Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận án ý thức công dân với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa v...

Tài liệu Luận án ý thức công dân với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam tt

.PDF
27
1710
123

Mô tả:

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN LƯƠNG NGỌC Ý THỨC CÔNG DÂN VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử Mã số: 62 22 03 02 HÀ NỘI - 2019 Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH Người hướng dẫn khoa học: 1. GS, TS. Trần Thành 2. PGS, TS. Lê Thị Thanh Hà Phản biện 1: ........................................................... ........................................................... Phản biện 2: ........................................................... ........................................................... Phản biện 3: ........................................................... ........................................................... Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh Vào ngày...... tháng...... năm 2019. Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia; - Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12-1986) đến nay đã đạt được những thành tựu to lớn trên mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có quá trình mở rộng và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân. Trong đó, điều rất quan trọng là mỗi người dân ý thức đầy đủ về vai trò làm chủ của mình, tham gia tích cực, chủ động vào quá trình xây dựng, bảo vệ đất nước, trong đó bao hàm cả trách nhiệm xây dựng nhà nước. Nói cách khác, phát huy vai trò của ý thức công dân (YTCD) chính là một trong những điều kiện quan trọng của việc hoàn thành mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) nói chung ở Việt Nam hiện nay và mục tiêu xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền (NNPQ) nói riêng. Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, tháng 1/1994, Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức đưa ra quan điểm xây dựng NNPQ. Nội dung này tiếp tục được nhấn mạnh nhiều lần qua Hội nghị Trung ương (TW) 8 khóa VII, Hội nghị TW3 khóa VIII và các kỳ đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, IX, X, XI, XII của Đảng. Đặc biệt, vấn đề xây dựng NNPQ xã hội chủ nghĩa (XHCN) của dân, do dân, vì dân đã trở thành một trong tám đặc trưng của CNXH mà Việt Nam đang xây dựng với mục tiêu là: Thứ nhất, xây dựng NNPQ XHCN nhằm hướng tới của một xã hội tiến bộ, văn minh, gắn liền với phát huy quyền dân chủ của công dân, phù hợp với xu thế vận động, phát triển, tiến bộ của nhân loại. Thứ hai, xây dựng NNPQ XHCN phải khẳng định hiến pháp và pháp luật giữ vị trí tối thượng, tất cả mọi người, mọi tổ chức phải tôn trọng pháp luật, bộ máy nhà nước chịu sự ràng buộc của chính pháp luật do nhà nước tạo ra, quy định rõ trách nhiệm qua lại giữa nhà nước và công dân, công dân với nhà nước. Để xây dựng thành công NNPQ XHCN phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó, đặc biệt phải kể đến vai trò quan trọng của công dân - với vị thế đặc biệt của mình, vừa là chủ thể nhưng cũng đồng thời là đối tượng quản lý của nhà nước. Tự bản thân nhà nước cùng với thể chế và thiết chế của nó không thể tự mình xây dựng NNPQ XHCN, mà bắt buộc phải có nhân tố công dân 2 trong nhà nước, công dân của nhà nước đó. Vì vậy, xây dựng NNPQ XHCN phải đề cập tới vị trí, vai trò, quyền lợi, trách nhiệm của công dân và việc thực hiện nó trong thực tế, bởi: (i) Công dân là chủ thể quan trọng cùng với nhà nước xây dựng nên Hiến pháp, pháp luật của quốc gia; (ii) Công dân là người thực thi Hiến pháp, pháp luật; (iii) Công dân là chủ thể đóng vai trò quyết định trong việc quyền lực nhà nước được thực thi trong thực tế. Điều đó đòi hỏi một sự nhận thức đầy đủ, trách nhiệm cao và những hành động cụ thể, công dân phát huy tốt quyền làm chủ để đóng góp vào quá trình xây dựng NNPQ XHCN. Trong đó, YTCD với tư cách là một bộ phận của ý thức xã hội đóng vai trò quan trọng, thông qua những hành vi cụ thể, tác động tới nhà nước và quá trình xây dựng NNPQ XHCN. Tuy nhiên, sau hơn 30 năm đổi mới đất nước, bên cạnh những thành tựu là cơ bản, thì những bất cập, hạn chế đang tồn tại, nảy sinh những lực cản, khó khăn mới trên con đường tiến tới hoàn thiện NNPQ XHCN. Trong đó, trình độ dân trí của một bộ phận công dân còn thấp, nhất là ý thức về quyền và nghĩa vụ của công dân trong mối quan hệ với nhà nước còn hạn chế, công dân chưa thực sự chủ động tham gia xây dựng nhà nước. Chưa tạo ra sự gắn kết phát triển của cá nhân công dân với nhiệm vụ xây dựng nhà nước và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình xây dựng NNPQ XHCN. Chính vì vậy, nghiên cứu sâu mối quan hệ giữa YTCD với xây dựng NNPQ và trên cơ sở đó nghiên cứu, phân tích, tìm ra hướng giải pháp phát huy vai trò của YTCD đối với việc xây dựng NNPQ XHCN là một trong những nhiệm vụ cần thiết hiện nay. Xuất phát từ lý do đó, tác giả chọn chủ đề “Ý thức công dân với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ triết học. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục tiêu Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận và thực trạng ý thức công dân trong quá trình xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam những năm qua, luận án đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của YTCD trong xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam hiện nay. 3 2.2. Nhiệm vụ của đề tài Để thực hiện mục tiêu, đề tài giải quyết một số nhiệm vụ sau: - Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án. - Phân tích những vấn đề lý luận về YTCD, vấn đề xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam; vai trò của YTCD trong xây dựng NNPQ XHCN ở nước ta hiện nay. - Phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra trong việc phát huy vai trò YTCD trong xây dựng NNPQ XHCN ở nước ta những năm qua. - Đề xuất một số nhóm giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò YTCD trong xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam hiện nay. 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu YTCD trong xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận án nghiên cứu vai trò của YTCD trong xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam từ năm 1994 đến nay, khi Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra quan điểm xây dựng NNPQ tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, pháp luật của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam về nhà nước, pháp luật, ý thức pháp luật, YTCD. Đồng thời, luận án tiếp thu, kế thừa có chọn lọc những giá trị khoa học của một số công trình nghiên cứu đã công bố liên quan đến nội dung của luận án. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra, luận án sử dụng phương pháp cụ thể như lôgíc và lịch sử, phân tích và tổng hợp, phương pháp hệ thống, phương pháp đối chiếu, so sánh, xử lý số liệu để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ mà đề tài luận án đặt ra. 4 5. Những đóng góp khoa học của luận án - Góp phần nghiên cứu sâu thêm về khái niệm, đặc điểm của YTCD, mối quan hệ giữa YTCD với NNPQ và vai trò của nó đối với quá trình xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam hiện nay. - Góp phần chỉ ra thành tựu và hạn chế của YTCD trong việc xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam những năm qua. - Đề xuất một số nhóm giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò YTCD trong xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Luận án góp phần cung cấp thêm một số cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu vấn đề ý thức xã hội, YTCD trong quá trình xây dựng NNPQ XHCN. - Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, phục vụ nghiên cứu và giảng dạy một số chuyên đề triết học phần chủ nghĩa duy vật lịch sử. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình khoa học đã công bố, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm có 4 chương, 13 tiết. Chương 1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Vấn đề YTCD và tác động của nó đến việc xây dựng NNPQ đã nhận được sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều học giả trong nước, ngoài nước dưới các góc độ khác nhau, lĩnh vực khác nhau, nghiên cứu sinh xin được khái quát, tóm tắt như sau: 1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ Ý THỨC CÔNG DÂN, NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀ VAI TRÒ CỦA Ý THỨC CÔNG DÂN TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN 1.1.1. Các công trình nghiên cứu về ý thức công dân Nhiều tác giả đã đề cập thẳng vào YTCD, làm toát lên vai trò của công dân trong việc xây dựng nhà nước và nhà nước đó quay lại phục vụ chính họ. Công dân ý thức được việc mình làm, thấy được trách nhiệm của mình trong đó và nhận được kết quả cho mình hay dưới cái nhìn là ý thức cộng đồng, ý thức dân 5 tộc, ý thức về chủ quyền lãnh thổ quốc gia, ý thức chính trị - YTCD là nhận thức về chính mình trước cộng đồng, đóng góp cho cộng đồng, vì quê hương, vì sự tồn tại và phát triển đất nước (Johan Sandahl, A.A.Akramov, Tong Huasheng, Trần Văn Phòng, Ngô Thị Nụ, Phạm Văn Đức, Nguyễn Trọng Phúc, Trần Văn Bính và cộng sự); là trách nhiệm tham gia vào các hoạt động kinh tế, chính trị, hành chính, dân sự, môi trường, chất lượng cuộc sống, công dân phải sáng suốt, tích cực để tham gia bảo vệ pháp luật, bảo vệ cộng đồng, YTCD là sự dấn thân vì cái chung, vì xã hội (Jenifer Shelf, Phạm Thị Hương, Nguyễn Hữu Khiển); là tính tích cực chính trị để thúc đẩy sự phát triển của công dân và cộng đồng (Nguyễn Thị Kim Hoa). Bên cạnh đó, một số tác giả tiếp cận trên phương diện ý thức pháp luật và sự cần thiết phải nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân trong bối cảnh phát triển đất nước ngày nay (Đào Duy Tấn). Tất cả những quan điểm, đánh giá, phân tích của các nhà khoa học có điểm chung là đều khẳng định công dân với ý thức của mình, trách nhiệm của mình không chỉ tỏ thái độ và hành động vì lợi ích cá nhân mà cao hơn thế, luôn hướng tới lợi ích của cộng đồng, xã hội, quốc gia dân tộc, là sự kết hợp hài hòa giữa cái riêng và cái chung, giữa suy nghĩ, thái độ và hành vi, hành động. 1.1.2. Các công trình nghiên cứu về nhà nước pháp quyền: Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin không đặt ra cho mình nhiệm vụ (xét thấy chưa cần thiết vào lúc đó) là nêu những quan điểm trực tiếp về một NNPQ dành cho giai cấp vô sản khi họ giành được chính quyền, mà nhiệm vụ trước mắt của các ông là giúp cho giai cấp vô sản cách mạng hiểu rõ và có định hướng, mục tiêu, con đường, cách thức đấu tranh cách mạng đúng đắn để xóa bỏ bóc lột, áp bức, bất công để tiến tới xây dựng xã hội cộng sản. Nhưng, bằng việc phân tích, lột tả cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong quốc hội Pháp giữa các phe phái là những lực lượng đại diện cho các giai tầng, nhóm lợi ích trong xã hội Pháp lúc bấy giờ, C.Mác đã sử dụng những thuật ngữ như “quyền lực nhà nước”, “vấn đề ủy quyền, phân quyền, tập quyền”, “kéo dài nhiệm kỳ của Tổng thống”, “chế độ phổ thông đầu phiếu là kết quả của ý chí chủ quyền nhân dân”, “ban hành đạo luật”, “cơ sở pháp lý của pháp luật”, “quyền lập pháp, quyền hành pháp, chế độ cộng hòa”, v.v... cho thấy ông hoàn toàn nắm rõ vấn đề nhà nước nói chung và NNPQ tư sản. 6 Nhà tư tưởng thời kỳ La Mã Marcus Tullius Cicero (106-43 TCN) đã viết: “Chức năng của một quan chức nhà nước là điều hành cũng như ban hành các chỉ thị công bằng, hữu ích và đúng luật. Quả thật, có thể nói một cách đúng đắn là: quan chức là luật pháp biết nói, còn luật pháp là quan chức lặng thầm”. Nhà tư tưởng theo trường phái tự do người Pháp Claude Frederic Bastiat (1801-1850) đã viết: “Nếu luật pháp không được tôn trọng, ở một mức độ nhất định nào đó, thì xã hội không thể tồn tại được. Biện pháp an toàn nhất làm cho người ta tôn trọng luật pháp là làm cho luật pháp đáng được tôn trọng”. A.V.Dicey (1835-1922) nhà lập pháp nổi tiếng người Anh khi nghiên cứu và đề cập tới NNPQ, ông đã chỉ ra 8 đặc trưng cơ bản của NNPQ. Về sau, Joseph Raz (sinh năm 1939) nhà triết học chính trị, đạo đức và luật pháp đã bổ sung thêm 5 đặc trưng nữa. Trong bài diễn thuyết có tựa đề “Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa”, nhà yêu nước Phan Chu Trinh đã nêu bật mong muốn xây dựng Hiến pháp và một nhà nước dân chủ, ông nhấn mạnh: “Trong nước có Hiến pháp, ai cũng phải tôn trọng Hiến pháp, cái quyền của Chính phủ cũng bởi Hiến pháp quy định cho, lười biếng không được mà dẫu có muốn áp chế cũng không chỗ nào thò ra được. Vả lại khi có điều gì vi phạm đến pháp luật thì người nào cũng như người nào, từ ông Tổng thống cho đến một người nhà quê cũng chịu theo pháp luật như nhau”. Hai tác giả Trương Đăng Thanh, Trương Thị Hòa trong cuốn sách Tư tưởng lập hiến Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX đã khái quát, hệ thống hóa các luồng tư tưởng lập hiến trong giai đoạn đầu nước ta chuyển mình từ một nước quân chủ phong kiến, thuộc địa trở thành một quốc gia độc lập theo chính thể cộng hòa, từ một nền pháp luật cổ truyền không có hiến pháp đến sự ra đời của Hiến pháp năm 1946. Các tác giả Nguyễn Duy Quý, Nguyễn Tất Viễn trong cuốn sách Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân - lý luận và thực tiễn đã tổng hợp trong lịch sử tư tưởng nhân loại về học thuyết NNPQ của phương Tây và phương Đông, quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật XHCN, nêu lên 7 những đặc trưng của NNPQ XHCN Việt Nam, phân tích một số yếu tố quy định, chi phối quá trình xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam và đề ra một số phương hướng, giải pháp chủ yếu xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam. Đây là công trình nghiên cứu với các nội dung khá toàn diện, công phu, hệ thống về vấn đề NNPQ nói chung và NNPQ XHCN Việt Nam nói riêng. Trong cuốn Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với công cuộc đổi mới của Việt Nam, tác giả Lê Hữu Nghĩa đã cho rằng, “một thời kỳ dài chúng ta nhận thức không đúng về nhà nước pháp quyền.... Về sau, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức ra rằng, nhà nước pháp quyền không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa xã hội cũng phải thực hiện nhà nước pháp quyền”. Tuy không đề cập trực tiếp đến mối quan hệ giữa YTCD với quá trình xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam, nhưng những phương hướng lớn được tác giả nêu lên đều gián tiếp tác động tới YTCD, thúc đẩy YTCD, đó là quan tâm trước tiên tới vấn đề nâng cao nhận thức và phát huy dân chủ. 1.1.3. Một số công trình nghiên cứu liên quan tới vai trò của công dân, ý thức công dân trong xây dựng nhà nước Trong tác phẩm “Nền dân trị Mỹ” Alexis de Tocqueville (1805-1859) đã tổng kết, luận giải nhiều vấn đề quan trọng liên quan tới vấn đề tổ chức quyền lực nhà nước, trong đó đề cập nhiều tới vai trò của người dân, ông nhấn mạnh: “Nhân dân được can thiệp vào các việc công ích, tự do bỏ phiếu về thuế khóa, trách nhiệm của các quan chức, tự do cá nhân và việc xử án bởi hội đồng xét xử, là những điều được xác định trong luật mà không cần bàn cãi và đều được thực thi”. Tác giả David Held trong Các mô hình quản lý nhà nước hiện đại (Models of Democracy) trình bày xuyên suốt tác phẩm phản ảnh tinh thần, thái độ, ý thức tham gia của công dân vào đời sống chính trị, tham gia xây dựng nhà nước. 1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ Ý THỨC CÔNG DÂN TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Các công trình khoa học trên các phương diện khác nhau, với những đối tượng nghiên cứu khác nhau đã chỉ ra những tồn tại, bất cập trong quá trình xây dựng NNPQ, xây dựng lối sống theo pháp luật. Chẳng hạn, nói về những 8 yếu kém, hạn chế của ý thức pháp luật (YTPL) của người dân chưa đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật. Dưới góc độ mối quan hệ giữa YTPL với dân chủ, nhiều tác giả đã chỉ ra nguyên nhân của tình trạng YTPL của công dân chưa đáp ứng được yêu cầu thực hiện dân chủ ở nông thôn hiện nay hay chưa thực sự biết sử dụng và phát huy quyền dân chủ của mình (Lê Xuân Huy, Phạm Hữu Nghị, Tô Văn Đồng, Hoàng Chí Bảo). Các tác giả khác đề cập tới vấn đề công dân còn nặng lòng với lệ làng, chưa quen với phép nước, thái độ tôn trọng pháp luật, chấp hành pháp luật còn thấp, người dân sống tự do theo kiểu của mình mà không cần biết đến luật pháp (Đào Duy Tấn, Trần Quang Nhiếp). Ở một khía cạnh khác, các tác giả nhận thấy chưa có sự tranh thủ ý kiến của nhân dân trong quá trình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hay quản lý xã hội, nguyên nhân bao gồm từ phía nhà nước và từ phía công dân, chưa có sự minh bạch, công khai từ phía nhà nước (Nguyễn Minh Đoan, Nguyễn Minh Đức, Đoàn Minh Huấn) v.v.. 1.3. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ Ý THỨC CÔNG DÂN TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Các học giả, các nhà khoa học trên cơ sở nghiên cứu và cách tiếp cận của mình với mong muốn xây dựng NNPQ mà ở đó nhân dân là người chủ thực sự, quyền lực nhà nước phục vụ lợi ích của nhân dân một cách tối đa, pháp luật được tôn trọng tuyệt đối. Chẳng hạn, sách Chủ nghĩa lập hiến hiện đại ở Việt Nam: Những thành tựu và các vấn đề đang đặt ra trong Hiến pháp: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của tác giả Đào Trí Úc, Tác giả Trần Thành trong cuốn Vấn đề dân chủ và dân chủ hóa đời sống xã hội - lịch sử và hiện đại, sách Hình thức nhà nước và vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của tác giả Mai Thị Thanh, bài viết Nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự với vấn đề quyền và nghĩa vụ công dân của tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm, bài viết Một số giải pháp thực hành dân chủ trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn, bài viết Xây dựng nhà nước pháp quyền, phát huy dân chủ trực tiếp cho nhân dân, nâng cao phản biện xã hội theo quy định của Hiến pháp 2013 của tác giả Võ Trí Hảo, bài viết Tư tưởng 9 thượng tôn pháp luật trong văn hóa chính trị Việt Nam hiện nay của tác giả Nguyễn Ngọc Hà, tác giả Cao Thu Hằng với bài Tăng cường đồng thuận xã hội ở Việt Nam hiện nay v.v... Các công trình khoa học đều nêu ra phương hướng chung cũng như một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò công dân, YTCD (trên các phương diện khác nhau) trong tiến trình xây dựng NNPQ và phát triển đất nước. Chẳng hạn, yêu cầu một sự phát triển đồng bộ, toàn diện từ thể chất tới đạo đức, pháp luật và trách nhiệm công dân để phát triển con người toàn diện hay đề xuất gia tăng sự can dự trực tiếp của công dân vào công việc của chính quyền, phát huy dân chủ trực tiếp ở cơ sở (Nguyễn Trọng Chuẩn, Đào Trí Úc, Trần Thành, Đỗ Hương Giang, Phan Thị Thùy Trâm, Nguyễn Quang Anh); việc bảo vệ Hiến pháp có ảnh hưởng quan trọng tới YTCD (Võ Trí Hảo) hay sự đồng thuận xã hội trong nhân dân để cùng nhau phát triển kinh tế, để chống lại cái ác, giữ gìn kỷ cương xã hội và để phát huy dân chủ, công bằng xã hội, giáo dục dân chủ, giáo dục quyền con người với ý thức trách nhiệm công dân (Phạm Thị Ngọc Trầm, Hoàng Chí Bảo, Cao Thu Hằng); và nhấn mạnh tới giáo dục YTCD cho thế hệ trẻ (Nguyễn Tuế). 1.4. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU VÀ LÀM SÁNG TỎ THÊM Nhiều công trình nghiên cứu chưa tập trung vào vấn đề mối quan hệ và tác động của YTCD trong quá trình xây dựng NNPQ XHCN. Chính vì vậy, nhiệm vụ của luận án là góp phần làm rõ hơn về YTCD và chỉ ra vai trò của YTCD tới quá trình xây dựng NNPQ trong giai đoạn hiện nay, nhất là về xây dựng thể chế, tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ. Qua đó, nhận diện những vấn đề còn bất cập, là hạn chế, là những lực cản. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy vai trò YTCD trong (phục vụ cho) xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam hiện nay. Tiểu kết chương 1 Các nhà nghiên cứu trong nước và nước ngoài dưới giác độ khoa học khác nhau (triết học, luật học, chính trị học, xã hội học, tâm lý học, sử học...) đã phân tích, đánh giá một cách trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề YTCD, 10 NNPQ, đến vị trí, vai trò, tầm quan trọng của YTCD tới sự phát triển xã hội, vì sự thịnh vượng của quốc gia dân tộc. Các công trình nghiên cứu cũng đã chỉ ra một số nguyên nhân của tình trạng ý thức của người dân còn hạn chế và những khuyến nghị, giải pháp nhằm nâng cao nhận thức, ý thức của công dân. Tuy nhiên, khái niệm YTCD, sự hình thành, đặc điểm, kết cấu và phân tích vấn đề YTCD đặt trong mối quan hệ tác động tới quá trình xây dựng NNPQ thì chưa được bàn sâu. Do đó, việc nghiên cứu YTCD và phát huy vai trò của nó trong quá trình xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Chương 2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ Ý THỨC CÔNG DÂN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, KẾT CẤU CỦA Ý THỨC CÔNG DÂN 2.1.1. Khái niệm Sự ra đời nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã đưa người dân đến vị thế Công dân. Khác với thần dân, công dân chỉ xuất hiện và tồn tại theo đúng nghĩa của nó trong xã hội dân chủ, nhà nước dân chủ. Công dân là khái niệm dùng để chỉ cá nhân thuộc về một nhà nước nhất định mà người đó mang quốc tịch, trong đó xác lập mối quan hệ gắn bó, thống nhất về quyền và nghĩa vụ cơ bản giữa nhà nước và công dân. Ý thức công dân vừa bao hàm sự nhận thức (tri thức), vừa bao hàm sự ý thức trách nhiệm với nhiệm vụ, nghĩa vụ, với bổn phận của mỗi công dân (tình cảm, thái độ, ý chí). Khi đã nói tới ý thức là nói tới sự phản ánh của công dân về quyền, nghĩa vụ, lợi ích của công dân trong thời đại lịch sử - xã hội đó, đồng thời thấy được tính độc lập, sáng tạo của công dân trong xây dựng, phát triển xã hội nói chung và nhà nước nói riêng. Trên phương diện chính trị học, YTCD thể hiện ra là nhận thức về quyền dân chủ, là ý thức về trách nhiệm, nghĩa vụ của người dân đối với sự tồn tại và phát triển của đất nước thông qua việc tham gia vào các hoạt động chính trị. 11 Trên phương diện luật học, YTCD biểu hiện ra là sự nhận thức hướng tới thực thi đầy đủ quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân được ghi nhận và bảo đảm thực hiện trong Hiến pháp và pháp luật, bao gồm cả những điều được phép làm và những điều pháp luật không cấm. Trên phương diện triết học, ý thức công dân phản ánh trình độ nhận thức, hiểu biết, tình cảm, thái độ, ý chí của công dân về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của công dân trong mối quan hệ với nhà nước, xã hội, cộng đồng và Tổ quốc. 2.1.2. Đặc điểm, kết cấu của ý thức công dân 2.1.2.1. Đặc điểm của ý thức công dân Thứ nhất, YTCD phản ánh quyền và nghĩa vụ công dân trong điều kiện lịch sử - xã hội công dân sinh sống. Nó ra đời gắn liền với sự hình thành, tồn tại và phát triển của nhà nước dân chủ. Thứ hai, YTCD có tính sáng tạo trong việc xây dựng, thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với nhà nước và xã hội. Điều đó thể hiện ra bên ngoài thông qua sự tự giác trong nhận thức, tính tự nguyện tuân thủ trong thực hiện các quy định, nhất là các quy định của pháp luật và tính chủ động, trách nhiệm đóng góp ý kiến xây dựng nhà nước và pháp luật. Thứ ba, YTCD là sự tổng hợp hòa quyện, đan xen, gắn bó chặt chẽ giữa YTCD của từng cá nhân công dân với ý thức công dân xã hội. Thứ tư, YTCD phản ánh mối tương quan về lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp trong việc giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước. 2.1.2.2. Kết cấu ý thức công dân Tri thức: Tri thức công dân là sản phẩm của thời đại và gắn liền với việc hình thành, hoàn thiện nhà nước NNPQ. Tri thức của công dân hiện nay đang tiếp tục được nâng cao cùng với quá trình xây dựng, hoàn thiện NNPQ XHCN. Tình cảm: Mọi suy nghĩ, hành động xuất phát từ bên trong nội tâm của công dân và thể hiện ra bên ngoài thông qua tính tự giác trong nhận thức, giáo dục và tính tự nguyện tuân thủ, thực hiện các quy định. Công dân luôn chủ động, trách nhiệm, thực hiện trọn vẹn trách nhiệm, bổn phận công dân đối với Tổ quốc và đó là những hạt nhân, những viên gạch xây dựng một Nhà nước XHCN đích thực và một xã hội pháp quyền vững mạnh. 12 Ý chí: Mỗi cá nhân công dân phải tìm hiểu rõ và sử dụng đúng đắn, đầy đủ quyền của mình, biết cách đấu tranh để quyền của mình được tôn trọng, được bảo đảm thực hiện. Đồng thời, có ý thức trách nhiệm cao, kiên định, quyết tâm thực hiện tốt nghĩa vụ của mình trước nhà nước và cộng đồng xã hội. Bên cạnh đó, còn thể hiện sự dũng cảm bảo vệ công lý, bảo vệ lẽ phải, bảo vệ người yếu thế trong xã hội, bảo vệ nhà nước, bảo vệ pháp luật. 2.2. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM - NỘI DUNG VÀ ĐẶC TRƯNG 2.2.1. Nội dung xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa 2.2.1.1. Khái niệm Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức quyền lực nhà nước, ở đó có sự đảm bảo và thừa nhận tính tối cao của pháp luật; bao hàm việc xác định rõ ràng quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với hệ thống pháp luật đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, bảo đảm trong thực tế quyền và lợi ích hợp pháp cơ bản của công dân, thể hiện mối quan hệ giữa nhà nước với công dân và ngược lại. 2.2.1.2. Nội dung Xuất phát từ thực tế và đòi hỏi của cách mạng Việt Nam, nhiều văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng” là một nhiệm vụ có tính chiến lược và xuyên suốt (Đại hội IX). Đặc biệt, đến năm 2001, vấn đề xây dựng NNPQ được chính thức ghi nhận trong văn bản có giá trị pháp lý cao nhất - Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung). Đây là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị, bao gồm: Hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành của nhà nước; Hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước từ trung ương tới địa phương theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì dân phục vụ, kiến tạo phát triển; Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có trình độ, trách nhiệm, trong sạch, chuyên nghiệp. 2.2.2.2. Một số đặc trưng cơ bản của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam Thứ nhất, gắn liền với việc tạo dựng cơ sở kinh tế của NNPQ XHCN ở Việt Nam là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. 13 Thứ hai, cơ sở chính trị của NNPQ XHCN là chế độ dân chủ nhất nguyên diễn ra trong điều kiện đảng cộng sản lãnh đạo. Thứ ba, cơ sở xã hội của NNPQ XHCN là khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thứ tư, gắn liền với hoạt động tuyên truyền, giáo dục, nâng cao trình độ nhận thức và tinh thần thượng tôn pháp luật cho mọi công dân. Thứ năm, gắn liền với tiến trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, trong đó nhà nước tôn trọng và cam kết thực hiện các công ước, điều ước quốc tế đã tham gia, ký kết, phê chuẩn như là một phần của xây dựng NNPQ trong bối cảnh quốc tế hóa, toàn cầu hóa. 2.3. VAI TRÒ CỦA Ý THỨC CÔNG DÂN TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA Ý THỨC CÔNG DÂN 2.3.1. Vai trò của ý thức công dân trong tham gia xây dựng Hiến pháp, hoàn thiện thể chế, hệ thống pháp luật và cơ chế vận hành của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Công dân tham gia xây dựng Hiến pháp, pháp luật gắn chặt với quá trình sử dụng pháp luật, tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật của công dân. Chúng không tách rời nhau, biệt lập nhau, mà trái lại, hai quá trình đó biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau, thúc đẩy nhau. Trong hoạt động góp ý, xây dựng Hiến pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Trong hoạt động tham gia phản biện chính sách của nhà nước. Trong hoạt động tham gia hoàn thiện cơ chế hoạt động của bộ máy nhà nước. 2.3.2. Vai trò của ý thức công dân trong việc tham gia hoàn thiện và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước Chính là thúc đẩy công dân tích cực tham gia xây dựng bộ máy nhà nước thông qua thực hiện hoạt động dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp. 2.3.3. Vai trò của ý thức công dân trong việc tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước Trong hoạt động tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động thực thi công vụ. Trong hoạt động tham gia phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. 14 2.3.4. Một số yếu tố ảnh hưởng tới việc phát huy vai trò của ý thức công dân trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam Yếu tố lợi ích: Đảm bảo lợi ích của mọi công dân là động lực mạnh mẽ của quá trình nâng cao tính tích cực của công dân, trong đó, quan tâm đến lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần. Yếu tố môi trường dân chủ và năng lực thực hành dân chủ Yếu tố tâm lý sản xuất nhỏ Tiểu kết chương 2 Từ thân phận nô lệ, thần dân vươn tới danh vị công dân trong xã hội dân chủ là cuộc đấu tranh không mệt mỏi để giành được sự tôn trọng, để thực hiện quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Cách mạng Việt Nam thành công, nước Việt Nam dân chủ kiểu mới ra đời, chính thức trao danh vị công dân cho nhân dân. Điều đó đã phản ánh ý thức, trách nhiệm công dân ngày một nâng cao, tiến bộ và phát triển nhất là về tri thức của công dân, tình cảm công dân, bản lĩnh, ý chí công dân. Song song với đó, công dân đoàn kết, thống nhất cùng nhau tạo dựng những cơ chế bảo đảm thực thi các quyền cơ bản của mình trong xã hội hiện đại và hình thức ưu việt hơn cả là NNPQ, nhất là NNPQ XHCN. Gắn với quá trình xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam, cho thấy mối quan hệ tác động qua lại giữa YTCD và NNPQ, trong đó vai trò của YTCD đối với quá trình xây dựng và hoàn thiện NNPQ Việt Nam XHCN là rất quan trọng. YTCD tác động trực tiếp trên cả ba phương diện là hệ thống thể chế, tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ để tiến tới có một NNPQ XHCN Việt Nam thực sự của dân, do dân và vì dân. Điều đó có ý nghĩa to lớn, góp phần vào thành công của sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. 15 Chương 3 Ý THỨC CÔNG DÂN VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA 3.1. THỰC TRẠNG Ý THỨC CÔNG DÂN TRONG THAM GIA XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM NHỮNG NĂM QUA 3.1.1. Những mặt tích cực của ý thức công dân trong việc tham gia xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa những năm qua 3.1.1.1. Ý thức công dân trong xây dựng Hiến pháp, hoàn thiện thể chế, hệ thống pháp luật và cơ chế vận hành của nhà nước Một là, công dân tham gia ngày càng đông đảo vào việc góp ý kiến xây dựng Hiến pháp, hệ thống pháp luật. Bên cạnh đó và quan trọng không kém là tham gia góp ý cho các văn kiện chính trị của Đảng. Tiêu biểu gần đây nhất là cuộc vận động toàn dân đóng góp xây dựng Hiến pháp năm 2013. Hai là, công dân đóng góp ý kiến ngày càng có trách nhiệm, mang tính xây dựng vì sự phát triển của quốc gia, vì chất lượng, tính khả thi của Hiến pháp, hệ thống pháp luật trong cuộc sống. Ba là, công dân nêu những đề xuất, sáng kiến mới, những cách làm hay trong quá trình xây dựng pháp luật. 3.1.1.2. Ý thức công dân trong xây dựng, hoàn thiện tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước Công dân tham gia xây dựng tổ chức, bộ máy nhà nước. Dưới hình thức dân chủ gián tiếp, công dân tham gia bầu cử, tìm kiếm, lựa chọn người đại biểu cho mình làm việc tại cơ quan quyền lực nhà nước là Quốc hội và HĐND các cấp. Điểm tích cực của việc thực hiện dân chủ gián tiếp ở nước ta so với bầu cử tại nhiều nước trên thế giới là, tỷ lệ công dân tham gia bầu cử ở nước ta rất cao, thậm chí gần đạt con số tuyệt đối. Công dân tham gia hoàn thiện tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. 16 Công dân tham gia trực tiếp cùng bộ máy chính quyền cơ sở trong quá trình thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. 3.1.1.3. Ý thức công dân trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước Thứ nhất, mọi công dân sẵn sàng phát huy dân chủ trực tiếp, hưởng ứng chủ trương của Đảng, Nhà nước về việc bầu trực tiếp một số chức danh ở cơ sở. Thứ hai, công dân tích cực tham gia vào quá trình giám sát, kiểm soát hoạt động thực thi công vụ. Thứ ba, công dân tích cực tham gia công tác phòng, chống tệ nạn tham nhũng, quan liêu, lãng phí. 3.1.2. Những mặt hạn chế của ý thức công dân trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội hội chủ nghĩa Việt Nam những năm qua 3.1.2.1. Hạn chế trong tham gia xây dựng Hiến pháp, hoàn thiện pháp luật và cơ chế vận hành của nhà nước Thứ nhất, chất lượng ý kiến của công dân đóng góp vào các văn kiện chính trị - pháp lý của đất nước chưa cao. Thứ hai, YTCD thể hiện ra trong quá trình đóng góp còn thiếu tính xây dựng, đôi khi chủ yếu mang tính phê phán, tính phản biện chưa cao, chưa khoa học, chưa đúng đắn và phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước. Thứ ba, về phía các cơ quan nhà nước, một bộ phận cán bộ chưa tạo điều kiện tốt nhất để phát huy vai trò YTCD trong việc tham gia đóng góp ý kiến. 3.1.2.2. Hạn chế trong tham gia xây dựng, hoàn thiện tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước Trong hoạt động tham gia xây dựng bộ máy nhà nước và hoạt động lập pháp. Một bộ phận công dân còn thờ ơ, ý thức chính trị không cao, vô cảm, biểu hiện rõ ở việc người dân tham gia bầu cử. Đối với hoạt động hoàn thiện, nâng cao chất lượng, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Hoạt động tham gia đóng góp của công dân đối với hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước các cấp còn hạn chế. Trong các hoạt động tham gia trực tiếp cùng chính quyền nhà nước cấp cơ sở cũng còn nhiều tồn tại. Một bộ phận cơ quan, tổ chức, nhân viên công 17 quyền cố tình bưng bít thông tin, quy trình, thủ tục, sự việc, hoạt động của chính quyền, thậm chí cố tình che giấu sai phạm trước dân và cấp trên, v.v... 3.1.2.3. Hạn chế trong tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước Đề án thí điểm dân bầu trực tiếp chủ tịch UBND phường, xã, kể cả đối với một số chức danh lãnh đạo cấp huyện đã được Quốc hội ra nghị quyết tạm gác lại để nghiên cứu tiếp cho thật thấu đáo. Đối với vấn đề thực thi công vụ. Quá trình tham gia giám sát hoạt động thực thi công vụ của công dân còn nhiều hạn chế. Công dân chỉ có thể đóng góp ý kiến vào việc xây dựng những bộ tiêu chí, tiêu chuẩn cán bộ chứ không thể trực tiếp tham gia vào các khâu tuyển chọn, quản lý đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Công dân phát huy tính tích cực tham gia phối hợp với các cơ quan nhà nước giám sát, phòng, chống tham nhũng, lãng phí nhưng hiệu quả chưa cao. 3.2. VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ Ý THỨC CÔNG DÂN THAM GIA XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY 3.2.1. Vấn đề đặt ra từ việc phát huy vai trò ý thức công dân tham gia xây dựng Hiến pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế vận hành của nhà nước Một là, đất nước đang đẩy mạnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN dẫn tới việc các quan hệ xã hội thay đổi nhanh chóng. Trong khi đó, tình trạng các văn bản pháp lý thường nhanh lạc hậu so với thực tiễn, các quy định, thủ tục thường bị đánh giá là không theo kịp, là cản trở sự phát triển, không đáp ứng được yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội. Hai là, tình trạng coi nhẹ, đùn đẩy trách nhiệm hay cản trở trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật của một số cơ quan nhà nước vẫn diễn ra dù đã được nêu tên, nhắc nhở, phê bình. Ba là, các hình thức, cơ chế huy động trí tuệ toàn dân trong việc tham gia đóng góp ý kiến xây dựng, hoàn thiện thể chế, hệ thống pháp luật khá đa dạng nhưng còn có những hạn chế nhất định, lại được tổ chức chưa tốt, chưa hiệu quả. 18 Bốn là, ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thiết lập không gian tương tác giữa công dân và Nhà nước còn bất cập, mỗi nơi làm một kiểu, dẫn tới không tương thích về nền tảng công nghệ, không ăn khớp, liên thông giữa các cơ quan trung ương với cơ quan địa phương, giữa các địa phương với nhau và giữa các cơ quan trung ương với nhau. Năm là, nhận thức, hiểu biết của công dân về tầm quan trọng của việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật còn thấp, hiểu biết pháp luật không cao, một bộ phận người dân còn thờ ơ, không quan tâm đến xây dựng nhà nước, xây dựng pháp luật, coi đó là việc riêng của chính quyền. 3.2.2. Vấn đề đặt ra trong việc phát huy vai trò ý thức công dân tham gia xây dựng, hoàn thiện, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động tổ chức bộ máy nhà nước Một là, công dân thiếu thông tin về nhà nước, hoạt động của cơ quan nhà nước, dẫn tới việc đóng góp xây dựng nhà nước còn nhiều bất cập. Hai là, vẫn còn những hiện tượng mà nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao đã cảnh báo như “trên bảo dưới không nghe”, “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, “trên dải thảm, dưới dải đinh”, “trên làm, dưới làm, ở giữa không làm gì”, “trên nóng, dưới lạnh”, v.v.. làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào thực tâm và hành động của chính quyền địa phương. Ba là, tình trạng nóng vội, mỗi nơi làm một kiểu, dẫn tới không thống nhất về tên gọi, về chức năng, nhiệm vụ của bộ máy. Bốn là, phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” gắn với các hoạt động xây dựng chính quyền cấp cơ sở dù được nghe nhiều, nói nhiều, nhưng thực hiện đầy đủ và thực chất thì chưa được bao nhiêu. 3.2.3. Vấn đề đặt ra từ việc phát huy vai trò ý thức công dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước Khắc phục triệt để tàn dư của tư tưởng, phong cách gia trưởng phong kiến của một bộ phận cán bộ với tâm lý bề trên, ban phát lợi ích cho dân, vẫn quan niệm rằng dân là đối tượng quản lý chứ không phải là đối tượng được phục vụ, chỉ cần thực hiện tốt chức năng quản lý để công dân phục tùng nhà nước, phục tùng pháp luật là đủ, mà không nhận thức sâu sắc “dân là chủ”, phải thực thi quyền hạn, trách nhiệm được giao để “dân làm chủ”.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan