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội dâm ô đối với người dưới 16
tuổi bao gồm: Khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể
của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm.
1.1.2.1. Khách thể của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
Khách thể của tội phạm là những quyền và lợi ích được luật hình sự
bảo vệ và bị các hành vi phạm tội xâm hại. Khách thể của tội phạm là một
trong những vấn đề trung tâm của khoa học luật hình sự. Khách thể của tội
phạm là một phần không thể thiếu của bất kì tội phạm nào. Là hành vi nguy
hiểm cho xã hội, nên bất kì một hành vi phạm tội nào cũng đều xâm hại đến
khách thể chung, xâm hại đến một trong những quyền hoặc lợi ích nhất định
được luật hình sự bảo vệ bằng cách xâm hại hoặc đe dọa xâm hại hại các
9
quyền, lợi ích đó. Những quyền, lợi ích được luật hình sự bảo vệ là: độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, chế độ chính trị, chế độ
kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi
ích hợp pháp khác của tổ chức, cá nhân.
Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi xâm phạm quyền được bảo vệ về
thân thể, nhân phẩm, danh dự và sự phát triển bình thường về tâm sinh lý của
trẻ em. Tại Điều 1 Luật Trẻ em năm 2016 quy định: “Trẻ em là người dưới 16
tuổi” [18, Điều 1].
Đối tượng tác động của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là người
dưới 16 tuổi không phân biệt quốc tịch,giới tính. Bên cạnh đó, người phạm tội
còn phải chịu mức hình phạt nặng hơn khi đối tượng tác động là người mà
người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh. Người có trách
nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh có thể là người giám hộ; cha mẹ nuôi,
các thành viên khác trong gia đình có nghĩa vụ chăm sóc lẫn nhau; người
hành nghề có nghĩa vụ khám, chữa bệnh; nhà giáo…
1.1.2.2. Mặt khách quan của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện của tội phạm ra bên
ngoài thế giới khách quan bao gồm hành vi khách quan, hậu quả nguy hiểm
cho xã hội và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả gây ra.
Ngoài ra, còn có một số dấu hiệu khác cũng thuộc mặt khách quan của tội
phạm là hoàn cảnh, thời gian, công cụ, phương tiện phạm tội. Mặt khách quan
là yếu tố quan trọng nhất của tội phạm: chỉ có hành vi được thực hiện trong
thực tế khách quan mới là tội phạm; tính nguy hiểm của tội phạm chủ yếu do
các yếu tố khách quan quyết định.
Mặt khách quan của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi có các dấu
hiệu đặc trưng sau:
Thứ nhất, dấu hiệu hành vi
Hành vi nguy hiểm cho xã hội là nội dung cơ bản nhất và được biểu
hiện dưới hai hình thức:
10
- Hành động: là việc chủ thể làm một việc mà bị pháp luật cấm;
- Không hành động: là việc chủ thể không làm một việc mà pháp luật
yêu cầu phải làm, mặc dù có điều kiện để làm nhằm tránh nguy cơ gây thiệt
hại cho xã hội.
Trong Luật hình sự Việt Nam, hành vi khách quan của tội dâm ô đối
với người dưới 16 tuổi là hành vi tiếp xúc về thể chất trực tiếp hoặc gián tiếp
vào bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác trên cơ thể của người
dưới 16 tuổi bao gồm một trong các hành vi sau đây:
- Dùng bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm tiếp xúc (ví dụ: đụng
chạm, cọ xát, chà xát...) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận
khác của người dưới 16 tuổi;
- Dùng bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: tay, chân, miệng, lưỡi...) tiếp
xúc (ví dụ: vuốt ve, sờ, bóp, cấu véo, hôn, liếm...) với bộ phận sinh dục, bộ
phận nhạy cảm của người dưới 16 tuổi;
- Dùng dụng cụ tình dục tiếp xúc (ví dụ: đụng chạm, cọ xát, chà xát...)
với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của người dưới 16 tuổi;
- Dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi dùng bộ phận khác trên cơ thể của
họ tiếp xúc (ví dụ: vuốt ve, sờ, bóp, cấu véo, hôn, liếm...) với bộ phận nhạy
cảm của người phạm tội hoặc của người khác;
- Các hành vi khác có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ
tình dục (ví dụ: hôn vào miệng, cổ, tai, gáy... của người dưới 16 tuổi).
Bên cạnh đó, người phạm tội thực hiện hành vi dâm ô nhiều lần hoặc
thực hiện hành vi dâm ô đối với nhiều người đều phải chịu trách nhiệm hình
sự với khung hình phạt từ 03 năm đến 07 năm tù.
Thứ hai, dấu hiệu hậu quả
Hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho quan
hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự.
11
Thiệt hại do tội phạm gây ra cho khách thể được phản ánh thông qua
những thay đổi, sự biến động của các bộ phận cấu thành quan hệ xã hội được
coi là khách thể của tội phạm.
Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là tội phạm có cấu thành hình thức,
nghĩa là trong cấu thành tội phạm chỉ nêu ra dấu hiệu của mặt khách quan là hành
vi gây nguy hiểm cho xã hội mà không nói đến hậu quả và mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi và hậu quả. Ở đây có thể hiểu, do tính chất nghiêm trọng của hành vi
dâm ô, xâm phạm vào khách thể có tầm quan trọng đặt biệt, chỉ cần người nào
thực hiện một hành vi trong mặt khách quan là đã đủ điều kiện để cấu thành tội
phạm, bất kể hành vi đó có được hoàn thành và gây hậu quả hay không.
Tuy nhiên, trên thực tế hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi còn
gây hậu quả nguy hiểm khác (ngoài hành vi xâm phạm chủ yếu của khách thể
trực tiếp) đó là tác động trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân
phẩm, sự phát triển bình thường của trẻ về tâm lý, giới tính cũng như tương
lai của các em sau này. Bên cạnh đó, hậu quả mà hành vi này gây ra cho xã
hội là không thể phủ nhận, đó là sự tấn công trực diện đến các nền tảng đạo
đức xã hội, gây tâm lý hoang mang, lo sợ trong dư luận xã hội.
Đối với tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi, hậu quả xảy ra của hành
vi phạm tội có thể là yếu tố định khung của tội này:
- Hành vi phạm tội gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11%
đến 45% thì người phạm tội bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm [16, Điều 146];
- Hành vi phạm tội gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46%
trở lên hoặc làm nạn nhân tự sát thì người phạm tội bị phạt tù từ 07 năm đến
12 năm [14, Điều 146].
Thứ ba, mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả của tội phạm
Một người chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi khách quan của
họ gây ra mà hành vi đó để lại hậu quả mang tính nguy hiểm cho xã hội. Mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm được thể hiện:
12
- Hành vi nguy hiểm cho xã hội xảy ra trước hậu quả nguy hiểm cho xã
hội về mặt thời gian;
- Hành vi nguy hiểm cho xã hội chứa đựng khả năng thực tế làm phát
sinh hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Trong điều kiện nhất định, khả năng đó
trở thành hiện thực là tất yếu;
- Hậu quả nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra đúng là sự hiện thực hóa khả
năng thực tế của hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Hậu quả của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm, sức khỏe và sự phát triển bình thường
của người dưới 16 tuổi phải trực tiếp từ hành vi dâm ô dẫn tới.
Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi được pháp luật hình sự Việt Nam
quy định là tội có cấu thành hình thức và tội phạm hoàn thành khi có hành
vi dâm ô xảy ra. Việc xem xét mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và
hậu quả xảy ra không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội này. Tuy nhiên, nếu có
hậu quả xảy ra thì việc xem xét mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội
và hậu quả là dấu hiệu bắt buộc.
1.1.2.3. Chủ thể của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
Chủ thể của tội phạm là người không ở trong tình trạng không có năng
lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự luật định và là
người thực hiện hành vi được luật hình sự quy định là tội phạm.
Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là tình trạng của một
người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội:
- Do bị bệnh tâm thần hay bệnh khác;
- Không có khả năng nhận thức được hành vi của mình hoặc không có
có khả năng điều khiển được hành vi ấy.
Chủ thể của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là người từ đủ 18 tuổi
trở lên, không phân biệt giới tính.
13
Khi nghiên cứu về chủ thể của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi cần
phải chú ý đến đặc điểm nhân thân của người phạm tội như: nghề nghiệp,
hoàn cảnh gia đình, trình độ văn hóa, ý thức pháp luật, tiền án, tiền sự,… Điều
này có ý nghĩa quan trọng đến việc xác định khung hình phạt, trách nhiệm
hình sự của người phạm tội cũng như các biện pháp phòng ngừa tội dâm ô đối
với người dưới 16 tuổi . Về nhân thân của người phạm tội dâm ô đối với
người dưới 16 tuổi, tình tiết “tái phạm” sẽ là tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự của người phạm tội còn tình tiết “tái phạm nguy hiểm” sẽ là tình tiết
định khung của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi.
1.1.2.4. Mặt chủ quan của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
Tội phạm là sự liên kết chặt chẽ giữa mặt khách quan và mặt chủ quan.
Mặt khách quan được hiểu là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm thì mặt
chủ quan là diễn biến, hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội.
Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm các yếu tố sau: lỗi, động cơ, mục
đích phạm tội, trong đó yếu tố lỗi được thể hiện trong tất cả cấu thành tội
phạm. Lỗi là dấu hiệu không thể thiếu được của bất cứ cấu thành tội phạm
nào. Mục đích và động cơ phạm tội tuy mang những dấu hiệu thuộc mặt chủ
quan của tội phạm nhưng không phải lúc nào cũng có ý nghĩa quyết định đến
tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Bản chất và tính chất của hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi về
mặt chủ quan của tội phạm được thể hiện do lỗi cố ý trực tiếp với mục đích
nhằm kích thích hoặc thỏa mãn nhu cầu tình dục của người phạm tội.
- Dấu hiệu lỗi
“Một hành vi gây thiệt hại cho xã hội sẽ bị coi là lỗi, nếu hành vi đó là
kết quả của sự tự lựa chọn và quyết định của chủ thể trong khi chủ thể có đủ
điều kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn và quyết định một xử sự khác
phù hợp với đòi hỏi của xã hội”
Lỗi cố ý trực tiếp trong tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi được biểu hiện:
14
- Xem thêm -