Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn đặc điểm ký nguyễn ái quốc hồ chí minh...

Tài liệu Luận văn đặc điểm ký nguyễn ái quốc hồ chí minh

.PDF
131
98
67

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN ĐẶC ĐIỂM KÝ NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN TP.HỒ CHÍ MINH - 2010 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN ĐẶC ĐIỂM KÝ NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số : 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS ĐINH TRÍ DŨNG TP.HỒ CHÍ MINH - 2010 LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy cô trong Hội đồng khoa học, Hội đồng đào tạo Cao học của trƣờng Đại học Vinh, trƣờng Đại học Sài Gòn, các thầy cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập tại trƣờng, Ban Giám Đốc TTGDTX Tân Bình, Ban Giám Hiệu trƣờng THCS và THPT Nguyễn Khuyến Quận Tân Bình, các bạn đồng nghiệp và những ngƣời thân đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu để tôi hoàn thành luận văn này. Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc nhất đến Phó Giáo sƣ Tiến sĩ Đinh Trí Dũng đã tận tình giúp đỡ, hƣớng dẫn tôi trong suốt quá trình hình thành và hoàn chỉnh luận văn. Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng năm Nguyễn Thị Thanh Huyền MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................................ 1 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ............................................................................................. 3 3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi tƣ liệu khảo sát ........................................................ 7 4. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................................... 8 5. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................................... 8 6. Đóng góp và cấu trúc của luận văn ................................................................................. 8 CHƢƠNG 1: THỂ LOẠI KÝ TRONG SỰ NGHIỆP THƠ VĂN NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH ........................................................................... 10 1.1. Khái niệm ký và các đặc trƣng cơ bản của ký .......................................................... 10 1.1.1. Khái niệm ký ...................................................................................................... 10 1.1.2. Các đặc trƣng cơ bản của ký .............................................................................. 14 1.2. Thể loại ký trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh............. 17 1.2.1. Những tác phẩm ký sáng tác trƣớc Cách mạng tháng Tám ............................... 19 1.2.2. Những tác phẩm ký sáng tác sau Cách mạng tháng Tám .................................. 23 1.2.3. Đánh giá chung về ký Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ................................... 26 Chƣơng 2: NỘI DUNG KÝ NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH ............................ 29 2.1. Đả kích, phê phán sâu cay bọn cƣớp nƣớc và bè lũ bán nƣớc .................................. 29 2.2. Phản ánh cuộc sống cơ cực của ngƣời dân thuộc địa ............................................... 44 2.3. Những vấn đề khác của đời sống cách mạng ............................................................ 60 2.4. Phác thảo chân dung tinh thần ngƣời chiến sĩ cách mạng ........................................ 69 2.4.1. Hình tƣợng Hồ Chí Minh qua Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch của Trần Dân Tiên .................................................................................. 75 2.4.2. Hình tƣợng Hồ Chí Minh trong Vừa đi đường vừa kể chuyện của T Lan ......... 85 Chƣơng 3: NGHỆ THUẬT KÝ NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH ..................... 90 3.1. Hình thức thể loại ..................................................................................................... 92 3.2. Bút pháp .................................................................................................................... 95 3.2.1. Giới thuyết khái niệm ........................................................................................ 95 3.2.2. Bút pháp trào lộng.............................................................................................. 96 3.2.3. Bút pháp trữ tình .............................................................................................. 101 3.3. Giọng điệu và ngôn từ............................................................................................. 106 3.3.1. Giọng điệu........................................................................................................ 106 3.3.2. Ngôn từ ............................................................................................................ 109 KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 120 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 123 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Trong sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn học không phải là hoạt động chủ yếu nhƣng Ngƣời đã để lại cho dân tộc ta nhiều tác phẩm văn học có giá trị lớn về tƣ tƣởng và nghệ thuật. Trong gần 60 năm hoạt động cách mạng, kể từ khi Ngƣời ra đi tìm đƣờng cứu nƣớc (1911) đến khi Ngƣời qua đời (1969), Ngƣời đã cống hiến hết mình cho sự nghiệp cứu dân cứu nƣớc. Chủ tịch Hồ Chí Minh là ngƣời thầy của cách mạng Việt Nam, là lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam, là anh hùng dân tộc, là nhà văn, nhà thơ lớn, đồng thời là danh nhân văn hóa thế giới. Sinh thời, Ngƣời không nhận mình là nhà văn, nhà thơ mà tự nhận mình là ngƣời bạn của văn nghệ. Trên con đƣờng hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã nhận ra văn nghệ là một thứ vũ khí vô cùng sắc bén và lợi hại, Ngƣời đã cho rằng: “Cái bút là vũ khí sắc bén, bài báo là tờ hịch cách mạng”. Và Ngƣời từng viết trong tập thơ Nhật kí trong tù rằng: “Nay ở trong thơ nên có thép Nhà thơ cũng phải biết xung phong” (Cảm tƣởng đọc Thiên gia thi) Ngƣời dùng thơ văn nhằm đấu tranh chính trị, tiến công kẻ thù và theo sát những nhiệm vụ của cách mạng trên từng chặng đƣờng lịch sử của dân tộc và tất cả đều thống nhất trên tinh thần “thép” của một ngƣời chiến sĩ cách mạng vĩ đại. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là ngƣời bƣớc đầu đặt nền móng và mở đƣờng cho nền văn học cách mạng. Trong đó ký của Ngƣời là những tác phẩm mở đầu và góp phần đặt nền móng đầu tiên cho văn xuôi cách mạng Việt Nam. Nhƣng khi nghiên cứu về ký thì các công trình thƣờng 2 nghiên cứu chung cả truyện và ký, còn bài nghiên cứu về riêng các tác phẩm ký thì còn ít. Trên cơ sở tiếp thu những thành tựu nghiên cứu của những ngƣời đi trƣớc, luận văn của chúng tôi nhằm mục đích tìm ra những đặc điểm nổi bật về phƣơng diện nội dung và nghệ thuật để thấy đƣợc giá trị đặc sắc, sự độc đáo, sáng tạo về ký Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Đồng thời, luận văn sẽ góp phần giúp ngƣời quan tâm đến thể loại ký hiểu hơn về ký Việt Nam nói chung và ký cách mạng nói riêng, giúp mọi ngƣời có cái nhìn toàn diện, phong phú hơn về sự nghiệp văn học của Chủ tịch Hồ Chí Minh – Vị Cha già kính yêu của dân tộc. 1.2. Là một trong những chiến sĩ cách mạng nổi tiếng ở thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh đƣợc nhân dân thế giới vinh danh là “Anh hùng giải phóng dân tộc”, là “Danh nhân văn hoá thế giới”. Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là ngƣời chiến sĩ ở lĩnh vực chính trị, cách mạng, ở quân sự, ngoại giao, ở văn hoá, tƣ tƣởng, vừa là ngƣời nghệ sĩ ở lĩnh vực văn học nghệ thuật, Đông và Tây, truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế, nhân dân và giai cấp, phi thƣờng và bình thƣờng… Sự nghiệp văn học của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh là một khối đa dạng: phong phú về thể loại, đa dạng về bút pháp, phong cách sáng tạo đặc sắc, ngôn ngữ sáng tác bằng tiếng Pháp, tiếng Việt và cả tiếng Hán, chủ yếu trên các lĩnh vực: Văn chính luận, Truyện và ký, Thơ ca. Mỗi lĩnh vực đều có một sự đặc sắc riêng, một giá trị riêng. Riêng thể loại ký, với bút pháp sáng tạo, lời kể chân thực tạo không khí gần gũi nhƣng giọng văn lại sắc sảo, ngòi bút châm biếm, giàu chất trí tuệ và mang tính hiện đại, ngôn ngữ trong sáng với nhiều hình ảnh sinh động nên các tác phẩm của Ngƣời có giá trị văn học phong phú. Chính giá trị văn học đã góp phần tạo nên sức hấp dẫn, sự bền vững trong nhận thức và tác dụng tuyên truyền sinh động của tác phẩm. Những tác phẩm ký của Ngƣời đƣợc viết vào những năm 20 của thế kỉ XX bằng tiếng Pháp và đƣợc đăng trên báo Nhân đạo (Hu 3 manite), Người cùng khổ (Le Parie) và một số tác phẩm sau này đến nay vẫn chƣa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ, có hệ thống về đặc điểm ký của Ngƣời. 1.3. Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là một ngƣời chiến sĩ cách mạng vừa là một nghệ sĩ đa tài. Ngƣời viết văn, làm thơ với nhiều đề tài khác nhau, nhiều thể loại khác nhau nhƣng ở bất cứ phƣơng diện nào Ngƣời cũng đạt đƣợc sự phong phú về thể loại, sự uyên bác về kiến thức, sự đặc sắc, điêu luyện về nghệ thuật. Ngoài văn chính luận, thơ ca đạt giá trị đặc sắc thì những nội dung, những vấn đề phản ánh trong các tác phẩm ký của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh là những tác phẩm có giá trị, chân thật, đầy sáng tạo với tấm lòng nhân ái và tâm hồn cao cả. Văn thơ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh nói chung và một số tác phẩm ký của Ngƣời nói riêng có một vị trí đặc biệt quan trọng trong chƣơng trình dạy ở các trƣờng học. Việc giảng dạy môn Văn ở trƣờng phổ thông hiện nay đang có nhiều bất cập, một phần là do các em học sinh chƣa thực sự hứng thú với việc học Văn nên giáo viên cũng mất dần cảm hứng truyền đạt cho học sinh. Ở các tác phẩm thơ, tiểu thuyết hay truyện ngắn thì việc truyền đạt hứng thú hơn vì dễ tạo cảm hứng cho ngƣời dạy và ngƣời học. Nhƣng riêng đối với tác phẩm viết theo thể loại ký thì đòi hỏi ngƣời dạy phải nắm rõ các đặc điểm cơ bản của ký nếu không thì học sinh rất khó tiếp nhận. Với đề tài Đặc điểm ký Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, chúng tôi hy vọng sẽ góp phần nhỏ vào quá trình giảng dạy ký trong nhà trƣờng đạt hiệu quả cao hơn. 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 2.1. Cuộc đời, sự nghiệp và con ngƣời Hồ Chí Minh luôn là đề tài hấp dẫn đối với các nhà nghiên cứu trong và ngoài nƣớc. Đặc biệt, trong những năm gần đây đã có một khối lƣợng lớn công trình trong nƣớc và ngoài nƣớc 4 viết về Ngƣời, về di sản tinh thần của Ngƣời với nhiều nhận xét và kết luận quý báu. Chúng ta đều biết Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh là một nhân cách lớn, một ngƣời nghệ sĩ, một chiến sĩ cách mạng không chỉ nhân dân trong nƣớc kính trọng, biết ơn, thƣơng yêu mà cả bạn bè năm châu đều ngƣỡng mộ, tôn sùng. Chỉ cần tổng kết qua thì cho tới thời điểm này giới nghiên cứu văn học và ngôn ngữ đã cho công bố hàng trăm bài luận văn, chuyên luận công phu góp phần “Nghiên cứu và học tập thơ văn Hồ Chí Minh”. Thống kê theo danh mục trong cuốn Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, 2007 cho đến nay các công trình nghiên cứu, phê bình lớn, nhỏ về thơ văn của Ngƣời có đến gần 300 công trình. Có thể thấy các công trình nghiên cứu về thơ văn của Ngƣời thƣờng theo các nội dung cơ bản: Thứ nhất, là những công trình nghiên cứu về cuộc đời, sự nghiệp thơ văn, phong cách và quan điểm văn học của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh. Tiêu biểu là của các tác giả Hà Huy Giáp, Trần Thanh Mại, Đái Xuân Ninh, Phạm Huy Thông, Cù Đình Tú,… Thứ hai, là những bài nghiên cứu, phê bình về thơ Hồ Chí Minh nhƣ Vài suy nghĩ nhỏ về tư tưởng mĩ học Hồ Chí Minh qua sáng tác thơ của Nguyễn Đăng Mạnh, bài Tư duy nghệ thuật trong thơ Hồ Chí Minh của Hà Minh Đức, Trần Đình Sử, bài Từ nguyên tác đến bản dịch Nhật kí trong tù của Lê Trí Viễn...Ngoài ra còn có các tác giả khác nhƣ Nguyễn Xuân Nam, Đỗ Quang Lựu, Chế Lan Viên, Mã Giang Lân v.v… Thứ ba, là các công trình nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của các bạn nƣớc ngoài nhƣ Haririson S.Salisbury với bài Nhà thơ có tâm hồn một con rồng, Anilenđu Sa cơra bôrôty với bài Hồ Chí Minh, con người giản dị và ý chí sắt thép, Viên Ƣng với bài Bác Hồ một nhà thơ lớn...Và một số tác giả khác nhƣ: Quách Mạt Nhƣợc, Starôbin, Chia Xim, Macta Rôgiát,… 5 Thứ tư, là những công trình nghiên cứu, phê bình những tác phẩm văn xuôi của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh hiện nay có khoảng 55 công trình. Trong đó Truyện và ký là đối tƣợng nghiên cứu của luận văn thì có khoảng trên 30 bài viết về các tác phẩm tiêu biểu nhƣ Bản án chế độ thực dân Pháp, Nhật ký chìm tàu, Con người biết mùi hun khói, Vừa đi đường vừa kể chuyện, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch,…Các tác giả viết về những tác phẩm này phải kể đến Phạm Huy Thông với Nghệ thuật viết văn của Hồ Chủ Tịch qua Truyện và Ký; Hà Minh Đức với Tác phẩm văn của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, Nxb Giáo dục, 1997; Nguyễn Đăng Mạnh, Phong Lê, Phùng Văn Tửu với Vị trí Truyện và ký của Nguyễn Ái Quốc trong văn học Việt Nam; Nguyễn Đình Chú, Đỗ Đức Hiểu, Xích Điểu, Hoàng Nhân với bài Dấu hiệu của văn chương tương lai trong “Truyện và ký” của Nguyễn Ái Quốc đăng trên báo Nhân dân, ngày 13-5-1990; Lê Trí Viễn với bài Tìm hiểu về Truyện và ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Sở văn hoá – Thông tin Đồng Tháp, xuất bản 1995; Nguyễn Nghiệp với bài “Truyện và ký” của Nguyễn Ái Quốc mở ra một gia đoạn mới trong văn học yêu nước và cách mạng, tạp chí Tác phẩm mới, số 39, 1974 v.v… 2.2. Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại, một nhà văn hoá lỗi lạc, Ngƣời để lại một di sản văn chƣơng đồ sộ, lớn lao về tầm vóc, đa dạng về thể loại, phong phú trong bút pháp thể hiện. Di sản ấy thu hút rất nhiều nhà nghiên cứu, phê bình trong và ngoài nƣớc. Ở trong nƣớc việc nghiên cứu phê bình văn thơ của Ngƣời mới chỉ bắt đầu từ Cách mạng tháng Tám nhất là sau năm 1960. Văn học Việt Nam rất đa dạng về thể loại nhƣng ký là thể loại phức tạp, ranh giới giữa ký và truyện cũng không đƣợc phân định rạch ròi, nhất là trong văn của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh thì giữa truyện và ký thƣờng có sự liên quan và tác động qua lại lẫn nhau. Nhƣng dù có những quan niệm khác nhau thế nào thì mọi ngƣời đều phải thừa nhận ký dù loại nào cũng mang đặc 6 trƣng phản ánh những con ngƣời có thật, sự việc có thật. Phong cách nghệ thuật trong thơ văn của Ngƣời là vậy, phản ánh ngƣời thật, việc thật với sự độc đáo, đa dạng và thống nhất, kết hợp sâu sắc và nhuần nhị giữa tƣ tƣởng và nghệ thuật, giữa truyền thống và hiện đại. Chính điều đó đã thể hiện tầm vóc của một nhà văn lớn, một nhà văn hoá lớn của dân tộc Việt Nam và thế giới. Riêng thể loại ký thì đã có gần 30 bài nghiên cứu, phê bình mà tiêu biểu là các tác giả Phạm Huy Thông, Nguyễn Nghiệp, Phùng Văn Tửu, Hà Minh Đức, Phong Lê,… Tác giả Nguyễn Nghiệp đã nhận xét trong bài Truyện và ký của Nguyễn Ái Quốc mở ra một giai đoạn mới trong văn học nhƣ sau: “Sự cô đọng, súc tích, nét bút mô tả chắc mà hoạt cũng là một đặc điểm chung của truyện và ký Hồ Chủ tịch. Khó mà tìm thấy đƣợc một đoạn thừa, một chi tiết thừa nào trong tác phẩm của Ngƣời”. Tác giả Hoàng Dung thì lại cho rằng: “Ngƣời đã viết những truyện và ký nhƣ một ngòi bút phƣơng Tây sắc sảo, điêu luyện rất Pháp. Không hiểu điều đó, chúng ta sẽ hết sức ngỡ ngàng. Ngòi bút của Ngƣời vốn giản dị. Giản dị vốn là phong cách hàng đầu của thơ văn Ngƣời” (Mấy suy nghĩ về giảng văn và giảng thơ văn Bác Hồ). Phạm Huy Thông trong Mấy lời nói đầu của tác phẩm Truyện và ký của Nguyễn Ái Quốc nhận xét: “Bút pháp sở trƣờng của Ngƣời ở đây là châm biếm. Trong chừng mực nào nụ cƣời của Ngƣời xuất phát từ phong cách trào lộng của Ngƣời, trong chừng mực nào từ tính hài hƣớc của ngƣời Pháp, mà phƣơng châm sáng tác của Ngƣời vốn gọn, nhẹ, cho nên cách viết của Ngƣời đã dễ chinh phục bạn đọc. Lối chỉ trích của Ngƣời sắc sảo nhƣng không đao to búa lớn mà bằng cƣời ruồi, nói mát càng làm cho văn Ngƣời thu hút cảm tình” [47,14-15]. 7 Sách Văn học 12 (Tập 1), trong bài Phong cách nghệ thuật cũng cho rằng những tác phẩm Truyện và ký của Ngƣời rất hiện đại, thể hiện tính chiến đấu mạnh mẽ và nghệ thuật trào phúng sắc bén. Tiếng cƣời trào phúng của Nguyễn Ái Quốc tuy nhẹ nhàng, hóm hỉnh nhƣng thâm thuý, sâu cay. Phạm Huy Thông nhận xét: “Văn tiếng Pháp của Nguyễn Ái Quốc có đặc điểm nổi bật là dí dỏm, là hài hƣớc. Điều đó không ngăn Ngƣời đã viết nên những lời thắm thiết trữ tình khi xúc động” [5,28]. Xích Điểu trong bài Văn châm biếm, đả kích địch qua một số bài viết của Bác Hồ đã viết: “…Tiếng cƣời đả kích châm biếm của Bác Hồ bao giờ cũng thanh nhã, dí dỏm nhƣng vẫn rất mạnh mẽ sâu cay. Đó là tiếng cƣời của kẻ mạnh, của ngƣời có lòng tin sắt đá vào thắng lợi của chính nghĩa. Nhờ vậy tác phẩm của Bác Hồ không những gây đƣợc lòng căm thù cho ngƣời đọc, làm họ khinh miệt kẻ địch mà còn giúp họ ý thức đƣợc sức mạnh của mình…” [62,311]. Nói tóm lại, khi nhận xét về ký Nguyễn Ái Quốc có rất nhiều ý kiến hay, xác đáng, tinh tế và nhìn chung thì tất cả những nhận xét đó đều cho rằng ký Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã thể hiện đƣợc bản lĩnh, nghị lực và bút pháp rất riêng của con ngƣời Bác. Với lối kể chân thực, gần gũi, lôi cuốn và sinh động, chất trí tuệ và tính hiện đại hoà quyện làm nên một phong cách đặc trƣng giản dị và sâu sắc. 3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi tƣ liệu khảo sát 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là Đặc điểm ký Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh. 3.2. Phạm vi tƣ liệu khảo sát Về phạm vi tài liệu: Luận văn dựa vào Bản án chế độ thực dân Pháp – Nguyễn Ái Quốc, Nxb Sự thật Hà Nội (1975); Pari (1922); Những mẩu 8 chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch (2008), Trần Dân Tiên, Nxb Nghệ An; Vừa đi đường vừa kể chuyện (2007), TLan, Nxb Trẻ; Nhật ký chìm tàu (1930), Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin; Truyện và ký (1974), Nguyễn Ái Quốc, Nxb Văn học Hà Nội,… 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Thực hiện đề tài này chúng tôi đặt ra 3 nhiệm vụ chủ yếu: 4.1. Xác định vai trò, vị trí của thể loại ký trong sự nghiệp thơ văn Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. 4.2. Tìm hiểu những nét đặc sắc về nội dung ký Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. 4.3. Tìm hiểu những nét đặc sắc về nghệ thuật ký Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh. Cuối cùng rút ra một số kết luận về đặc điểm ký nói riêng trong toàn bộ phong cách nghệ thuật đa dạng, độc đáo của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh nói chung. Khẳng định thêm về tính hiện đại, tính chiến đấu mạnh mẽ và nghệ thuật trào phúng sắc bén trong các tác phẩm ký của Ngƣời. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi kết hợp vận dụng những phƣơng pháp nghiên cứu sau: - Phƣơng pháp lịch sử - xã hội. - Phƣơng pháp tiếp cận thi pháp học. - Phƣơng pháp phân tích - tổng hợp. - Phƣơng pháp so sánh - đối chiếu. 6. Đóng góp và cấu trúc của luận văn 6.1. Đóng góp của luận văn 9 Luận văn góp phần một phần nhỏ làm rõ hơn đặc điểm nội dung và hình thức ký của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh trên một cái nhìn hệ thống, toàn diện. Hi vọng đây sẽ là tài liệu tham khảo cho những ngƣời giảng dạy và quan tâm đến thể loại ký. 6.2. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm 3 chƣơng: Chƣơng 1. Thể loại ký trong sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh. Chƣơng 2. Nội dung ký Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Chƣơng 3. Nghệ thuật ký Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. 10 CHƢƠNG 1 THỂ LOẠI KÝ TRONG SỰ NGHIỆP THƠ VĂN NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH 1.1. Khái niệm ký và các đặc trƣng cơ bản của ký 1.1.1. Khái niệm ký Trong văn xuôi, bên cạnh tiểu thuyết, truyện ngắn thì thể ký có một tầm quan trọng đặc biệt. Ký là một thể loại cơ động, linh hoạt, nhạy bén trong việc phản ánh hiện thực trực tiếp, ở những nét sinh động và tƣơi mới nhất. Tác phẩm ký vừa có khả năng đáp ứng đƣợc những yêu cầu bức thiết của thời đại, đồng thời vẫn giữ đƣợc tiếng nói vang xa sâu sắc của nghệ thuật. Nền văn học Việt Nam rất đa dạng và phong phú về thể loại, so với các thể loại của nền văn học hiện đại nhƣ truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, thơ,…thì riêng thể loại ký cũng đƣợc nhiều ngƣời chú ý quan tâm. Ký gồm nhiều thể khác nhau nhƣ ký sự, phóng sự, tuỳ bút, bút ký, nhật ký,…Ký có khả năng bám sát cuộc sống, phản ánh linh hoạt hiện thực bằng nhiều dạng thức khác nhau. Ký sự tái hiện những sự kiện phong phú của đời sống; hồi ký ghi lại những diễn biến của câu chuyện và nhân vật theo bƣớc đi của thời gian qua hồi tƣởng; bút ký, tuỳ bút thể hiện một cách linh hoạt việc phản ánh cuộc sống khách quan và bộc lộ những suy nghĩ chủ quan của ngƣời viết; bút ký chính luận kết hợp hai hình thức tƣ duy: tƣ duy chính luận của các hoạt động nhận thức chính trị, triết học, xã hội,…tƣ duy nghệ thuật lại tạo nên những tác phẩm có màu sắc riêng, độc đáo. Hiện nay đang có nhiều quan điểm khác nhau khi định nghĩa về ký, để có một định nghĩa tƣơng đối chính xác về ký thì chúng ta cần giới hạn phạm vi phản ánh của nó. 11 Có các quan niệm khác nhau về ký nhƣ theo Gulaiep thì đặc trƣng của ký là tính tổng hợp về đối tƣợng mô tả và ngƣời ta có thể tìm thấy ở đó những số phận, những bức tranh về phong tục, về đời sống, kinh tế, chính trị, đặc trƣng này có thể đƣợc xác định rõ nét hơn trong tiểu thuyết. Có ngƣời quan niệm rằng đặc trƣng của ký là ở tính chủ quan, điều này hiện ra rõ hơn trong tác phẩm trữ tình. Cũng có ngƣời cho rằng ký chủ yếu phản ánh ngƣời thật, việc thật, điều này xuất phát từ quan niệm ký là thể loại có tính chất ghi chép… Các quan niệm trên cũng đã đƣợc nhiều ngƣời chấp nhận nhƣng chƣa có sự lí giải thoả đáng, do ở ký có sự kết hợp nhiều thể loại khác nhau, mặt khác cũng do cách đặt tên tác phẩm của nhà văn nên để có cái nhìn chính xác về thể loại ký và đƣa ra một khái niệm đúng đắn là một việc tƣơng đối khó. Vì vậy, chúng ta có thể liệt kê một số phạm vi giới hạn ký qua các hệ thống phân loại nhƣ: *Theo hệ thống Thơ - tiểu thuyết - kịch – ký: Theo hệ thống này, ký bao hàm các loại văn xuôi còn lại, và nếu chấp nhận hệ thống trữ tình - tự sự - kịch thì có thể một số tác phẩm giàu chất trữ tình mà từ trƣớc đến nay thƣờng đƣợc gọi là ký tuỳ bút cần phải đƣợc xếp vào loại trữ tình. Vì trong tuỳ bút, chủ yếu không phải là thông tin sự thực, mà sự thực ở đây chỉ là cái cớ để tác giả bộc lộ tâm trạng, gửi gắm tâm tƣ, tình cảm của mình. *Theo hệ thống trữ tình - tự sự - kịch: Hệ thống này đúng cho văn chƣơng thẩm mỹ mà không bao gồm hầu hết các loại, vốn không phải là văn chƣơng thẩm mĩ nhƣng vẫn có giá trị nghệ thuật cao đó là các loại văn chính luận. Tuy nhiên, không thể xếp văn chính luận vào ký nhƣ nhiều ngƣời nhận định từ trƣớc đến nay vì văn chính luận chủ yếu không phải nhằm thông tin sự thật mà thông tin lí lẽ. Cho nên, có thể 12 xếp bút ký chính luận vào văn nghị luận. Nhƣ vậy, ký không bao gồm tuỳ bút và bút ký chính luận. Các giới thuyết trên cho thấy ký có thể phân biệt đƣợc với kịch, trữ tình và chính luận. Vì vậy, ký chỉ còn liên quan đến loại tự sự. Tóm lại, khi đƣa ra khái niệm về ký thì theo xu hƣớng chung hiện nay có các ý kiến nhƣ sau: Theo nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong “Từ điển thuật ngữ văn học”: Ký (tiếng Nga: ocherk, tiếng Pháp: essai, reportage) là “Loại hình trung gian nằm giữa báo chí và văn học, gồm nhiều thể, chủ yếu là văn xuôi tự sự nhƣ bút ký, hồi ký, du ký, phóng sự, ký sự, nhật ký,… [16,111]. Đối tƣợng nhận thức của thể ký thƣờng là “Một trạng thái đạo đức – phong hoá xã hội”, hay “Một trạng thái tồn tại của con ngƣời hoặc những vấn đề xã hội nóng bỏng” [16, 111]. Ký mang tính thời sự, phản ánh chân thực cuộc sống, phơi bày hiện thực xã hội. Ký có quan điểm thể loại là tôn trọng sự thật khách quan của đời sống, không hƣ cấu. Nhà văn viết ký luôn chú ý đảm bảo cho tính xác thực của hiện thực đời sống đƣợc phản ánh trong tác phẩm. Sự việc, con ngƣời trong ký phải xác thực hoàn toàn, có địa chỉ hẳn hoi. Theo Hà Minh Đức, ký văn học có thể chia làm 3 loại: ký tự sự (phóng sự, ký sự, hồi ký, truyện ký,…); ký trữ tình (tuỳ bút, nhật ký,…); ký chính luận (các dạng tiểu phẩm văn học, tạp văn, tạp ký,…). Từ điển Tiếng Việt định nghĩa ký là một “Thể văn tự sự viết về ngƣời thật, việc thật, có ý nghĩa thời sự, trung thành với hiện thực ở mức cao nhất”. Trong Thuật ngữ nghiên cứu văn học, thể loại ký đƣợc xem là “Một loại hình văn học tái hiện cuộc sống qua sự ghi chép, miêu tả ngƣời thật, việc thật…Hình tƣợng của ký có địa chỉ của nó trong cuộc sống. Do đó, tính chính xác tối đa là đặc trƣng cơ bản của nó…” . 13 Tóm lại, những cách hiểu này chỉ là tƣơng đối vì ít nhiều thì một tác phẩm ký thƣờng hội tụ cả 3 yếu tố là tự sự, trữ tình và chính luận. Chính vì sự đa dạng và phong phú nhƣ vậy mà ký đã góp phần cho nền văn học đa dạng, phong phú về thể loại cũng nhƣ nội dung. Nhƣ vậy, ký là một thể loại bao gồm nhiều tiểu loại nhỏ, việc xác định ranh giới rõ ràng tuyệt đối giữa các thể loại trong ký rất phức tạp, khi xem xét chúng trong từng trƣờng hợp cụ thể cần phải chú ý “Ranh giới giữa các thể nói trên cũng không tuyệt đối, luôn luôn có tình trạng chuyển hoá, thâm nhập lẫn nhau” (Phƣơng Lựu). Ký ra đời rất sớm trong lịch sử văn học của nhân loại nhƣng phải đến thế kỉ XVII đặc biệt từ thế kỉ XIX, khi đời sống lịch sử của các dân tộc ngày càng phát triển theo hƣớng tăng tốc, khi kĩ nghệ in ấn và báo chí phát triển, văn học mở cửa và thâm nhập vào các lĩnh vực hoạt động tinh thần khác, nhà văn ngày càng có ý thức tham gia trực tiếp vào những cuộc đấu tranh xã hội, ký mới thực sự phát triển mạnh mẽ. Từ sự phong phú và đa dạng của ký, chúng ta có thể nhận thấy rằng ký đã có một sự đóng góp không nhỏ đối với nền văn học của dân tộc. Ở nƣớc ta, ký là một trong những thể văn có mặt đầu tiên và có vai trò quan trọng. Có khá nhiều nhà văn thành công và để lại nhiều tác phẩm ký có giá trị nhƣ Lê Hữu Trác với Thượng kinh ký sự, ký của Phạm Đình Hổ, ký của Nguyễn Tuân, ký của Tô Hoài,… Ký góp phần cho nền văn học hài hòa, đa dạng về màu sắc và ký giúp cho nhà văn thể hiện đƣợc lối viết chân thực, giàu cảm xúc, có sự sắc sảo, độc đáo trong cách viết của mình. Sự hình thành và phát triển của ký ở nƣớc ta là một quá trình lịch sử, đó là do nhu cầu của xã hội và những điều kiện, khả năng hoạt động văn hoá, báo chí, văn học,… 14 1.1.2. Các đặc trưng cơ bản của ký Các thể ký văn học luôn đƣợc mở rộng khả năng sáng tạo cho phù hợp với tính chất phong phú của đối tƣợng miêu tả, tuỳ theo hình thức khác nhau của đối tƣợng miêu tả, nghệ thuật ký có cách xử lý và tái hiện riêng cho phù hợp. Ký cũng không gò bó ngƣời viết trong một phƣơng thức biểu hiện và một phong cách duy nhất mà mở rộng, thừa nhận nhiều hình thức và nhiều phong cách sáng tạo. Ký là một thể loại tự sự thiên về miêu tả, ghi chép sự thật nhƣ ký sự, phóng sự, du ký, nhật ký, bút ký,…Dù đƣợc hình thành và chọn lọc từ nguồn ghi chép và sáng tạo nào, ký văn học phải là nơi gặp gỡ của hai nhân tố quan trọng là sự thật của đời sống và giá trị sáng tạo nghệ thuật. Sự thật của đời sống ở những nét chắt lọc và tính chất tự nó cũng mang giá trị thẩm mỹ độc đáo và đặc biệt là phần đóng góp của ngƣời viết với những suy nghĩ, liên tƣởng, tƣởng tƣợng phong phú và giàu tính nghệ thuật. Ký là một sáng tác văn học, do vậy ký cần xây dựng chi tiết, nhân vật, sự việc điển hình, để đạt mục đích đó ký không dùng hƣ cấu mà dùng các biện pháp khác. Ký mang tất cả đặc điểm của thể loại tự sự nhƣng có những đặc trƣng riêng biệt sau: *Tính chân thực (tiếng Pháp: véridicité) Theo Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi thì tính chân thực là khái niệm để chỉ “Phẩm chất tạo nên sức hấp dẫn, thuyết phục của văn học, thể hiện ở sự phù hợp sinh động giữa sự phản ánh của văn học với đối tƣợng phản ánh của nó, ở sự thống nhất giữa chân lí nghệ thuật và chân lí đời sống, giữa sự sáng tạo nghệ thuật với tất yếu lịch sử. Tác phẩm văn học nào cũng có tính hiện thực nhƣng chỉ những tác phẩm xây dựng hình tƣợng phản ánh đƣợc bản chất hoặc vài ba khía cạnh bản chất của hiện thực và phù hợp với tâm lí và thị hiếu thẩm mĩ của con ngƣời ở một giai đoạn lịch sử nhất định mới có đƣợc tính chân thực” [16,288]. 15 Nhƣ vậy, một tác phẩm văn học chỉ đạt đến tính chân thực khi nó khám phá đƣợc những nét bản chất, quy luật phát triển của cuộc sống con ngƣời. Ký dựng lại những sự thật đời sống cá biệt một cách sinh động chứ không xây dựng các hình tƣợng mang tính khái quát. *Tính hiện thực (tiếng Pháp: réalité) Với nghĩa rộng, thuật ngữ này biểu hiện một thuộc tính của văn học trong mối liên hệ với hiện thực, khẳng định sự phụ thuộc của văn học vào hiện thực khách quan. Là một hình thái ý thức xã hội, tất cả các yếu tố, các chỉnh thể văn học, từ nội dung đến hình thức, từ trào lƣu văn học đến phƣơng pháp sáng tác, thể loại văn học đều bắt nguồn sâu xa từ hiện thực khách quan, từ đời sống xã hội. Do vậy tính hiện thực là một thuộc tính tất yếu có ý nghĩa quy luật. Điều này gần nhƣ là một điều kiện bắt buộc không thể thiếu trong một tác phẩm ký. Vì bản thân thể ký chính là sự phản ánh chân thực những sự việc, con ngƣời nêu ra trong tác phẩm có tên có tuổi, có địa chỉ trong cuộc sống hẳn hoi. Nguyễn Ái Quốc đã nhận thức đƣợc điều này nên Ngƣời đã triệt để sử dụng trong các tác phẩm ký của mình. Chính vì vậy, với khả năng tài tình, điêu luyện, những tác phẩm ký của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đạt đƣợc giá trị sâu sắc. *Tính hấp dẫn: Ký hấp dẫn ngƣời đọc ở nội dung phản ánh vì đó là những vấn đề mà xã hội quan tâm và bên cạnh đó ký đã sử dụng bút pháp, kết cấu, ngôn ngữ đa dạng, sinh động. Ký với cách sử dụng các biện pháp châm biếm, giọng điệu hài hƣớc pha lẫn sự giễu cợt nhằm phê phán, lên án một con ngƣời, một hiện tƣợng xấu nào đó trong xã hội. Ký cũng thể hiện thái độ xót xa thƣơng cảm, đầy tinh thần trách nhiệm của ngƣời viết đối với những bất công, ngang trái trong cuộc đời. Điều đó đã tạo nên sức hấp dẫn của các tác phẩm ký. 16 Ký không phải là báo chí nhƣng có điểm gần giống với báo chí đó là tính xác thực, tính thời sự, tính chính luận. Ký phản ánh sự việc và con ngƣời có thật trong cuộc sống. Trong ký, tính chính xác đƣợc thể hiện ở mức độ cao, hƣ cấu chỉ giữ vai trò thứ yếu. Vậy ký có cho phép hƣ cấu hay không? Đây là vấn đề mà còn có nhiều ý kiến, quan điểm chƣa thống nhất. Mặc dù ký viết về ngƣời thật, việc thật nhƣng tác giả sẽ gặp những khó khăn trong việc xác định nội tâm nhân vật, cảm xúc trữ tình của nhân vật. Vì thế, trong trƣờng hợp nhà văn có tƣ tƣởng, tình cảm hoàn toàn đúng đắn chỉ việc ghi chép lại thì trƣớc khi ghi chép, ít nhất cũng phải nghe thấy, tức là nghe kể lại hoặc chứng kiến. Trong trƣờng hợp chứng kiến và viết lại, nhà văn vẫn không thể bao quát hết mọi sự việc hoặc nhớ hết mọi diễn biến một cách tƣờng tận…Vì vậy, trƣớc khi đặt bút viết, ngƣời viết ký chỉ có một mớ tƣ liệu lộn xộn, chƣa móc nối logic các sự kiện với nhau…khi đó nhà văn phải sử dụng trí tƣởng tƣợng và hƣ cấu nhằm làm cho bức tranh trở lên hợp lí, liên tục và hấp dẫn. Khi đó trong tác phẩm, tác giả có thể thêm những đoạn miêu tả cảnh sắc thiên nhiên, những nhân vật phụ …để làm sinh động thêm cho tác phẩm ký sẽ không vi phạm tính chân thực của thể loại ký. Tóm lại, hƣ cấu trong ký thƣờng ít và có mục đích góp phần tái hiện lại một cách xác thực ngƣời thật, việc thật. Ký phản ánh kịp thời và linh hoạt cuộc sống, kết hợp hài hoà các yếu tố tự sự, chính luận, trữ tình. Ngƣời viết ký cần phải chọn cho mình một hình thức ký thích hợp và cần thiết bằng một thứ ngôn ngữ hấp dẫn với những cảm xúc chân thành. Nhân vật trong ký cũng thƣờng bộc lộ những cảm xúc trữ tình. Chính yếu tố trữ tình và chính luận gây lên sự phá vỡ cốt truyện ở các mức độ khác nhau. Ký có thể có hoặc không có cốt truyện. Những loại ký có cốt truyện theo lối kết cấu - cốt truyện với đầy đủ các thành phần, những loại ký không có cốt truyện thì theo kết cấu – liên tƣởng ở xen kẽ giữa các sự kiện, con ngƣời với những đoạn nghị luận, trữ tình khá lớn của nhân vật trần thuật.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan