Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn ...

Tài liệu Luận văn các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn tỉnh bắc ninh

.PDF
77
95
98

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ MINH SỰ CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, 2020 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ MINH SỰ CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN VĂN LUYỆN HÀ NỘI, 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Minh Sự MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI ............................... 6 1.1. Những vấn đề chung về xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội ................ 6 1.2. Các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.............. 11 1.3. Khái quát lịch sử pháp luật Việt Nam về áp dụng biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. ............................................................... 19 Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH .......................................................................................................................... 24 2.1. Các quy định của pháp luật hình sự hiện hành về áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội............................................. 24 2.2 Thực tiễn áp dụng biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.................................................................... 30 2.3. Những hạn chế, bất cập của pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. .......................................................................................................... 38 Chương 3: CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI ...................... 53 3.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh ............................. 53 3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật về áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. ........... 59 3.3. Các giải pháp cụ thể bảo đảm hiệu quả áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên thực tiễn. .................................. 63 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 66 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 68 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS: BLTTHS: Bộ luật hình sự Bộ luật tố tụng hình sự UBND: Ủy ban nhân dân TAND: Tòa án nhân dân DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Bảng thống kê tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện được đưa ra xét xử trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015 đến 2019. [33] ........................................................................................ 31 Bảng 2.2.Tình hình áp dụng chế tài đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ năm 2015 đến năm 2019 của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Bắc Ninh. [33] .................................................................................................. 31 Bảng 2.3: Bảng tình hình áp dụng chế tài đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên toàn quốc từ năm 2015 đến 2019. [34]............................... 32 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Giáo dục và rèn luyện thanh niên “vừa hồng, vừa chuyên” là nội dung vừa cơ bản, vừa xuyên suốt được Đảng và Nhà nước luôn quan tâm, coi đó không chỉ là nhiệm vụ riêng của tổ chức, đoàn thể nào mà là nhiệm vụ chung của toàn xã hội. Hiến pháp năm 2013 ra đời có dành một chương riêng về quyền trẻ em và được cụ thể hóa bằng Luật trẻ em 2016, Luật hình sự năm 2015… đã khẳng định Đảng và Nhà nước ta đang ngày càng đẩy mạnh các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ em nhằm giáo dục, bồi dưỡng thanh thiếu niên trở thành lực lượng chính trị hùng hậu, nguồn nhân lực kế cận đưa nước ta ngày càng phát triển sánh vai cùng các cường quốc năm châu như mong mỏi của Bác Hồ. Từ khi thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đời sống kinh tế, xã hội của đất nước ta đã có nhiều thay đổi tích cực. Tuy nhiên những ảnh hưởng từ mặt trái của nền kinh tế thị trường, từ những luồng tưởng, văn hóa độc hại xâm nhập thông qua hội nhập quốc tế đã tác động tiêu cực đến tư tưởng, lối sống của nhân dân cả nước. Tình trạng người dưới 18 tuổi phạm tội có xu hướng tăng cao và diễn biến phức tạp hơn. Mặc dù Việt Nam là nước đầu tiên của châu Á và là nước thứ hai trên thế giới tham gia Công ước về quyền trẻ em, nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong nước được ban hành nhằm bảo vệ trẻ em như các vấn đề về nuôi dưỡng, giáo dục, chăm sóc, lao động…Tuy nhiên đối với vấn đề người dưới 18 tuổi phạm tội, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là kiên quyết, nghiêm khắc xử lý nhưng trên tinh thần giáo dục, răn đe nhằm giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh để trở thành công dân có ích cho xã hội. Bắc Ninh là một tỉnh đang phát triển mạnh về kinh tế và quá trình đô thị hóa, có địa hình tiếp giáp với nhiều tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm khu vực 1 phía Bắc của nước ta nên tình hình tội phạm khá phức tạp, đặc biệt là tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện ngày càng gia tăng, song lĩnh vực này chưa được đầu tư nghiên cứu nhiều gắn với địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Trước tình hình đó học viên chọn đề tài “Các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” để làm luận văn tốt nghiệp của mình. 1. Tình hình nghiên cứu đề tài Có một số luận văn thạc sĩ, một số giáo trình giảng dạy, bài viết trên tạp chí và một số sách chuyên khảo đã nghiên cứu hiện nay có các công trình đáng chú ý như: - Nguyễn Thị Tố Nga (2011), Các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của pháp luật hình sự, Luận văn thạc sĩ luật học, khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội. - Đặng Vũ Huân (1993), Các biện pháp tư pháp với người chưa thành niên, Đặc san pháp luật, (số 6). - Lê Cảm - Đỗ Thị Phượng (2004), Tư pháp hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, những khía cạnh pháp lý hình sự, Tạp chí Tòa án nhân dân, (số 20). - Lưu Hoài Bảo (2014), Một số giải pháp phòng chống tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện, Tạp chí kiểm sát, (số 14). - Trần Văn Dũng (2005), Những đặc điểm cơ bản về trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam, Tạp chí Tòa án nhân dân, (số 22). - Hoàng Minh Khôi (2012), Một số thực trạng và giải pháp đổi mới các biện pháp xử lý hành chính người dưới 18 tuổi vi phạm pháp luật, Tạp chí phát triển nhân lực, (số 1, Tr 27). 2 - Đặng Thanh Nga (2008), Một số đặc điểm tâm lý của người dưới 18 tuổi phạm tội, Tạp chí luật học, (số 1). Trong các công trình trên, ở mức độ khác nhau nhưng nhìn chung chưa nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện và hệ thống về việc áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Vì vậy tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài này nhằm góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn đồng thời đề ra giải pháp nhằm giải quyết những vấn đề còn bất cập và đề xuất những giải pháp hoàn thiện hơn nữa đối với chế định này. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề sau: - Những vấn đề lý luận pháp luật và thực tiễn áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Bắc Ninh. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phân tích, làm rõ lý luận về biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi, nghiên cứu thực tiễn hoạt động xét xử sơ thẩm áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong phần chung Chương XII BLHS Việt Nam hiện hành. Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại Tòa án nhân dân hai cấp của tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ năm 2015- 2019. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu cơ sở lý luận và những nội dung cơ bản của hệ thống các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo hệ thống pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật; đánh giá thực trạng và đề xuất giải 3 pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng các quy định về biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định pháp luật Hình sự. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. - Phân tích thực tiễn áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn tại tỉnh Bắc Ninh. - Đề xuất các Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định pháp luật về các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên học thuyết Mác - Lênin, quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, đường lối, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta về công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp: Phân tích, tổng hợp ở chương I để nêu và phân tích cơ sở lý luận, phương pháp thống kê, so sánh…được áp dụng ở chương II để phân tích và đánh giá thực tiễn xét xử áp dụng đồng thời sử dụng phương pháp dự báo bằng phương pháp chuyên gia để xây dựng kiến nghị những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận để áp dụng trong thực tiễn xét xử các biện pháp tư pháp cho những Thẩm phán trực tiếp xét xử các vụ án hình sự nói chung và cho những Thẩm phán xét xử các vụ 4 án đối với người phạm tội dưới 18 tuổi nói riêng đặc biệt là những Thẩm phán trẻ mới bổ nhiệm của Tòa án nhân dân cấp huyện, tỉnh Bắc Ninh. 7. Kết cấu của luận văn Phần nội dung luận văn được chia thành 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Chương 2: Quy định chung của pháp luật hình sự hiện hành và thực tiễn áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại tỉnh Bắc Ninh. Chương 3: Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định pháp luật về các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI 1.1. Những vấn đề chung về xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm tâm lý của người dưới 18 tuổi phạm tội Theo BLHS năm 1999 thì trước đây chúng ta hay sử dụng khái niệm “người chưa thành niên phạm tội” thay vì dùng khái niệm “người dưới 18 tuổi phạm tội” như hiện nay. Để có thể hiểu rõ về chính sách hình sự và các biện pháp xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội, trước hết chúng ta cần phải làm rõ các khái niệm, đặc điểm tâm sinh lý của người dưới 18 tuổi cũng như nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi theo quy định pháp luật. Trong các văn bản pháp luật trên đều quy định độ tuổi của người dưới 18 tuổi là dưới 18 tuổi và quy định cụ thể những chế định pháp luật đối với người dưới 18 tuổi trong từng lĩnh vực cụ thể như Điều 90 BLHS năm 2015 và Điều 21 Bộ luật dân sự năm 2015. Khái niệm người dưới 18 tuổi khác với khái niệm trẻ em “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi” theo Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em năm 2004. Tùy từng lứa tuổi cụ thể, Nhà nước và xã hội quan tâm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục tạo điều kiên tốt nhất để người dưới 18 tuổi phát triển khỏe mạnh, có ích cho xã hội. Mặc dù có sự thay đổi về mặt thuật ngữ nhưng về bản chất vẫn giữ nguyên độ tuổi làm cho quy định này rõ ràng người dưới 18 tuổi là người dưới 18 tuổi. Như vậy, người dưới 18 tuổi hay người dưới 18 tuổi phạm tội là đối tượng của chủ thể tội phạm. Năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi của con người không hình thành ngay khi sinh ra mà được hình thành, tích lũy theo thời gian và vốn 6 kinh nghiệm sống mà có được. Do đó, nội dung tuổi chính là tiền đề để đánh giá tính chất, mức độ trưởng thành của cá nhân theo chuẩn mực chung của quốc tế thì người dưới 18 tuổi cần được bảo vệ đặc biệt. Từ sự phân tích trên có thể hiểu: Người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển hoàn thiện về thể chất, tinh thần, tâm sinh lý và nhân cách, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý. Người dưới 18 tuổi phạm tội là người từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi, có năng lực trách nhiệm hình sự, có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định là tội phạm trong BLHS. * Đặc điểm tâm lý của người dưới 18 tuổi Ở từng giai đoạn phát triển của con người, tùy mỗi thời kỳ là khác nhau mà đặc biệt là giai đoạn dưới 18 tuổi là giai đoạn diễn ra những biến cố rất đặc biệt, đó là sự phát triển cơ thể mất cân bằng nên dẫn đến tình trạng mất cân bằng tạm thời trong cảm xúc của người chưa thành niên. [25,tr.39] - Về trạng thái cảm xúc: Người dưới 18 tuổi là người đang trong quá trình phát triển cả về sinh lí, tâm lí và nhận thức, kinh nghiệm. Rất nhiều trường hợp, do xuất phát từ những mâu thuẫn nhỏ, nhưng không kiềm chế được sự nóng giận quá khích mà người dưới 18 tuổi đã phạm phải sai lầm và thực hiện hành vi phạm tội. - Về nhận thức pháp luật: Do người dưới 18 tuổi đang trong giai đoạn phát triển rất mạnh mẽ về mặt sinh học nhưng lại thiếu cân đối về mặt lý trí. Nhiều trường hợp người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi phạm tội chỉ để thỏa mãn nhu cầu, cảm xúc nhất thời không đúng đắn của mình mà không quan tâm đến hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Các em khi được giải thích, phân tích cụ thể thì mới hiểu rằng hành vi của mình là phạm tội. 7 - Về nhu cầu độc lập: Các hành vi như biểu hiện như ngang bướng, cố chấp, gây gổ, … Tất cả những hành vi này của người dưới 18 tuổi đều mang tính chất của hành vi lệch chuẩn, dễ dẫn tới các hành vi phạm tội của các em. - Về nhu cầu khám phá cái mới: Sự tò mò và khám phá cái mới là một trong những nguyên nhân dẫn tới hành vi phạm tội của người dưới 18 tuổi. Bởi vì các em thiếu sự hướng dẫn, kiểm tra, giám sát của gia đình, xã hội, không tự chủ được bản thân, hành động theo cảm tính và không nhận thức được đúng sai. Để có được sự nhận thức một cách toàn diện về tự nhiên, xã hội và chính mình phải được hình thành và phát triển ở mỗi giai đoạn phát triển của con người trong quá trình sống, hoạt động trong xã hội. Khoa học đã chứng minh, khi đến 18 tuổi thì con người mới hiểu được quyền và nghĩa vụ một cách đầy đủ để cân nhắc được hậu quả của hành vi của mình tác động đến xã hội như thế nào. Do vậy chúng ta nhận thấy hai khuynh hướng nổi bật liên quan đến tội phạm và khả năng giáo dục, cải tạo của họ. Đó là họ dễ bị người khác dụ dỗ, kích động, thúc đẩy vào việc thực hiện tội phạm nhưng do ý thức phạm tội của họ chưa cao và chưa chắc chắn nên cũng dễ uốn nắn, cải tạo, giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội. 1.1.2. Nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội Trên cơ sở những đặc điểm tâm lý của người dưới 18 tuổi và thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện phải dựa trên các nguyên tắc quy định trong Điều 91 của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Có thể thấy nhà làm luật đã nêu ra rất nhiều những nguyên tắc từ nguyên tắc chung đến những nguyên tắc rất cụ thể trong việc xử lý trách nhiệm hình sự đối với nhóm tội phạm là người dưới 18 tuổi nhưng đều xoay quanh nguyên tắc cơ bản nhất quy định tại khoản 1 Điều luật này. 8 Nguyên tắc thứ nhất, Nhóm người dưới 18 tuổi là những nhóm đối tượng vẫn cần sự quan tâm, che chở nhiều từ xã hội để họ có thể trưởng thành về mặt thể chất và nhận thức về xã hội. Có như vậy mới giúp họ nhận thức ra được lỗi lầm và sửa chữa. Tính bền vững của ý thức phạm tội trong những trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội rất khác nhau và ảnh hưởng đến sự lựa chọn các biện pháp xử lý áp dụng đối với họ. Các cơ quan tư pháp cần làm rõ nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm. Những nguyên nhân và điều kiện phạm tội có thể xuất phát từ môi trường xã hội hoặc từ chính bản thân người dưới 18 tuổi phạm tội. Đây là nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa, các biện pháp áp dụng với người dưới 18 tuổi phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục họ, làm cho họ thấy được tính chất của tội phạm, sự nghiêm minh của pháp luật, bản chất nhân đạo của các biện pháp áp dụng. Chỉ trong những trường hợp phạm tội có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội cao, ý thức phạm tội của họ sâu sắc mới cần thiết phải áp dụng các biện pháp trừng trị đối với họ. Nguyên tắc thứ hai, được quy định tại Khoản 2 Điều 9 BLHS năm 2015 là nguyên tắc mở rộng khả năng miễn trách nhiệm hình sự. Nguyên tắc này cho thấy khả năng được miễn trách nhiệm hình sự của nhóm tội phạm là người dưới 18 tuổi rộng hơn nhiều so với nhóm tội phạm thông thường. Điều kiện để được miễn trách nhiệm hình sự cũng không quá khắt khe, nếu người phạm tội dưới 18 tuổi phạm tội chỉ cần có nhiều tình tiết giảm nhẹ (2 tình tiết trở lên) và khắc phục phần lớn hậu quả là có thể xem xét đến việc miễn trách nhiệm hình sự, thay vào đó là sẽ áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục. Nguyên tắc thứ ba, là nguyên tắc hạn chế tối đa việc truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 3 Điều 91 BLHS năm 2015 thì chỉ trong những trường hợp cần thiết mới truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và phải căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất 9 nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. Như vậy, có thể khẳng định chính sách của Nhà nước đối với nhóm người dưới 18 tuổi phạm tội thông qua việc thể chế thành các quy định của pháp luật hình sự là rất rõ ràng, thể hiện tính nhân đạo sâu sắc. Việc truy cứu TNHS chỉ đặt ra khi nó thực sự cần thiết và xuất phát từ yêu cầu phòng ngừa tội phạm. Nguyên tắc thứ tư, là nguyên tắc hạn chế áp dụng hình phạt: Đối với nhóm người dưới 18 tuổi phạm tội thì có nhiều biện pháp để xử lý. Tòa án có thể xem xét áp dụng chế tài xử lý theo thứ tự sẽ là miễn trách nhiệm hình sự =>Áp dụng một trong các biện pháp giám sát giáo dục =>Áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng => Áp dụng hình phạt. Nguyên tắc thứ năm, là nguyên tắc không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Xuất phát từ nguyên tắc chung là nhằm mục đích giáo dục, cải tạo, giúp họ sửa chữa sai lầm để trở thành công dân có ích cho xã hội. Nếu áp dụng hình phạt chung thân hoặc tử hình thì mục đích trên sẽ không thực hiện được vì hai hình phạt trên là hình phạt cao nhất, nó mang tính trừng trị cao hơn là giáo dục. Bản thân nguyên tắc này đã cho chúng ta thấy rõ giới hạn của hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cho dù có thực hiện hành vi vi phạm pháp luật là loại tội phạm nào, thuộc chương nào của BLHS và tình tiết tăng nặng có nhiều đến đâu thì hình phạt cao nhất mà họ phải chịu chỉ là hình phạt tù có thời hạn.xuất phát từ nguyên tắc chung là nhằm mục đích giáo dục, giúp họ sửa chữa sai lầm để trở thành công dân có ích cho xã hội. Nếu áp dụng hình phạt chung thân hoặc tử hình thì mục đích trên sẽ không thực hiện được vì hai hình phạt trên là hình phạt cao nhất, nó mang tính trừng trị cao hơn là giáo dục. 10 Nguyên tắc thứ sáu, là nguyên tắc hạn chế áp dụng hình phạt tù có thời hạn quy định tại khoản 6 Điều 91 BLHS năm 2015. Như vậy, nếu áp dụng các biện pháp giáo dục khác hoặc các hình phạt khác nhẹ hơn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhưng không có giá trị răn đe, phòng ngừa thì Tòa án mới áp dụng hình phạt tù có thời hạn. Tuy vậy, hình phạt tù có thời hạn một khi đã được xác định áp dụng với người dưới 18 tuổi phạm tội vẫn bị giới hạn bởi những ràng buộc nhất định chứ không được áp dụng theo như những trường hợp thông thường. Bên cạnh đó, người dưới 18 tuổi còn được hưởng một đặc quyền nữa là sẽ không bị áp dụng hình phạt bổ sung trong tất cả các trường hợp với mọi loại tội phạm. Nguyên tắc thứ bẩy, là nguyên tắc không tính xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm đối với người dưới 16 tuổi phạm tội. Nguyên tắc này có một đặc điểm đặc biệt là không áp dụng cho tất cả những người phạm tội là người dưới 18 tuổi mà chỉ áp dụng cho nhóm nhỏ là từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi. Đối với nhóm người chưa đủ 16 tuổi phạm tội này thì án đã tuyên không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm nên nhóm đối tượng này không bao giờ bị xem là có án tích mặc dù đã bị kết án. Khác với nhóm người từ 16 tuổi trở lên nếu họ phạm tội đã bị kết án và chưa xóa án tích mà tiếp tục thực hiện một tội phạm mới nếu thỏa các điều kiện kèm theo thì có thể được xem là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm (tình tiết tăng nặng TNHS). 1.2. Các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội 1.2.1. Các biện pháp tư pháp chung cho mọi tội phạm theo quy định Điều 46 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. 1.2.1.1. Khái niệm biện pháp tư pháp Giáo trình luật hình sự Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội đưa ra khái niệm: “Biện pháp tư pháp là các biện pháp hình sự được BLHS quy định, 11 do các cơ quan tư pháp áp dụng đối với người có hành vi nguy hiểm cho xã hội, có tác dụng hỗ trợ hình phạt”. [30,tr.322] Khoản 1 Điều 46 BLHS hiện hành quy định các biện pháp tư pháp đối với người phạm tội. * Đặc điểm của biện pháp tư pháp: - Thứ nhất, biện pháp tư pháp là biện pháp cưỡng chế Nhà nước được quy định trong Luật hình sự. Bởi lẽ, về bản chất thì việc áp dụng biện pháp tư pháp không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người bị áp dụng mà là quyền của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự mặc dù người bị áp dụng biện pháp tư pháp (bồi thường thiệt hại) có thể thỏa thuận với người được bồi thường. Tuy nhiên, quyền áp dụng biện pháp tư pháp của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự bị giới hạn bởi quy định của Nhà nước về biện pháp tư pháp được thể hiện trong BLHS. Theo đó, Nhà nước quy định biện pháp nào là biện pháp tư pháp khi ban hành BLHS. Cơ quan tiến hành tố tụng hình sự căn cứ vào quy định của Nhà nước về biện pháp tư pháp trong BLHS để áp dụng đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhằm hỗ trợ hoặc thay thế hình phạt. - Thứ hai, biện pháp tư pháp mang tính cưỡng chế ít nghiêm khắc hơn hình phạt. Các biện pháp cưỡng chế được quy định trong BLHS bao gồm hình phạt và biện pháp tư pháp. Trong đó, hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Khi áp dụng hình phạt đối với người phạm tội là họ bị tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích và hậu quả phải mang án tích. - Thứ ba, biện pháp tư pháp là một dạng của trách nhiệm hình sự và là một hình thức thực hiện trách nhiệm hình sự được thể hiện trong văn bản của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Với tư cách là dạng của trách nhiệm hình sự, biện pháp tư pháp chỉ xuất hiện khi có việc phạm tội. Việc áp dụng biện pháp 12 tư pháp được thể biện trong văn bản tố tụng hình sự như bản án của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát. - Thứ tư, về thẩm quyền thì biện pháp tư pháp có thể do Tòa án hoặc cơ quan tiến hành tố tụng khác áp dụng tùy thuộc vào giai đoạn tiến hành tố tụng. Theo đó, chỉ biện pháp tư pháp buộc công khai xin lỗi người bị hại và biện pháp tư pháp thay thế hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là do một chủ thể duy nhất là Tòa án có quyền áp dụng. Còn các biện pháp tư pháp chung hỗ trợ hình phạt thì có thể do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án áp dụng trong tất cả các giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự. - Thứ năm, biện pháp tư pháp không có mục đích tước đoạt mà chỉ nhằm hạn chế quyền tự do của người phạm tội hoặc thay thế hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Tuy nhiên, biện pháp tư pháp (tịch thu tài sản) lại nhằm mục đích tước đoạt tài sản của người bị áp dụng và biện pháp tư pháp (trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại) lại nhằm mục đích khôi phục hoặc bồi thường thiệt hại về tài sản cho người bị thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. - Thứ sáu, trong vụ án cụ thể, việc áp dụng biện pháp tư pháp đồng thời với việc xử lý vật chứng. Theo đó, đối với vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật hoặc tiền do phạm tội mà có, vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành thì khi áp dụng biện pháp tư pháp, cơ quan có thẩm quyền đồng thời xử lý vật chứng theo quy định tại Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. 1.2.1.2. Phân loại biện pháp tư pháp Phân loại các biện pháp tư pháp là việc chia các biện pháp tư pháp thành các nhóm theo căn cứ khác nhau. Căn cứ vào đối tượng bị áp dụng và ý nghĩa thay thế hình phạt có thể chia các biện pháp tư pháp thành hai nhóm là: các biện pháp tư pháp chung áp dụng đối với mọi người phạm tội và chỉ nhằm hỗ trợ 13 hình phạt; các biện pháp tư pháp thay thế hình phạt chỉ áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. - Các biện pháp tư pháp chung áp dụng đối với mọi người phạm tội và chỉ nhằm hỗ trợ hình phạt là những biện pháp tư pháp được quy định tại Điều 46 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và áp dụng đối với tất cả người đã thành niên và người dưới 18 tuổi phạm tội. Các biện pháp tư pháp chung quy định tại Điều 46 BLHS bao gồm: “Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; Buộc công khai xin lỗi; Bắt buộc chữa bệnh.” - Các biện pháp tư pháp chỉ áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm thay thế hình phạt là những biện pháp được quy định tại Điều 95, 96 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và có thể được Tòa án áp dụng đối với người dưới 18 tuổi bị kết án. Các biện pháp tư pháp chỉ áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội bao gồm: Giáo dục tại xã, phường, thị trấn; Đưa vào trường giáo dưỡng. 1.2.1.3. Áp dụng biện pháp tư pháp chung a) Áp dụng biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm Đối tượng áp dụng biện pháp tư pháp này là vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm. Vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm bao gồm: Vật, tiền là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội; Vật, tiền do phạm tội hoặc do mua, bán, đổi chác những thứ ấy mà có; Vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành. b) Áp dụng biện pháp trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại Theo quy định tại khoản 1 Điều 48 BLHS năm 2015 thì “Người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho người sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại vật chất đã được xác định do 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan