Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn biện pháp tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn...

Tài liệu Luận văn biện pháp tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn quận thủ đức, thành phố hồ chí minh

.PDF
91
151
147

Mô tả:

TRẦN THỊ HUYỀN VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ HUYỀN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ BIỆN PHÁP TẠM GIAM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC KHÓA II/2017 HÀ NỘI, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ HUYỀN BIỆN PHÁP TẠM GIAM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.380.104 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN THANH DƯƠNG HÀ NỘI, năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi – Trần Thị Huyền - xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu được sử dụng trong Luận văn này là trung thực. Những kết luận khoa học của Luận văn này chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Trần Thị Huyền DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 1. BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự 2. BPNC : Biện pháp ngăn chặn 3. BPTG : Biện pháp tạm giam 4. CQĐT : Cơ quan điều tra 5. CQTHTT : Cơ quan tiến hành tố tụng 6. HĐXX : Hội đồng xét xử 7. KSV : Kiểm sát viên 8. Nxb : Nhà xuất bản 9. TAND : Tòa án nhân dân 10. TP.HCM : Thành phố Hồ Chí Minh 11. TTHS : Tố tụng hình sự 12. VAHS : Vụ án hình sự 13. VKS : Viện kiểm sát 14. VKSND : Viện kiểm sát nhân dân 15. XHCN : Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC BẢNG BIỂU PHỤ LỤC Bảng 2.1. Thống kê tình hình phạm pháp hình sự trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018); Bảng 2.2. Thống kê số bị can, bị cáo bị bị áp dụng biện pháp ngăn chặn theo quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018); Bảng 2.3. Thống kê kết quả điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự cấp huyện trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018); Bảng 2.4. Thống kê các trường hợp Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức không phê chuẩn lệnh tạm giam, lệnh bắt tạm giam (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018); Bảng 2.5. Thống kê các trường hợp người bị tạm giam được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác hoặc được trả tự do trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018); Bảng 2.6. Tổng hợp tình hình thi hành các Lệnh, quyết định về biện pháp tạm giam của các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018); Bảng 2.7. Thống kê kiến nghị của VKSND quận Thủ Đức với các cơ quan có thẩm quyền trên địa bàn trong việc tạm giam thông qua công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018). MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIAM ..... 6 1.1. Những vấn đề lý luận về biện pháp tạm giam ...................................................... 6 1.2. Quy định về biện pháp tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành .................................................................................................................... 17 CHƯƠNG 2. TÌNH HÌNH, ĐẶC ĐIỂM CÓ LIÊN QUAN VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIAM TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.......................................................... 31 2.1. Khái quát tình hình kinh tế, xã hội và tình hình tội phạm trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh ............................................................................ 31 2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về biện pháp tạm giam của các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh ........................... 33 CHƯƠNG 3. NHU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO ĐẢM VIỆC ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .................................. 60 3.1. Nhu cầu về bảo đảm áp dụng pháp luật về biện pháp tạm giam ........................ 60 3.2. Giải pháp nhằm bảo đảm áp dụng pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp tạm giam trong thời gian tới ...................................................................................... 68 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 80 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 81 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tạm giam là một trong những BPNC trong TTHS có vai trò quan trọng trong việc kịp thời ngăn chặn tội phạm, cũng như bảo đảm cho các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự được diễn ra một cách thuận lợi, hiệu quả. Tuy nhiên, BPNC này có phát huy tối đa vai trò tích cực của mình đối với quá trình giải quyết VAHS nói riêng và yêu cầu của công cuộc phòng, chống tội phạm nói chung hay không thì phụ thuộc rất nhiều vào sự đúng đắn trong nhận thức cũng như áp dụng pháp luật về BPTG của các cơ quan, người có thẩm quyền. Chính vì thế, đây chính là yêu cầu đối với tất cả cơ quan, người THTT trong lĩnh vực hình sự trên cả nước nói chung và ở từng địa phương nói riêng trong đó có quận Thủ Đức, TP.HCM. Là một quận ngoại thành của TP.HCM, quận Thủ Đức ngày nay đang có những bước chuyển mạnh mẽ cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, thu hút lượng lớn dân nhập cư đến sinh sống và làm việc. Mặt trái của sự phát triển đó là tình hình tội phạm trên địa bàn này trong thời gian qua có diễn biến rất phức tạp. Mặc dù số vụ phạm tội tăng giảm hàng năm không đều nhưng tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm ngày càng cao, tạo áp lực đáng kể cho CQĐT, VKS, TA quận Thủ Đức trong việc điều tra, khám phá, xử lý tội phạm và người phạm tội đảm bảo nhanh chóng, khách quan, chính xác. Thực tiễn công tác TTHS ở địa phương này cho thấy, tạm giam là BPNC được các cơ quan THTT áp dụng một cách thường xuyên trong quá trình giải quyết phần lớn VAHS xảy ra ở địa phương. Bên cạnh những giá trị tích cực của việc áp dụng pháp luật về BPTG một cách đúng đắn, vẫn có lúc, có nơi còn xảy ra tình trạng áp dụng BPTG không đảm bảo về căn cứ, đối tượng, thẩm quyền, thời hạn theo quy định pháp luật. Điều đó không chỉ gây ra tác động tiêu cực cho bản thân, gia đình người bị tạm giam, mà còn làm giảm sút uy tín của các cơ quan THTT, gây suy giảm lòng tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước, không phù hợp với định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền, thực hiện đề cao, tôn trọng và bảo đảm quyền con người, đáp 1 ứng các chuẩn mực quốc tế, giữ vững ổn định chính trị, xã hội của nước ta hiện nay. Vì thế, tác giả đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Biện pháp tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh”, nhằm góp phần đảm bảo việc áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết VAHS, tăng cường bảo đảm quyền con người trong TTHS cũng như hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm từ thực tiễn ở quận Thủ Đức, TP.HCM trong thời gian tới. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài BPNC trong TTHS nói chung và BPTG nói riêng là vấn đề được nghiên cứu trong nhiều công trình khoa học ở các góc độ, mức độ khác nhau, tiêu biểu như một số công trình sau: - Đề tài khoa học cấp Bộ “Đồi mới công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam theo Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015” do Lê Hữu Thể và các thành viên thực hiện, năm 2018. Đây là công trình nghiên cứu một cách hệ thống về công tác kiểm sát đảm bảo việc tạm giữ, tạm giam, các chế độ và quyền của người bị tạm giữ, tạm giam trên cơ sở các quy định pháp luật về BPTG và nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND các cấp. Công trình không đi sâu phân tích quy định pháp luật TTHS về BPTG. Do đó, những kết quả nghiên cứu về quy định pháp luật và áp dụng pháp luật về BPTG trong công trình này chưa thật sự đầy đủ và sâu sắc. - Luận án tiến sĩ “Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp” của tác giả Nguyễn Văn Điệp, Đại học Luật Hà Nội, năm 2005. Công trình này nghiên cứu về những vấn đề lý luận, pháp lý, thực tiễn áp dụng cũng như đề xuất các giái pháp về nâng cao hiệu quả áp dụng BPNC trong TTHS Việt Nam trên cơ sở phân tích quy định pháp luật tố tụng hình sự năm 2003. Trong đó, BPTG chỉ là một trong những BPNC được nghiên cứu nên mức độ và phạm vi nghiên cứu về BPNC này chưa thật sự đầy đủ. + Luận văn thạc sĩ “Biện pháp tạm giam theo tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” của Nguyễn Công Thành, Học viện khoa học xã hội, năm 2016. Công trình luận văn này nghiên cứu về những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn áp dụng BPTG trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả 2 áp dụng BPNC từ thực tiễn áp dụng ở địa bàn này. Do đó, công trình này có giá trị tham khảo cho Luận văn khi nghiên cứu, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật và đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm việc áp dụng pháp luật về BPTG một cách đúng đắn trên địa bàn quận Thủ Đức. + Luận văn thạc sĩ “Biện pháp tạm giam trong giai đoạn xét xử sở thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Tháp” của Trương Huỳnh Anh, Học viện khoa học xã hội, năm 2016. Luận văn này nghiên cứu về những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn áp dụng BPTG trong giai đoạn xét xử sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng BPNC trong giai đoạn xét xử sơ thẩm từ thực tiễn áp dụng ở địa bàn này. Quy định pháp luật và việc áp dụng pháp luật về BPTG ở các giai đoạn tố tụng khác như điều tra, truy tố không được nghiên cứu, làm rõ. + Luận văn thạc sĩ “Biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với bị can trong tố tụng hình sự Việt Nam” của Đào Nguyễn Hồng Minh, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2018. Luận văn này nghiên cứu về những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn áp dụng BPTG được áp dụng với những đối tượng là bị can. Quy định pháp luật và việc áp dụng pháp luật về BPTG đối với các đối tượng khác như bị cáo, người bị yêu cầu dẫn độ không được nghiên cứu, làm rõ. Ngoài ra, còn có nhiều bài viết khoa học liên quan đến BPTG được đăng trên Tạp chí Kiểm sát; Tạp chí Tòa án… như: “Biện pháp ngăn chặn tạm giam theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015” của Hoàng Tám Phi, đăng trên tạp chí Kiểm sát, Số 7/2018, tr.46 -49; “Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự và một số kiến nghị” của tác giả Nguyễn Văn Đổng, đăng trên Tạp chí Tòa án số 2/2019, tr.28-33… Qua nghiên cứu những công trình, bài viết khoa học trên, tác giả nhận thấy chưa có công trình nào nghiên cứu về đề tài “Biện pháp tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh”. Do đó, đề tài Luận văn này không bị trùng lặp với bất kỳ công trình khoa học nào khác đã được công bố. 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu: Luận văn hướng đến mục đích là thống nhất nhận thức về một số vấn đề lý luận và nghiên cứu các quy định pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành về BPTG, làm rõ thực trạng áp dụng pháp luật TTHS về tạm giam và đưa ra các giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả ADPL về BPTG trong pháp luật TTHS Việt Nam. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên, Luận văn tập trung thực hiện các nhiệm vụ sau: + Hệ thống những vấn đề lý luận về tạm giam trong TTHS; + Phân tích làm rõ quy định của pháp luật TTHS hiện hành về tạm giam; + Làm rõ thực trạng áp dụng pháp luật TTHS về tạm giam; + Nghiên cứu đưa ra các giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật TTHS về tạm giam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của Luận văn này những vấn đề lý luận về BPTG trong pháp luật TTHS Việt Nam và thực tiễn áp dụng pháp luật về biện pháp tạm giam trên địa bàn Quận Thủ Đức, TP.HCM. - Phạm vi nghiên cứu: Về nội dung: Những vấn đề lý luận, pháp lý về BPTG trong TTHS Việt Nam và thực tiễn áp dụng BPTG trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử VAHS. Về không gian: Địa bàn quận Thủ Đức, TP.HCM. Về thời gian: Từ năm 2014 đến năm 2018. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận triết học duy vật biện chứng Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, chính sách TTHS, về cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước. - Phương pháp nghiên cứu: Để phục vụ cho việc nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau: 4 + Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng trong toàn bộ quá trình nghiên cứu đề thực hiện các nhiệm vụ và đạt được mục đích nghiên cứu đề ra. + Phương pháp so sánh được sử dụng trong quá trình đối chiếu, so sánh quy định của BLTTHS năm 2015 và BLTTHS 2003 về BPTG qua đó thấy được những điểm mới của pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành về BPTG so với trước đây. + Phương pháp thống kê được sử dụng nhằm thống kê số lượng bị can, bị cáo bị áp dụng BPTG và các số liệu khác có liên quan đến đề tài nghiên cứu. + Phương pháp tổng kết thực tiễn được sử dụng nhằm làm rõ thực trạng áp dụng, đánh giá những kết quả đã đạt được cũng như những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân trong quá trình áp dụng BPTG trên địa bàn thuộc phạm vi nghiên cứu để đưa ra các giải pháp phù hợp. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của Luận văn này góp phần hoàn thiện lý luận về BPTG trong TTHS. - Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể giúp cơ quan, cá nhân có thẩm quyền tham khảo để vận dụng vào việc xây dựng, áp dụng pháp luật TTHS về BPTG cũng như cân nhắc, thực hiện những giải pháp được đề cập trong Luận văn để góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng BPTG. Ngoài ra, Luận văn này có thể làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho việc học tập và nghiên cứu về BPTG. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung Luận văn được bố cục thành 3 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận và quy định pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về biện pháp tạm giam; Chương 2. Tình hình, đặc điểm có liên quan và thực trạng áp dụng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp tạm giam trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh; Chương 3. Nhu cầu và giải pháp nhằm bảo đảm việc áp dụng pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp tạm giam từ thực tiễn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh 5 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIAM 1.1. Những vấn đề lý luận về biện pháp tạm giam 1.1.1. Khái niệm biện pháp tạm giam Để đảm bảo hiệu quả của việc áp dụng BPTG trong công tác phòng ngừa tội phạm, đồng thời bảo đảm quyền con người trong TTHS, đòi hỏi các cơ quan, người có thẩm quyền và các cá nhân, công dân cần nhận thức đúng đắn về biện pháp này cả cả về lý luận và cũng như các quy định pháp luật có liên quan. Về mặt lý luận, trước hết cần làm rõ khái niệm biện pháp “tạm giam”. Đây chính là nền tảng để tác giả thống nhất nhận thức và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận khác liên quan đến BPTG. Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, “tạm” là chỉ trong một thời gian nào đó, khi có điều kiện thì sẽ có thay đổi, mang tính tạm thời [56, tr.814]; “giam” tức là “giữ người bị coi là có tội ở một nơi nhất định không cho tự do đi lại, tự do hoạt động” [56, tr.345]. Như vậy, dưới góc độ ngôn ngữ học, có thể hiểu khái quát rằng: Tạm giam là biện pháp giữ người bị coi là có tội ở một nơi nhất định không cho tự do hoạt động, đi lại trong một thời gian nào đó, khi có điều kiện thì sẽ có thay đổi. Ngoài cách hiểu khái quát về BPTG như trên, tác giả tác giả nhận thấy trong các giáo trình, công trình nghiên cứu chuyên khảo về TTHS, khái niệm BPTG còn được diễn đạt theo nhiều cách khác nhau, điển hình như một số khái niệm sau: - Quan điểm (1) cho rằng: “Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội trong trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt trên hai năm và có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội” [49, tr.45 ]. - Quan điểm (2) cho rằng: “Tạm giam là biện pháp cách ly bị can, bị cáo với xã hội trong thời gian nhất định nhằm ngăn chặn hành vi trốn tránh pháp luật, cản 6 trở việc điều tra, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội của bị can, bị cáo đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử thi hành án được thuận lợi” [42, tr.224]. - Quan điểm (3) cho rằng: “Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự mà theo đó Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong những trường hợp nhất định có thể tước tự do đối với bị can, bị cáo nhằm ngăn chặn tội phạm hoặc đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử” [4, tr.92]; - Quan điểm (4) cho rằng: “Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng do người có thẩm quyền của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng hạn chế tự do cá nhân với mức độ nghiêm khắc nhất trong thời hạn tương đối dài đối với bị can, bị cáo nhằm ngăn chặn tội phạm, đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được tiến hành thuận lợi” [41, tr.112]. Phân tích các khái niệm nêu trên có thể thấy rằng: Nội dung diễn đạt các khái niệm có sự khác nhau do cách thức tiếp cận của nhà nghiên cứu, cụ thể như sau: Khái niệm (1) được xây dựng trên cơ sở tổng hợp các quy định pháp luật TTHS tại thời điểm nghiên cứu về thẩm quyền, căn cứ áp dụng. Khái niệm (2, 3, 4) được xây dựng trên cơ sở xác định rõ chủ thể có thẩm quyền, đối tượng bị áp dụng, hệ quả của việc áp dụng BPTG đối với người bị áp dụng và mục đích của việc áp dụng BPTG. Việc xây dựng khái niệm với các nội dung xác định bản chất của BPTG là BPNC trong TTHS, hình thức biểu trưng và mục đích áp dụng BPTG là phù hợp. Tuy nhiên, việc liệt kê các cơ quan có thẩm quyền áp dụng và căn cứ áp dụng BPTG theo quy định pháp luật TTHS tại thời điểm người nghiên cứu tiếp cận sẽ không bảo đảm được tính chính xác của khái niệm về BPTG trong trường hợp quy định pháp luật TTHS thay đổi. Do đó, theo tác giả, để đảm bảo tính khoa học, ổn định của khái niệm, việc xây dựng khái niệm cần dựa trên các đặc điểm thuộc về bản chất của BPTG đó là: Một là, BPTG là một BPNC được quy định cụ thể trong pháp luật TTHS. Trong đó, căn cứ, thủ tục, thẩm quyền, thời hạn áp dụng cũng như căn cứ, thẩm quyền, thủ tục thay thế, hủy bỏ BPTG được quy định trong các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự cụ thể. Hai là, đối tượng bị áp dụng BPTG là người bị buộc tội. Đó là những người 7 mà cơ quan có thẩm quyền cho rằng người đó đã thực hiện hành vi mà BLHS quy định là tội phạm. Đặc điểm này giúp phân biệt BPTG với những BPNC, cưỡng chế trong các lĩnh vực tố tụng khác nhau tố tụng dân sự, tố tụng hành chính. Điều này cũng phù hợp với quy định Hiến pháp và chuẩn mực quốc tế về bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Tuy nhiên, không phải tất cả người bị buộc tội đều bị áp dụng BPNC này mà pháp luật TTHS chỉ quy định cụ thể trong trường hợp nào thì người bị buộc tội bị áp dụng BPTG. Với quy định pháp luật Việt Nam hiện nay thì đối tượng bị áp dụng BPTG là bị can, bị cáo, người bị yêu cầu dẫn độ, dẫn độ trong khi thỏa mãn những căn cứ luật định. Ba là, hệ quả của việc áp dụng BPTG là người bị áp dụng BPNC này bị cách ly ra khỏi đời sống xã hội trong khoảng thời gian nhất định. Theo đó, khi cơ quan có thẩm quyền quyết định áp dụng BPTG, người bị áp dụng được giao cho các cơ sở giam giữ để chịu sự quản lý trong khoảng thời gian nhất định theo Lệnh, quyết định tạm. Với việc bị quản lý tại cơ sở giam giữ, người bị tạm giam không thể tiếp tục phạm tội hay có cách hành động gây khó khăn cho việc giải quyết VAHS như bỏ trốn, thông cung, tiêu hủy chứng cứ… Từ những nhận thức nêu trên, tác giả mạnh dạn xây dựng khái niệm về BPTG như sau: Tạm giam là biện pháp ngăn chặn được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự, do cơ quan có thẩm quyền áp dụng theo căn cứ, trình tự, thủ tục, thời hạn luật định, qua đó cách ly người bị buộc tội ra khỏi đời sống xã hội trong thời gian nhất định, nhằm ngăn chặn tội phạm hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự. 1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định, áp dụng biện pháp tạm giam trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam Với vai trò là một BPNC trong TTHS, tạm giam có ý nghĩa lớn đối với quá trình giải quyết VAHS cũng như bảo đảm các quyền con người và quyền công dân trong TTHS, cụ thể như sau: Một là, BPTG là một biện pháp góp phần củng cố và tăng cường pháp chế 8 XHCN, thể hiện sự kiên quyết của Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Hai là, quy định pháp luật về BPTG là cơ sở pháp lý vững chắc cho việc bảo đảm sự tôn trọng các quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận, bảo đảm rằng không một người nào bị tạm giam trái pháp luật. Trong trường hợp bị tạm giam trái pháp luật, người bị tạm giam có quyền khiếu nại, yêu cầu bồi thường thiệt hại. BPTG còn bảo đảm cho mọi cá nhân, công dân được tôn trọng, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, tránh được sự tấn công, xâm hại từ phía các đối tượng nhất định, bảo đảm cho mọi công dân được yên tâm sinh sống, học tập, làm việc tham gia vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Ba là, BPTG bảo đảm cho sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền trong quá trình giải quyết VAHS, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, bảo đảm tính chính xác, khách quan của hoạt động TTHS. Ngoài ra, tạm giam còn đảm bảo cho việc thi hành các bản án hình sự đã được tuyên và ngăn ngừa các đối tượng tiếp tục phạm tội. 1.1.3. Căn cứ quy định biện pháp tạm giam trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam Việc quy định một cách đúng đắn về BPTG nói riêng và các BPNC nói chung là đảm bảo quan trọng cho việc thực hiện tốt nhiệm vụ của luật TTHS, đó là: Phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Do đó, khi quy định về BPTG và các BPNC khác, đòi hỏi nhà lập pháp phải dựa trên các căn cứ sau đây: - Căn cứ Hiến pháp: Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 và các Hiến pháp tiếp theo (1969, 1980, 1992 và 2013) đã quy định những nền tảng cơ bản cho việc quy định và áp dụng các BPNC. Đó là những quy định về 9 vấn đề quyền con người, trong đó khẳng định quyền con người, quyền công dân được Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo đảm thực hiện và chỉ bị hạn chế trong một số trường hợp cần thiết theo quy định của Hiến pháp và Luật. Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, Nhà nước đã ban hành các quy định về BPNC trong đó có BPTG, ví dụ như: Quy định về việc bắt giam trong Sắc lệnh số 103 ngày 20/5/1957; quy định về những trường hợp phạm pháp quả tang và những trường hợp khẩn cấp trong Sắc lệnh số 002 ngày 18/6/1957; quy định về các BPNC trong BLTTHS năm 1988, năm 2003 và năm 2015… Đến nay, các quy định về BPNC nói chung và BPTG nói riêng trong BLTTHS năm 2015 (sau đây gọi tắt là BLTTHS hiện hành) được ban hành dựa trên các quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền công dân, cụ thể là: Điều 14 Hiến pháp 2013 quy định: “1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. 2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Điều 20 Hiến pháp 2013 quy định: “1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. 2.Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định”. Các quy định trên đây của Hiến pháp năm 2013 chính là căn cứ để chi tiết hóa thành các quy định cụ thể về BPTG trong BLTTHS hiện hành và các văn bản dưới luật có liên quan. - Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự: Luật hình sự là luật nội dung nên luôn đi kèm với luật hình thức tương ứng. Do đó, các quy định của pháp luật TTHS nói chung và quy định về BPNC trong đó có BPTG nói riêng luôn có xu hướng tồn tại và thay đổi cùng với các quy định của pháp luật hình sự. Ví dụ: Sự ra đời của BLTTHS 1988 gắn liền với BLHS 1985, BLTTHS 2003 gắn với BLHS 1999 và hiện 10 nay BLTTHS hiện hành gắn với BLHS 2015. Trong đó, quy định về trình tự, thủ tục của việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử VAHS nói chung và các BPNC nói riêng, kể cả BPTG, cần phải được quy định phù hợp với các quy định của BLHS tương ứng để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ XHCN, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật, chống mọi hành vi phạm tội; giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, phòng và chống tội phạm. - Căn cứ vào các nguyên tắc cơ bản của BLTTHS: Các nguyên tắc cơ bản của BLTTHS là kim chỉ nam cho việc quy định và thực hiện các boạt động TTHS. Chính vì vậy, trong việc quy định các BPNC nói chung và BPTG nói riêng luôn căn cứ vào các nguyên tắc cơ bản như: Nguyên tắc bảo đảm pháp chế XHCN; tôn trọng và bảo vệ quyền cơ bản của công dân; bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân, suy đoán vô tội… - Căn cứ vào chủ trương, đường lối của Đảng về đấu tranh phòng, chống tội phạm từng thời kỳ cách mạng: Có thể nói rằng, trong bất kỳ chế độ xã hội nào, nếu còn có các hành vi nguy hiểm, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ thì các biện pháp trừng phạt, ngăn ngừa tất yếu được áp dụng. Trong đó, BPTG được sử dụng như công cụ của việc ngăn ngừa, phòng và chống các hành vi nguy hiểm đó. Ở nước ta, việc quy định và sử dụng các BPNC trong từng thời kỳ lịch sử khác nhau cũng được vận dụng khác nhau căn cứ vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách Nhà nước trong từng thời kỳ. Ví dụ: Nếu như trước đây, khi đất nước đang còn phải dốc sức chống thù trong giặc ngoài thì Đảng ta chủ trường cần phải áp dụng những biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất đối với rất nhiều đối tượng phạm pháp hoặc bị nghi là phạm pháp, điển hình như: Điều 2 Sắc luật 002-SL ngày 18/6/1957 và Điều 5 của Sắc luật 02-SL ngày 15-3-1976. Tuy nhiên, các quy định này còn thiếu chặt chẽ, cụ thể dễ dẫn đến tình trạng lạm dụng, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, gây dư luận không tốt trong quần chúng, ảnh hưởng đến công cuộc xây dựng và tăng cường pháp chế XHCN mà Đảng 11 và Nhà nước quan tâm. Sau ngày miền Bắc giải phóng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn dân bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, quyền dân chủ được phát huy. Trong bối cảnh ấy, các hoạt động TTHS nói chung và các BPNC trong TTHS nói riêng đã được pháp điển hóa thành những quy định trong BLTTHS 1988, đóng góp một phần vô cùng quan trọng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Ở giai đoạn sau đó, cùng với công cuộc cải cách kinh tế, cải cách hành chính, Đảng ta chủ trương đầy mạnh cải cách tư pháp, trong đó có việc chấn chỉnh các hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam. Đây cũng là một trong những nội dung quan trọng của Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị cũng như Chỉ thị 53/CT-TW ngày 21/3/2000 của Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, theo đó: “Những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam” [6]. Chủ trương về hạn chế việc bắt, giữ, giam nêu trên đã được pháp điển trong các quy định về các BPNC trong đó có BPTG của BLTTHS năm 2003. Đáp ứng yêu cầu về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và triển khai thực hiện các chủ trương cải cách tư pháp mà Đảng ta đã đề ra tại Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 26/5/2005, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005, Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010, Kết luận số 92KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị; Văn kiện Đại hội X, XI của Đảng đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các quy định của BLTTHS năm 2003 để thể chế hóa đầy đủ chủ trương, quan điểm về cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện sâu sắc quan điểm của Đảng ta về tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, bổ sung nhiều nguyên tắc tư pháp tiến bộ cần phải được cụ thể hóa trong các văn bản Luật. Đây chính là lý do Quốc hội đã xây dựng BLTTHS hiện hành với những nhiều điểm mới so với BLTTHS năm 2003, trong đó có các quy định về BPNC nói chung và BPTG nói riêng. - Căn cứ vào thực tiễn tiến hành tố tụng hình sự: Thực tiễn tiến hành TTHS cho thấy rằng: Các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự chỉ đảm bảo khi người bị buộc tội hợp tác với cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, đa số người 12 bị buộc tội thường có tâm lý lo sợ bị truy cứu trách nhiệm hình sự, lo sợ gánh chịu hình phạt nghiêm khắc, đặc biệt là những bị can, bị cáo không có nơi cư trú rõ ràng, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, xâm phạm an ninh quốc gia... Với tâm lý đó, họ sẽ thực hiện những hành vi như: Bỏ trốn, tiêu hủy đồ vật, tài liệu liên quan đến vụ án... Những hành vi đó gây khó khăn đáng kể cho các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với người đó như: Không thể triệu tập được bị can, bị cáo; không thu được đầy đủ chứng cứ làm rõ hành vi phạm tội... Theo đó, trong những trường hợp cần thiết, việc áp dụng BPNC nghiêm khắc cách ly người đó ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định nhằm đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự sẽ đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự cũng như không kịp thời ngăn chặn tội phạm. BPNC này phải được quy định một cách cụ thể về căn cứ, thẩm quyền, thủ tục, thời hạn áp dụng trong các văn bản quy phạm pháp luật về TTHS. Đây chính là một trong những căn cứ cho việc quy định về BPTG trong pháp luật TTHS Việt Nam. - Căn cứ vào thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm: Thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm còn cho thấy với xu hướng diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm, tính chất, mức độ nguy hiểm ngày càng tăng, phương thức phạm tội tinh vi, táo bạo hơn, nhiều thủ đoạn nhằm cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án… Bên cạnh đó, chủ động hội nhập quốc tế ngày nay đang trở thành nhu cầu nội tại của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam với việc tham gia nhiều tổ chức quốc tế và trở thành thành viên của nhiều điều ước quốc tế trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm cùng với sự hợp tác với các quốc gia thông qua việc ký kết nhiều Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự, dẫn độ, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù với các nước trên thế giới. Trong khi đó, nhiều quy định của BLTTHS mới dừng ở những quy định chung; chưa quy định rõ về giá trị của các nguồn tư liệu có được thông qua hoạt động tương trợ tư pháp hình sự; thiếu các quy định cụ thể về trình tự, thủ tục, mối quan hệ phối hợp giữa các CQTHTT nhằm thực hiện tốt các cam kết quốc tế, đặc biệt là trong việc dẫn độ. Những vấn đề này đòi hỏi các CQTHTT, người THTT cần áp dụng những biện pháp cần thiết đề kịp thời ngăn 13 chặn tội phạm và bảo đảm hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, trong đó có BPTG qua đó cách ly người bị buộc tội ra khỏi xã hội một thời gian nhất định trong thời hạn luật định khi thỏa mãn các căn cứ cụ thể. Đây cũng chính là một trong những căn cứ để quy định BPTG trong pháp luật TTHS Việt Nam. 1.1.4. Các nguyên tắc áp dụng biện pháp tạm giam trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam Xuất phát từ đặc điểm của hoạt động TTHS là hoạt động đa dạng, phức tạp liên quan nhiều đến quyền và nghĩa vụ của công dân nhất; đồng thời đáp ứng yêu cầu trong đấu tranh phòng, chống tội phạm là phải kiên quyết và thận trọng, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, các cơ quan có thẩm quyền cần quán triệt các nguyên tắc nhất định khi quyết định áp dụng BPTG. Các nguyên tắc đó là: - Nguyên tắc kiên quyết xử lý tội phạm: Nhiệm vụ đấu tranh trấn áp tội phạm là yêu cầu đòi hỏi cần thiết và cấp bách để bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật, chống mọi hành vi phạm tội... đặc biệt là đối với các loại tội đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng. Theo đó, việc áp dụng BPNC trong TTHS nói chung và BPTG nói riêng là cần thiết, để kịp thời ngăn chặn tội phạm, không để đối tượng phạm tội tiếp tục phạm tội, hoặc gây khó khăn cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án khi có đủ căn cứ luật định. Đây chính là mục đích của việc áp dụng BPNC nói chung và BPTG nói riêng trong TTHS. Nguyên tắc kiên quyết xử lý tội phạm trong quá trình áp dụng BPTG còn thể hiện ở việc: Đối với những đối tượng xét thấy cần thiết và có đủ căn cứ áp dụng BPTG phải kiên quyết áp dụng để, đảm bảo thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Điều này thể hiện ở chỗ BPTG có thể được quyết định áp dụng đối với bị can, bị cao phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng mà không cần thêm căn cứ nào khác. Đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng thì cần căn nhắc đến những yếu tố khác về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân bị can, bị cáo có đảm bảo cho việc giải quyết VAHS hay không để 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan