Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng theo bộ luật dân sự năm 2015...

Tài liệu Luận văn chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng theo bộ luật dân sự năm 2015

.PDF
80
89
123

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HÔI PHAN THỊ HỒNG VÂN CHẤP NHẬN ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ HÀ NỘI, 2020 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HÔI PHAN THỊ HỒNG VÂN CHẤP NHẬN ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015 Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 8 38 01 07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. DƯƠNG QUỲNH HOA HÀ NỘI, 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi là Phan Thị Hồng Vân, sinh ngày 12 tháng 11 năm 1977, tại Hà Nội, mã sinh viên 8.38.01.07 Khoa Luật, - Học viện Khoa học Xã Hội - Viện Hàn Lâm xin cam đoan đề tài nghiên cứu “Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng theo Bộ luật dân sự năm 2015” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, dữ liệu và kết quả nghiên cứu được nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào./. Hà Nội, ngày 26 tháng 02 năm 2020 Tác giả luận văn Phan Thị Hồng Vân LỜI CẢM ƠN Tác giả xin bày tỏ sự cảm ơn, sự biết ơn sâu sắc tới Cô giáo, TS. Dương Quỳnh Hoa, Viện Nhà nước và Pháp luật - Người hướng dẫn khoa học, đã tận tâm hướng dẫn tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện Luận văn. Tác giả xin bày tỏ sự cảm ơn tới Ban lãnh đạo Khoa Luật, - Học viện Khoa học Xã Hội - Viện Hàn Lâm đã giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu Luận văn. Tác giả xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình và quý báu trong quá trình thu thập dữ liệu, căn cứ pháp lý và thực tiễn từ Liên đoàn Luật sư thành phố Hà Nội góp phần hoàn thiện nội dung đề tài nghiên cứu. Tác giả xin gửi lời cảm ơn nhiệt thành tới các chuyên gia trong lĩnh vực luật học đặc biệt trong lĩnh vực giao kết hợp đồng, các doanh nhân và bạn đồng nghiệp công tác trong lĩnh vực pháp lý đã động viên, giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu, hoàn thiện Luận văn. Hà Nội, ngày 26 tháng 02 năm 2020 TÁC GIẢ LUẬN VĂN Phan Thị Hồng Vân MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ CHẤP NHẬN ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG ......................................................................... 7 1.1. Khái quát chung về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng .................. 7 1.2. Pháp luật về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng............................. 16 Chương 2. THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ CHẤP NHẬN ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CHẤP NHẬN ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG ................................. 39 2.1. Thực trạng các quy định pháp luật về điều kiện chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng và thực tiễn áp dụng ...................................................... 39 2.2. Thực trạng các quy định pháp luật về thời hạn trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng và thực tiễn áp dụng ............................................. 42 2.3. Thực trạng các quy định pháp luật về hiệu lực của chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng và thực tiễn áp dụng ...................................................... 45 2.4. Thực trạng các quy định pháp luật về thay đổi, rút lại chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng và thực tiễn áp dụng ............................................. 47 2.5. Thực trạng các quy định pháp luật về hủy bỏ chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng và thực tiễn áp dụng .............................................................. 49 Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHẤP NHẬN ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHẤP NHẬN ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................................... 54 3.1. Phương hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng .................................................................................. 54 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng............................................................................................................... 580 KẾT LUẬN .................................................................................................. 703 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hội nhập và phát triển là xu thế và nhu cầu tất yếu của bất kỳ một quốc gia, dân tộc hay một tổ chức kinh tế, xã hội nào hiện nay. Hội nhập cũng chính là nền tảng, là cơ sở để tiếp cận, tiếp thu nền tảng khoa học, công nghệ và hợp tác giao thương toàn cầu. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam hiện nay, hoạt động thương mại, xúc tiến đầu tư, hợp tác quốc tế luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm, tạo điều kiện để phát triển kinh tế xã hội để xây dựng một Việt Nam hùng cường trên con đường xã hội chủ nghĩa. Trong những năm gần đây, chính sách phát triển kinh kế xã hội được xem là một trong những mục tiêu mang tầm chiến lược, tuy nhiên, trong thực tế việc phát triển và phát triển ổn định an toàn, kiểm soát rủi ro và nhận thức đầy đủ vai trò của chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng cũng như các đặc tính của chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng trong các tổ chức, doanh nghiệp tại Việt Nam chưa được đánh giá đúng hoặc chưa được xem trọng. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng không chỉ là cơ sở nhằm xác lập các quan hệ trong các giao dịch kinh tế, dân sự, là cơ sở pháp lý để các tổ chức, cá nhân tiến hành xác lập các mối quan hệ hợp tác bằng hợp đồng và thông qua hợp đồng. Đây không chỉ là sự thỏa thuận, sự thống nhất ý chí của các bên trên cơ sở tự do, tự nguyện, thiện chí mà còn là cơ sở để đảm bảo điều kiện lõi nhằm xác định và thống nhất các điều kiện, phạm vi trong các quan hệ kinh doanh, thương mại và là cơ sở thống nhất điều kiện, điều khoản khi tiến hành thực hiện hợp đồng. Trong thực tiễn, hợp đồng được tạo ra bởi sự gặp gỡ, thống nhất về ý chí giữa bên đề nghị giao kết hợp đồng và bên chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, khi một trong hai bên không thống nhất “sự gặp nhau của ý định” không trùng sẽ không thể thực hiện giao kết, không có đề nghị thì sẽ không có chấp nhận đề nghị và không có chấp nhận đề nghị thì giao dịch không thể đi đến thành công. Thông qua quá trình nghiên cứu pháp luật hợp đồng cũng như thực tiễn của pháp 1 luật về hợp đồng, trong đó có pháp luật về quy định về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, Nhà nước Việt Nam đã xây dựng và ban hành nhiều quy định như: “Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989”, Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991, Bộ luật dân sự 1995, BLDS năm 2005 và gần đây là BLDS năm 2015. Đến nay, BLDS 2015 đã đi vào thực tiễn và được đánh giá là bộ luật có nhiều quy tiến bộ, nhiều điểm mới về các quan hệ hợp đồng, đồng thời Bộ luật này cũng đã tháo gỡ nhiều vướng mắc trong giao kết hợp đồng giữa các chủ thể tham gia các quan hệ pháp luật về giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, việc áp dụng các quy định thực tế của BLDS mới còn nhiều lúng túng, bất cập và tồn tại những khuyết cần được tiếp tục xem xét, nghiên cứu hoàn thiện, trong đó có những quy định pháp luật về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Xuất phát từ lý do trên, việc nghiên cứu luận văn thạc sĩ về đề tài “Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng theo Bộ luật dân sự năm 2015” là cần thiết mang ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn không chỉ góp phần hoàn thiện về phương diện pháp lý trong lĩnh vực đề nghị giao kết hợp đồng nói riêng mà còn là nền tảng căn cơ nhằm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế, dân sự, thương mại ở Việt Nam nói chung. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong quá trình hội nhập nên kinh tế toàn cầu, nền kinh tế Việt nam đang hội nhập cùng nền kinh tế thế giới, cơ hội hợp tác và mở rộng giao thương với nhiều loại chủ thể và thành phần kinh tế xã hội. Cùng với đó, việc nghiên cứu thực tiễn và những quy định pháp luật về giao kết hợp đồng nói chung và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng nói riêng luôn là đề tài mang tính thời sự của nhiều nhà khoa học trong lĩnh vực luật học mà còn là sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu pháp lý, tổ chức kinh tế chính trị, doanh nghiệp trong nhiều lĩnh vực khác nhau đặc biệt trong nền kinh tế hiện đại. Trên thế giới, những điển hình nghiên cứu về hợp đồng và chấp nhận giao kết hợp đồng được công bố, trong đó điển hình là Lý thuyết hợp đồng (contract 2 theory) đạt giải Nobel kinh tế năm 2016 của giáo sư Oliver Hart của đại học Harvard và Bengt Holmstrom của Viện Công nghệ Massachusetts giúp giải tỏa các mâu thuẫn trong bối cảnh nền kinh tế hiện đại, mà vẫn duy trì được tính cạnh tranh. Bên cạnh đó, các công trình tiêu biểu như: Sir William R. Anson (1965), Principles of the English Law of Contract and of Agency in its Relation to Contract, Twentysecond edition, Oxford at the Clarendon Press; David E. Allan & Mary E. Law of Contract in Australia, 2nd edition, Key Text, Australia của tác giả Hiscock (1992), John Cartwright và tác gải Martijn W. Hesselink (2011) với đề tài Precontractual Liability in European Private Law, Cambrige… Ở Việt Nam hiện nay, chưa có công trình hay sách chuyên đề nào nghiên cứu tổng quan một cách hệ thống, chi tiết và đầy đủ về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Nội dung về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng vẫn còn riêng lẻ, tản mạn trong các công trình nghiên cứu phổ biến như: Tác giả Nguyễn Như Phát và lê Thị Thu Thủy (đồng chủ biên), 2003, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật hợp đồng ở Việt Nam hiện nay, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội; Tác giả Phạm Hoàng Giang (2006) “Sự phát triển của pháp luật hợp đồng: từ nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng đến công bằng” Nhà nước và pháp luật số 10; Tác giả Nguyễn Ngọc Điện (2009) “Hoàn thiện chế độ pháp lý về xác lập hợp đồng” Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 19; Tác giả Ngô Huy Cương (2008) “Bàn về khái niệm và các điều kiện của chấp nhận giao kết hợp đồng theo Bộ luật dân sự 2005” Dân chủ pháp luật số 01; Tác giả Ngô Huy Cương (2010), “Đề nghị giao kết hợp đồng theo pháp luật Việt Nam”, Tạp chí nhà nước và pháp luật số 2; Ngô Huy Cương (2010), “Hiệu lực của chấp nhận giao kết hợp đồng theo BLDS 2005 - nhìn từ góc độ luật so sánh” Viện Nghiên cứu lập pháp, số 09; Lê Thị Diễm Phương (2013), Đề nghị và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng - nhìn từ góc độ so sánh, Khoa học pháp lý, Đạihọc Luật TP. Hồ Chí Minh, số 2, tr.68/74; Với tính chất thời sự của đề tài, trong thực tiễn ở nước ta vẫn chưa có công trình nghiên cứu toàn diện nào về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Các nội 3 dung nghiên cứu và cả các văn bản pháp luật Nhà nước cũng chưa xây dựng, cung cấp, hướng dẫn đầy đủ, chính xác, kịp thời về giao kết hợp đồng đặc biệt đối với vấn đề chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng theo BLDS năm 2015 của Việt Nam hiện nay. Vì vậy, việc nghiên cứu và chọn lựa đề tài nghiên cứu “Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng” không chỉ mang ý nghĩa về luật học mà còn mang tính thực tiễn cho các tổ chức kinh tế, xã hội trong quá trình thực hiện giao kết hợp đồng cũng như xây dựng pháp lý hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản của chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật ở Việt Nam, làm rõ những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của nó, luận văn đưa ra giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về hợp đồng nói chung và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng nói riêng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn với mục đích trọng tâm tập trung phân tích làm sáng tỏ các vấn đề sau đây: 1. Nghiên cứu vấn đề lý luận về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng như khái niệm, đặc điểm, bản chất, ý nghĩa của chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng; 2. Nghiên cứu lý luận, phân tích, đánh giá một cách toàn diện, đa chiều về thực trạng pháp luật cũng như thực tiễn chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng nói riêng theo pháp luật Việt Nam hiện nay. 3. Kiến xuất giải pháp và phương hướng nhằm góp phần đổi mới, kiện toàn quy định pháp luật Việt Nam về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu các quy phạm pháp luật về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng trong BLDS năm 2015, có nghiên cứu so sánh pháp luật 4 quốc tế điển hình về hợp đồng và giao kết hợp đồng cũng như các quy định của BLDS năm 1995, BLDS 2005 liên quan đến chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Trong phạm vi đề tài nghiên cứu, tác giả luận văn không nghiên cứu tất cả những điểm mới về pháp luật hợp đồng mà chỉ tập chung vi nghiên cứu giới hạn điểm quy định về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng theo BLDS năm 2015 và một số văn bản pháp luật chuyên ngành tiêu biểu liên quan đến chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng từ đó tìm ra những điểm mới, chỉ ra những giới hạn, những điểm còn chưa thống nhất giữa các văn bản pháp luật và kiến nghị những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về chấp nhận giao kết hợp đồng.. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Kế thừa những kết quả nghiên cứu khoa học và lý luận thực tiễn về hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng đã được công bố vận dụng vào thực tiễn và nghiên cứu. Trên cơ sở xem xét, so sánh tính phổ biến, tính đặc thù, tập quán pháp, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn trong việc nghiên cứu và giải quyết các vấn đề, phương pháp luận giải, tham vấn đa chiều ý kiến của các chuyên gia trong lĩnh vực luật, triết học …nhằm làm sáng tỏ mục đích nghiên cứu của đề tài. Luận văn được nghiên cứu bằng việc phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học như: phân tích, tổng hợp, so sánh đặc biệt trên góc nhìn luật học Việt Nam và thế giới, khảo sát thực tiễn. Phương pháp trong luận văn nghiên cứu được thực hiện trên nền tảng của phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và luật pháp của Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Luận văn hệ thống hóa được những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về hợp đồng trong đó tập trung nghiên cứu pháp luật về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, giải tỏa các mâu thuẫn thực tiễn về pháp lý trong việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật của Việt Nam về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. 5 Kết quả nghiên cứu đề tài này cũng đưa ra cái nhìn tổng quan thông qua việc phân tích hiện trạng pháp luật và thực tiễn đời sống dân sự trong phạm vi đề tài nghiên cứu về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Theo đó, luận văn đã chỉ ra những ưu việt và những hạn chế trong BLDS năm 2015 nói riêng và hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung. Kết quả nghiên cứu của luận văn đã cung cấp các cơ sở pháp lý hữu hiệu, trình tự và những giải pháp tổ chức, thực hiện, giúp giải tỏa các mâu thuẫn xuất hiện phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng, đồng thời là cơ sở để thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự về đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng hữu hiệu trong bối cảnh hội nhập toàn cầu. 7. Kết cấu của luận văn Cơ cấu của luận văn, ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia thành 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận pháp luật về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Chương 2: Thực trạng pháp luật về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng ở Việt Nam và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Phương hướng hoàn thiện pháp luật về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng ở Việt Nam hiện nay. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ CHẤP NHẬN ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG 1.1. Khái quát chung về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng 6 1.1.1. Khái niệm chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng Bộ từ điển luật học Black’s Law Dictionary định nghĩa: “Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng được hiểu là sự đồng ý của bên được đề nghị đối với các điều khoản của đề nghị giao kết hợp đồng của bên đề nghị, một cách rõ ràng hoặc ngầm định bằng hành vi, theo hình thức được thừa nhận hoặc theo yêu cầu của bên đề nghị, theo đó hợp đồng được xác lập và ràng buộc các bên. Nếu một chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng có sửa đổi các điều khoản hoặc bổ sung các điều khoản mới, nó thường là một đề nghị giao kết hợp đồng mới”. Pháp luật của CHLB Nga về giao kết hợp đồng, tại khoản 1, Điều 438 Bộ luật dân sự CHLB Nga chỉ ra: “Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị giao kết hợp đồng về việc đề nghị giao kết hợp đồng được chấp nhận. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là chấp nhận toàn bộ và vô điều kiện”. Ngoài ra, Điều 438, khoản 2 của Bộ luật này qui định: “Sự im lặng không được xem là chấp nhận, trừ khi có sự khác biệt phát sinh từ pháp luật, từ tập quán kinh doanh, hoặc từ quan hệ trước đó giữa các bên”. Theo diễn giải của các luật gia Unidroit: việc chấp nhận bằng hành động trước tiên với việc phân loại đề nghị. Họ ngụ ý rằng, đề nghị có thể được chia thành hai loại căn cứ vào điều kiện về hình thức chấp nhận: Một loại là đề nghị có qui định hình thức chấp nhận; và loại kia là đề nghị không qui định hình thức chấp nhận. Ví dụ: Đối với loại thứ hai này, việc chấp nhận bằng hành động thông thường được thể hiện qua việc thực hiện một số công việc như thanh toán trước một phần giá hàng hóa, vận chuyển hàng hóa hoặc bắt đầu xây dựng tại mặt bằng… Những quan niệm này xuất phát trên nền tảng tự do ý chí, tôn trọng tối đa sự thỏa thuận, sự thống nhất ý chí mà không câu nệ bởi hình thức và bảo đảm nguyên tắc thiện chí, trung thực và hợp tác. Im lặng có phải là chấp nhận mặc nhiên không? Đó là vấn đề tranh luận sôi nổi. Unidroit đã thể hiện rõ quan điểm 7 về vấn đề này là im lặng hoặc không hành động tư bản thân chúng không phải là chấp nhận như đã nói ở trên. Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng không xem im lặng là sự chấp nhận mặc nhiên, mà chỉ thừa nhận một trường hợp cho sự chấp nhận bằng im lặng khi có sự thỏa thuận giữa người đề nghị và người được đề nghị “im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết” hợp đồng (Điều 404, Khoản 2).Tuy nhiên để có được hiểu biết rõ ràng hơn về các qui định này của Bộ luật Dân sự năm 2005, cần phải giải thích sự thỏa thuận của hai bên về vấn đề này được thể hiện ở đâu: (1) Trong nội tại của đề nghị rồi được người được đề nghị thông báo đồng ý riêng về vấn đề đó; hay (2) Trong đề nghị bổ sung rồi được người được đề nghị thông báo chấp nhận vấn đề đó trong đề nghị bổ sung; hay (3) Trong mọi thỏa thuận khác; hay (4) Trong tập quán; hay (5) Trong thói quen quan hệ giữa hai bên. Unidroit đã có sự nhắc nhở: Người đề nghị không thể đơn phương tuyên bố trong đề nghị của mình rằng đề nghị được coi là chấp nếu không trả lời hoặc giữ im lặng, bởi người đề nghị là bên đề xướng hợp đồng và người được đề nghị có quyền tự do lựa chọn trả lời hoặc phớt lờ lời đề nghị. Bộ luật dân sự Bắc Kỳ năm 1931 phân biệt sự tuyên bố ý chí chấp nhận rõ ràng và mặc nhiên chấp nhận. Điều 653 và Điều thứ 654 của Bộ luật này và tương ứng là Điều thứ 689 và Điều thứ 690 của Bộ luật Dân sự Trung Kỳ năm 1936 có nội dung tương tự như nhau: theo đó, quy định tài Điều thứ 653. Đồng ý là ý nguyện của mọi bên có quan hệ trong hiệp ước đều thoải hợp nhau cả. Trong trường hợp nếu có một bên không đồng ý thì hiệp - ước cũng không thành. Ngoài tra, theo quy định tài Điều 654 nêu rõ: “sự đồng ý có thể tỏ ra bằng lời nói hoặc bằng giấy tờ, sự đồng ý cũng có thể tùy vào tình trạng mà cho là mặc nhiên ám chỉ được”. Từ đây có thể nhận thấy việc chấp nhận bằng lời nói, bằng văn bản thể hiện việc tuyên bố rõ ràng ý chí của người chấp nhận và có hiệu lực nếu tuân thủ đầy đủ các điều kiện của chấp nhận. Theo BLDS 2015 quy đinh tại Điều 393, Khoản 1 có định nghĩa chính thức như sau: “Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị 8 về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị.”. Định nghĩa này không có sự thay đổi so với BLDS 2005 được nêu tại Điều 396. Trong BLDS 2012 có sự khác bổ sung khoản 1 Điều 393, theo đó: “Sự im lặng của bên được đề nghị không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa các bên”. Điều 394, BLDS 2015 về thời hạn trả lời tại Khoản 1 quy định: “Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời đồng thời khi bên đề nghị không nêu rõ thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực nếu được thực hiện trong một thời hạn hợp lý”. Soi chiếu Điều 397 BLDS 2005 có thể nhận thấy BLDS 2015 đã có những điểm mới quy định rõ hơn về thời hạn chấp nhận giao kết hợp đồng. Như vậy, dưới góc độ pháp lý, có thể thấy điểm chung nhất giữa BLDS Việt Nam năm 1995, BLDS 2005 và BLDS 2015 cũng như các văn bản quốc tế đều cố gắng đưa ra những định nghĩa chính thức trong văn bản về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng với mục đích giảm thiểu tranh luận và thống nhất chung về “chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng”. Khi nghiên cứu về pháp luật dân sự có thế nhận thấy đó là những điểm ưu việt của hệ thống pháp luật Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay nhằm làm sáng tỏ và xác định mối quan hệ pháp luật để biết rõ đó có phải là sự chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng hay không làm tiền đề minh chứng rõ ràng, đầy đủ hơn và là từ khóa quan trọng nhất về khái niệm chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng chỉ có hiệu lực khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện hay tiêu chuẩn của chấp nhận”. 1.1.2. Đặc điểm pháp lý của chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng Theo pháp luật Việt Nam nói chung và BLDS Việt Nam qua các thời kỳ 1995, BLDS 2005 và BLDS 2015 không có khái niệm hoặc định nghĩa cụ thể nào và đặc điểm pháp lý của chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, phân tích từ thực căn cứ pháp luật dân sự cũng như thực tiễn đời sống xã hội, đặc điểm pháp 9 lý cơ bản của chấp nhận hợp đồng thể hiện qua những hình thức sau đây: Thứ nhất, đặc điểm pháp lý là sự thỏa thuận thống nhất về ý chí và ý chí đó phải phù hợp ý chí, đường lối chủ trương của của Nhà nước, không đi ngược lại quy định pháp luật và đạo đức xã hội. Nếu sự chấp nhận mang tính ép buộc, không xuất phát trên tinh thần tự nguyện, không có sự thống nhất ý chí thì chấp nhận đó dù có được xác lập nhưng vẫn bị tuyên vô hiệu khi có yêu cầu. Thứ hai, mang đặc điểm của làm phát sinh hậu quả pháp lý. Khi chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng đồng nghĩa việc các bên tham gia đã thống nhất ý chí thông qua việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền nghĩa vụ dân sự của các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng. Theo đó, sự kiện pháp lý biến thành hành vi mà pháp luật quy định khi xuất hiện sẽ được xác lập, thay đổi hay chấm dứt và nhu cầu, mục đích tham gia các quan hệ dân sự nhằm thỏa mãn mục đích của mình. Ví dụ: Hợp đồng mua bán hàng hóa phát sinh hiệu lực làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của bên mua hàng hóa và bên bán hàng hóa. Bên mua phát sinh nghĩa vụ thanh toán tiền hàng còn bên bán phát sinh nghĩa vụ giao hàng. Thứ ba, đặc điểm quan trọng tiến quyết của chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng chính là chấp nhận các điều kiện, điều khoản cũng như thống nhất ý chí, điều kiện, điều khoản, quyền và nghĩa vụ mà các chủ thể tham gia hợp đồng quy định cho nhau và buộc các bên thực hiện theo đúng cam kết của mình. Sự thống nhất ý chí, quy định quyền, nghĩa vụ của các Bên ngoài quyền tự do của chủ thể còn phải phù hợp với ý chí của Nhà nước để Nhà nước kiểm soát, cho phép Hợp đồng dân sự và điều kiện chấp nhận hợp đồng phát sinh trên thực tế. Thứ tư, mang đặc tính mục đích giao kết, mục đích của của hợp đồng dân sự nói chung và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là thể hiện quyền, lợi ích hợp pháp, không trái đạo đức xã hội mà các bên, các chủ thể tham gia cùng hướng tới. Đặc điểm quan trọng nhất, dễ nhận diện khi và chỉ khi mục đích của chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng dân sự được chứng minh hoặc được thừa nhận là hợp pháp, 10 không trái đạo đức xã hội thì hợp đồng dân sự mới phát sinh hiệu lực, qua đó quyền và nghĩa vụ của các bên mới có thể thực hiện được trên thực tế. Hệ thống pháp luật Common Law chỉ ra rằng: “việc giao kết hợp đồng giữa những người ở xa nhau thường được nhắc tới với lời nhắn nhủ rằng chấp nhận nên được lập theo cách thức được gợi ý bởi đề nghị, chẳng hạn một đề nghị được gửi qua đường thư từ có thể là một gợi ý hợp lý rằng chấp nhận nên gửi theo đường thư từ nếu không có phương thức khác đã được gợi ý”. BLDS Quebec (Canada) khi nói đặc điểm của hợp đồng cũng như chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng nhấn mạnh về hiệu lực của hợp đồng có quy định rằng: “Điều 1440. Hợp đồng chỉ có hiệu lực giữa các bên kết ước; nó không ảnh hưởng tới người thứ ba, trừ khi luật có quy định. Điều 1441. Với sự kiện chết của một trong các bên, quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng chuyển cho người thừa kế của người chết, nếu bản chất của hợp đồng cho phép như vậy”. Điều 444 BLDS Liên bang Nga quy định về điều kiện cũng như đặc điểm của hợp đồng chính là địa điểm thực hiện giao kết hợp đồng: “Nếu không có nơi giao kết hợp đồng nào đã được chỉ ra trong hợp đồng, thì nơi giao kết hợp đồng được xem là nơi cư trú của công dân hoặc nơi cư sở của pháp nhân đã đưa ra đề nghị”. Tuy nhiên đặc điểm này khi xác định nơi giao kết hợp đồng ngày nay chỉ có tác dụng duy nhất liên quan tới hợp đồng có yếu tố nước ngoài để làm căn cứ lựa chọn luật áp dụng đối với hình thức hợp đồng. 1.1.3. Bản chất của chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng Nếu đề nghị giao kết Hợp đồng là sự thể hiện ý chí của bên đề nghị thì chấp nhận đề nghị giao kết Hợp đồng chính là sự thể hiện ý chí của bên chấp nhận đề nghị. Do đó, việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn về bản chất của chấp nhận giao kết hợp đồng là nền tảng quan trọng trong việc xác định quan hệ hợp đồng hay nói cách khác là cở sở xác lập hợp đồng trong tương lai. Theo đó, chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng xét về bản chất là sự đồng ý của bên được đề nghị đối với đề nghị giao kết hợp đồng. Về hình thức, chấp nhận đề nghị giao kết hợp 11 đồng có thể dưới hình thức rõ ràng (bằng văn bản hoặc bằng lời nói) hoặc bằng hành vi cụ thể trong những trường hợp nhất định. Về nội dung, chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng phải phù hợp với đề nghị giao kết hợp đồng. Một thông báo chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng có chứa đựng những sửa đổi, bổ sung so với đề nghị giao kết hợp đồng thường không được coi là chấp nhận mà là một đề nghị mới. Đây cũng là nhận thức được thừa nhận bởi hiều công trình khoa học về luật hợp đồng cũng như được ghi nhận tại nhiều đạo luật của các nước, các công ước và văn kiện có tính quốc tế về hợp đồng. Bản chất của chấp nhận hợp đồng chính là tự nguyện thỏa thuận giữa các chủ thể bình đẳng và không bình đẳng. Sự bình đẳng của các chủ thể hợp đồng bao gồm bình đẳng về sức mạnh kinh tế, bình đẳng về kinh nghiệm thương mại và bình đẳng về thông tin và tiếp cận thông tin. Trong những trường hợp này có thể nói các bên có điểm xuất phát là ngang nhau. Và việc pháp luật tôn trọng và thừa nhận sự tự nguyện thỏa thuận của họ sẽ mang lại những hiệu quả kinh tế như đã được đề cập đến ở trên. Bởi lẽ sự thừa nhận này của pháp luật khuyến khích các chủ thể phát huy tối đa năng lực của các chủ thể. Sự bình đẳng nói trên giữa các chủ thể trong giao dịch chỉ là tương đối và chỉ tồn tại trong thời kỳ tự do kinh tế (laissez- faire), khi mà lý thuyết bàn tay vô hình được coi là nền tảng của kinh tế học. Nghiên cứu cho thấy rằng, vào thời kỳ laissez- faire, các chủ thể có tiềm lực kinh tế tương đương, bởi gần như tất cả đều có điểm xuất phát như nhau, độc quyền và vị trí thống lĩnh thị trường chưa tồn tại, phạm vi hoạt động thương mại chưa đủ rộng và kinh nghiệm trong hoạt động thương mại của các chủ thể, của các nhà buôn là tương đương bởi lẽ các nhà buôn cùng mới tham gia vào thị trường. Cũng vào thời kỳ này có thể nói mức độ có và tiếp cận thông tin như nhau, bởi lẽ khi đó vì khoa học công nghệ chưa phát triển nên cấu trúc của hàng hóa đơn giản. Hơn nữa khi tiềm lực kinh tế và kinh nghiệm ở mức độ tương đương thì sự bất đối xứng về thông tin cũng chưa gây hại cho các chủ thể và cho thị trường. 12 Maynard J. Keynes đã nhận xét rằng, “Các đặc trưng của trường hợp đặc biệt do lý thuyết cổ điển giả định không phải là những đặc trưng của xã hội kinh tế mà trong đó chúng ta đang sống”. Vấn đề này về sau cũng được John Jawls đề cập đến trong Lý thuyết về công lý. John Jawls cho rằng, “các thỏa thuận bình đẳng chỉ có thể đạt được khi không ai có thể biết được vị trí của mình trong xã hội, không ai có thể biết được về năng lực của họ, phẩm chất của họ so với người khác, không ai thông minh hơn ai”. Ông giả thiết là “tất cả các chủ thể đứng sau bức màn vô minh và không ai có bất kỳ lợi thế hơn ai. Cũng chính vì vậy nên không ai có hành vi cơ hội. Và vì tất cả đều có vị thế ngang nhau nên mọi thỏa thuận đều rõ ràng, minh bạch. Tuy nhiên bức màn vô minh chỉ là giả định. Thực tế thì không có sự bình đẳng thực sự giữa các chủ thể. Vì vậy thỏa thuận thường cũng khó có thể bình đẳng. Ngoài ra, khi nghiên cứu bản chất của chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng trên nguyên tắc tự nguyện tham gia giao dịch một cách tự do và tự nguyên nhưng không có tự do. Nếu nói, bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận. Cả lý thuyết và thực tiễn cho thấy rằng, tồn tại hai loại thỏa thuận: i) thỏa thuận trên cơ sở tự nguyện được pháp luật thừa nhận và bảo vệ; và ii) thỏa thuận không được hình thành trên cơ sở tự nguyện thì không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, có nghĩa là loại thỏa thuận này không có giá trị pháp lý ràng buộc các chủ thể. Những hợp đồng được ký kết do bị lừa dối, đe dọa hoặc bị nhầm lẫn được coi là trái nguyên tắc tự do tự nguyện thỏa thuận và là căn cứ để yêu cầu tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Với những trường hợp này thì pháp luật của các nước có cách tiếp cận giống nhau và khá rõ ràng. Điều 4, BLDS 2005 của Việt Nam quy định: Quyền tự do cam kết thỏa thuận trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự được pháp luật bảo đảm, nếu cam kết, thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội”. Điều 11 Luật Thương mại 2005 của Việt Nam cũng quy định: i) Các bên có quyền tự do thỏa thuận không trái với các quy định của pháp luật, thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội để xác lập quyền và nghĩa vụ của các bên 13 trong hoạt động thương mại, Nhà nước tôn trọng và bảo hộ các quyền đó; và ii) trong hoạt động thương mại, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được thực hiện hành vi áp đặt, cưỡng ép, đe dọa, ngăn cản bên nào. Đây cũng chính là bản chất cơ bản nhất của chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Như vậy, trên cơ sở phân tích bản chất và thực chất của chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng pháp luật cần phải thừa nhận và tôn trọng quyền tự do, tự định đoạt. Tuy nhiên, xét về bản chất, sự tự nguyện tham gia giao dịch của các bên giao dịch đặc biệt là chấp nhận đề nghị chỉ là biểu hiện ý chí của họ ra bên ngoài. Ý chí đó có thể tự do và cũng có thể không tự do, hệ quả là tồn tại tự nguyện tự do và tự nguyện không tự do. Mặc dù cả hai tình huống trên đây cũng được coi là sự tự nguyện tham gia giao dịch, tuy nhiên bản chất và hậu quả hoàn toàn khác nhau và vì vậy cần phải có sự đánh giá về mặt pháp lý khác nhau. Để làm được điều đó cần thiết phải xem xét bản chất của chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng không những chỉ từ góc độ luật học mà còn cần phải xem xét chúng từ góc độ kinh tế học, có như vậy mới có cách nhìn vấn đề tổng quát hơn và khách quan hơn. 1.1.4. Ý nghĩa của chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng Về lý thuyết cũng như trong thực tế đời sống xã hội, sẽ không thể đi đến hợp đồng nếu không có sự chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng và hợp đồng không thể tồn tại nếu thiếu đi sự tồn tại của tự do ý chí và sự thiện chí, trung thực. Sự gặp gỡ của ý chí các bên để đi đến giao kết hợp đồng là sự chấp nhận hợp đồng, là điều kiện để một hợp đồng được xác lập. Tuy nhiên, cần phải có sự tồn tại của điều kiện tiên quyết, đó là ý chí giao kết phải hiện hữu. Luật quốc tế và pháp luật của Pháp, Đức, của Anh - Mỹ, nói chung và các nước có nền pháp luật tiên tiến thừa nhận rằng “sự hiện hữu của ý chí chỉ được ghi nhận một khi nó được bộc lộ ra ngoài và ở trong tình trạng có thể được người khác nhận biết”. Pháp luật nước ta hiện nay bằng việc vận dụng kinh nghiệm xây dựng và thi hành pháp luật của các nước, các khái niệm căn bản nhưng mang tính nguyên tắc chung về đề nghị và “chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng để mô tả và điều chỉnh quá trình 14 bộc lộ đi đến sự gặp gỡ ý chí của các bên trong quan hệ kết ước”. BLDS 2015 quy định: “các chủ thể được tự do giao kết hợp đồng nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể có thể thỏa mãn nhu cầu vật chất cũng như tinh thần”. Xuất phát từ cơ sở và nguyên tắc này, mọi tổ chức, mọi cá nhân khi có đủ các điều kiện tư cách chủ thể đều có thể tham gia giao kết bất kỳ một hợp đồng hay giao dân sự nào nếu muốn. Ý nghĩa của chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là nguyên tắc tối thượng trong quan hệ hợp đồng và không có nó thì các chấp nhận đề nghị và thỏa thuận giao kết sẽ trở lên vô nghĩa vì không tồn tại một quan hệ nghĩa vụ nào có thể tạo thành trong quá trình đưa ra nội dung chấp nhận lời đề nghị giao kết hợp đồng. Do đó, ý nghĩa của chấp nhận hợp đồng không chỉ về phương diện triết học mà cả phương diện đạo đức và phương diện kinh tế. Về phương diện triết học, ý nghĩa của triết học là nền tảng dựa trên thực tế của nguyên tắc “trên nền tảng của tự do cá nhân và không có ai có thể bị ép buộc thực hiện hay không thực hiện một việc nào đó ngoài ý chí mong muốn của họ”. Về phương diện đạo đức, ý nghĩa của chấp nhận giao kết hợp đồng hàm chứa “tự do ý chí, không ai có thể bị ép buộc làm hay không làm một công việc mà không xuất phát từ lợi ích của họ”. Vì lẽ đó, bản chất thực của hợp đồng được xem là sản phẩm của ý chí được kết tạo từ lợi ích của các bên mà xuất phát điểm từ lời đề nghị và kết thức bằng chấp nhận đề nghị. Về phương diện kinh tế, ý nghĩa của chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng thể hiện “xuất phát từ nhận định rằng lợi ích cá nhân là động lực thúc đẩy các hoạt động kinh tế”. Đây là lý do để ý chí phải được đề cao vì lợi ích của mình trong xã hội tự do mang lại những lợi ích chung đảm bảo tự do, thiện chí và trung thực trong giao kết hợp đồng cũng như ý nghĩa đích thực của giao kết. Như vậy, chấp nhận giao kết hợp đồng mang ý nghĩa quan trọng, là nền tảng quan trọng để đi đến hợp đồng và như đã phân tích, chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng mang ý nghĩa đầy đủ khi có sự gặp gỡ và sự tồn tại của tự do ý chí và sự thiện chí, trung thực. Theo đó, sự gặp gỡ của ý chí các bên để đi đến giao 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan