VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐINH THỊ ĐIỂM
TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC TRONG TRUYỆN KIỀU
CỦA NGUYỄN DU
N N TIẾN
T IẾT HỌC
HÀ NỘI - 2016
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐINH THỊ ĐIỂM
TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC TRONG TRUYỆN KIỀU
CỦA NGUYỄN DU
Ngành
Chuyên ngành
Mã số
: Triết học
: CNDVBC & CNDVLS
: 62220301
N N TIẾN
T IẾT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Nguyễn Văn Cƣ
2. PGS.TS. Lê Thị Lan
HÀ NỘI - 2016
ỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi muốn bày tỏ lòng cảm kích và sự biết ơn sâu sắc đối với hai giáo
viên hướng dẫn PGS.TS. Nguyễn Văn Cư và PGS.TS. Lê Thị Lan đã giúp đỡ tận tình và
làm việc với tất cả tinh thần trách nhiệm, đặc biết hai thầy cô đã có những ý kiến đóng
góp quý báu đồng thời sữa chữa rất công phu để tôi hoàn thành được luận án của mình.
Tôi xin gửi lời cảm ơn trân trọng đến quý thầy, cô giáo trong Khoa Triết học Học Viện Khoa học xã hội, đặc biệt là PGS.TS. Phạm Văn Đức, PGS.TS. Hồ Việt
Hạnh đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và ủng hộ đề tài luận án của tôi rất nhiệt tình để
tôi có cơ hội thực hiện niềm đam mê khoa học của mình. Xin được cảm ơn các thầy
cô trong Hội đồng khoa học, đã tận tình đóng góp ý kiến với tinh thần khách quan và
khoa học để luận án của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi không thể thực hiện được sự nghiệp học tập của mình nếu như không có sự
ủng hộ và tạo điều kiện mọi mặt từ phía cơ quan công tác của mình, vì thế tôi vô cùng
biết ơn sự giúp đỡ quí báu của ban lãnh đạo Trường sĩ quan Tăng Thiết giáp - Bộ tư
lệnh Tăng Thiết Giáp. Đặc biệt là sự ủng hộ và giúp đỡ kịp thời của PGS. TS. Thiếu
Tướng Hoàng Trung Kiên.
Tôi không xem việc tôi làm này như một công trình cá nhân, mà đằng sau luôn
là sự giúp đỡ và chia sẻ của thầy cô, bạn bè, gia đình, và sự hiện diện vắng mặt vô giá
của những người tôi không thể nhắc hết tên, đặc biệt là bố mẹ yêu quí của mình. Con
cảm ơn bố mẹ vì tất cả những hi sinh, vất vã mà bố mẹ đã dành cho con. Ở một nơi
nào đó có ai sẵn sàng hi sinh tất cả mọi của cải, mọi thứ ân sủng quí giá nhất trên đời,
sẵn sàng vì con mình mà chịu đựng tất cả thì đó chính là bố mẹ của tôi. Con yêu bố
mẹ thật nhiều!
Hà Nội, năm 2016
TÁC GIẢ LU N ÁN
Đinh Thị Điểm
ỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận án: Tư tưởng triết học trong Truyện Kiều
của Nguyễn Du là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Luận án đã được
nghiên cứu một cách khoa học và nghiêm túc, các trích dẫn trong luận án
là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được công
bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.
Hà Nội, năm 2016
T C GIẢ
N N
Đinh Thị Điểm
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU.............................................................................................................. 1
B. NỘI DUNG .......................................................................................................... 5
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨ
IÊN Q AN ĐẾN ĐỀ
TÀI LU N ÁN ......................................................................................................... 5
1.1.Tình hình nghiên cứu về hoàn cảnh ra đời Truyện Kiều và những sáng tạo
của Nguyễn Du so với tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài
Nhân .................................................................................................................... 5
1.2. Tình hình nghiên cứu về ảnh hưởng của tư tưởng triết học Việt Nam và
triết học Nho - Phật - Lão trong Truyện Kiều ................................................. 11
1.3. Tình hình nghiên cứu về tư tưởng triết học trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du ................................................................................................. 20
1.4. Qua việc khảo cứu các công trình liên quan đến đề tài tác giả lựa chọn và
xác định những vấn đề cần tập trung giải quyết trong luận án ......................... 31
Chƣơng 2. TRUYỆN KIỀU VÀ NHỮNG TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC ẢNH
HƢỞNG ĐẾN TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU ........................................ 34
2.1. Bối cảnh lịch sử ra đời của của tác phẩm Truyện Kiều và những sáng tạo
của Nguyễn Du so với nguyên tác .................................................................... 34
2.2. Những tư tưởng triết học ảnh hướng đến Truyện Kiều của Nguyễn Du ... 44
Chƣơng 3. NỘI DUNG NHỮNG TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC CƠ BẢN
TRONG TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU .................................................. 72
3.1. Khái niệm tư tưởng và tư tưởng triết học .................................................. 72
3.2. Tư tưởng triết học về nhân sinh trong Truyện Kiều của Nguyễn Du........ 77
3.3. Tư tưởng triết học về xã hội trong Truyện Kiều của Nguyễn Du ............ 98
Chƣơng 4. GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TRONG
TRUYỆN KIỀU .................................................................................................... 113
4.1.Giá trị nhân sinh, giá trị xã hội và giá trị đối với văn hóa dân tộc ........... 113
4.2. Những hạn chế của tư tưởng triết học trong Truyện Kiều ...................... 139
C. KẾT LU N ....................................................................................................... 153
NHỮNG CÔNG T ÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
IÊN Q AN ĐẾN
LU N ÁN ............................................................................................................. 155
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................... 156
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tác phẩm Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du được chưng cất từ tinh hoa
trí tuệ dân tộc, đứng ở vị trí hàn lâm cao sang nhưng lại có sức lan tỏa với sức sống
mạnh mẽ trong dân chúng. Từ bậc học giả đến tầng lớp thường dân không ai lại
không thuộc một vai câu Kiều. Hơn ba ngàn hai trăm câu thơ từ xưa được phổ biến
sâu rộng trong đời sống nhân dân. Người ta có tâm trạng thường đọc Kiều, vui thì
hát Kiều, vịnh Kiều, buồn lại lẫy Kiều, lo lắng bất an trong lòng thì bói Kiều, thi thố,
giải trí lại đố Kiều, tập Kiều. Chừng ấy câu thơ của Kiều như có cuộc sống riêng
ngoài đời vì có thể bất kỳ tâm trạng vui, buồn, thương, ghét nào của con người cũng
có thể ứng với một hai câu Kiều để biểu lộ, để ngẫm ngợi, để giải tỏa, biện minh,
giải thích và đồng cảm. Có những câu Kiều đã trở thành chân lý trong tư duy của
quần chúng, có tính triết lý rất sâu sắc. Trong một thời gian dài, Truyện Kiều với
những giá trị mà tác giả truyền tải đã xâm nhập vào những hành vi ứng xử của người
dân trong đời sống. Truyện Kiều như là triết lý ở đời khuyên răn con người về lẽ
sống, chỉ dạy về cách xử thế trong đời. Đọc Truyện Kiều, thuộc Kiều, nghiên cứu
Truyện Kiều sẽ thấy được những giá trị triết học trong đó để trở nên “Người” hơn,
nhân ái hơn, văn hóa hơn và học được cách ứng xử trong cuộc sống trí tuệ hơn.
Truyện Kiều thật đẹp về mặt văn chương, sâu sắc về mặt chính trị, hội tụ đầy đủ
các giá trị chân-thiện-mỹ mang tính dân tộc, đầy tính triết lý nhân sinh cùng sự minh
triết trong cuộc đời. Mặt khác, Truyện Kiều còn có tính giáo dục ở nhiều phương
diện, chuyên chở trong đó một nền tảng ý thức nhân văn và luân lý đạo đức của người
Việt Nam một cách tự nhiên và sâu sắc. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường với sự
mở rộng giao lưu văn hóa, hội nhập như hiện nay nếu thế hệ trẻ Việt Nam chỉ trang bị
cho mình vốn kiến thức về văn hóa của dân tộc hết sức mong manh thì sợ rằng luồng
gió văn hóa ngoại lai sẽ thổi bay đi hết những giá trị văn hóa thuần Việt. Với việc
nghiên cứu đề tài “Tư tưởng triết học trong Tuyện Kiều của Nguyễn Du” tác giả
mong muốn thế hệ trẻ biết tiếp thu, giữ gìn và trân trọng những tinh hoa văn hóa của
dân tộc qua đó tự trang bị cho mình vốn hiểu biết cần thiết về giá trị văn hóa của
chính dân tộc mình, bởi lẽ Truyện Kiều là thi phẩm kiệt xuất chứa đựng rất nhiều tinh
hoa văn hóa của dân tộc Việt Nam.
1
Bàn đến Truyện Kiều, mặc dù đã có rất nhiều công trình nghiên cứu ở các góc
độ khác nhau, nhưng Truyện Kiều vẫn là một đề tài hấp dẫn cho bất cứ ai đến với nó.
Không phải là trường hợp ngoại lệ, Truyện Kiều đặc biệt hấp dẫn và cuốn hút tác giả
khi đặt vấn đề khám phá tư tưởng triết học ẩn chứa trong tác phẩm. Việc tìm ra tư
tưởng triết học trong Truyện Kiều sẽ góp phần lý giải được phần nào nguyên nhân tạo
ra giá trị bất hủ của Truyện Kiều và làm tăng tính giáo dục bằng những luân lý đạo
đức cho con người. Làm rõ tính triết học ẩn chứa trong Truyện Kiều sẽ góp phần lý
giải được về kiếp người, về số phận con người, hiểu thêm về quan niệm sống ở đời,
về triết lý nhân sinh, thấy được giá trị của những triết lý trong Truyện Kiều đối với xã
hội, học được cách ứng xử tao nhã, tế nhị, văn hóa và vô cùng trí tuệ. Vì vậy, đề tài
mong muốn khảo sát các tư tưởng triết học trong Truyện Kiều, một tác phẩm văn
học nổi tiếng của dân tộc, từ đó thấy được giá trị của những tư tưởng triết học
trong Truyện Kiều đối với văn hóa dân tộc và đối với đời sống xã hội hiện nay.
Đặc biệt trong thời kỳ phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật và công nghệ
thông tin như vũ bão, với xu thế hội nhập, mở rộng sự giao lưu về văn hóa như
hiện nay thì việc bảo tồn, giữ gìn, tôn vinh và học hỏi những giá trị tinh hoa của
triết học dân tộc lại càng quan trọng hơn bao giờ hết.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
+ Mục đích nghiên cứu:
Làm rõ tư tưởng triết học trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, qua đó rút ra
được giá trị của nó đối với đời sống nhân sinh, xã hội và đối với văn hóa dân tộc.
+ Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ bối cảnh lịch sử - xã hội và các dòng tư tưởng ảnh hưởng đến sự ra đời
của tác phẩm Truyện Kiều cùng những sáng tạo của Nguyễn Du so với nguyên tác.
- Làm rõ những nội dung tư tưởng triết học cơ bản trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du.
- Đánh giá về giá trị và hạn chế của các tư tưởng triết học trong Truyện Kiều
đối với đời sống xã hội.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
+ Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận án là tư tưởng triết
học trong Truyện Kiều, chủ yếu tập trung vào triết học nhân sinh và tư tưởng triết
học xã hội.
2
+ Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi của luận án chỉ giới hạn việc phân tích tư tưởng triết học trong Truyện
Kiều của Nguyễn Du ở khía cạnh triết học nhân sinh và triết học xã hội. Lấy cuốn
“Nguyễn Du và Truyện Kiều” của Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú thích
làm tài liệu chính để trích dẫn các câu Kiều.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
+ Cơ sở lý luận:
Tác giả luận án lấy lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam làm cơ sở lý luận. Đồng thời đặt
mọi vấn đề nghiên cứu trong mối quan hệ biện chứng và đặt trong điều kiện lịch
sử cụ thể để nghiên cứu một cách khách quan về những tư tưởng triết học cơ
bản trong Truyện Kiều qua đó rút ra được những giá trị và hạn chế của nó trong
đời sống xã hội.
+ Phương pháp nghiên cứu:
Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
ngoài ra còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: so sánh và đối
chiếu, phân tích và tổng hợp, phương pháp liên hệ thực tiễn và phỏng vấn lấy ý
kiến chuyên gia.
5. Đóng góp mới của luận án
+ Luận án đã làm rõ được sự ảnh hưởng của các dòng tư tưởng triết học đến
Truyện Kiều của Nguyễn Du, như tư tưởng Việt Nam, tư tưởng Nho - Phật - Lão.
+ Luận án đã phân tích và làm rõ được những nội dung cơ bản của tư tưởng
triết học trong Truyện Kiều, đó là tư tưởng triết học nhân sinh và tư tưởng triết học
xã hội.
+ Từ việc nghiên cứu và làm rõ tư tưởng triết học trong Truyện Kiều, luận án
đã rút ra được giá trị và hạn chế của nó đối với đời sống xã hội và đối với văn hóa
của dân tộc.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
+ Ý nghĩa lý luận:
Kết quả của luận án đạt được giúp chúng ta hiểu hơn về tư tưởng triết học của
chính dân tộc mình, từ đó hiểu thêm về biện chứng trong tâm hồn người Việt, giải
3
mã được sự phong phú trong đời sống tinh thần và sức mạnh vươn lên vượt qua
mọi khó khăn, gian khổ trong cuộc sống hàng ngày của người dân.
Với kết quả nghiên cứu mà luận án đã đạt được sẽ góp phần học hỏi và phát
huy những giá trị văn hóa của dân tộc, gúp thế hệ trẻ Việt Nam biết tiếp thu, biết
giữ gìn và trân trọng những tinh hoa văn hóa của dân tộc mình.
+ Ý nghĩa thực tiễn:
Có thể vận dụng những triết lý mang tính giáo dục mà Nguyễn Du gửi gắm
trong Truyện Kiều vào đời sống hàng ngày, vào mối quan hệ ứng xử giữa người
với người để cuộc sống ngày càng trở nên tốt đẹp hơn, văn hóa hơn.
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy triết
học Phương Đông, triết học Việt Nam, và văn học Việt Nam.
7.
ết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm có 4
chương, 11 tiết.
4
B. NỘI DUNG
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨ
IÊN Q AN ĐẾN
ĐỀ TÀI LU N ÁN
1.1.Tình hình nghiên cứu về hoàn cảnh ra đời Truyện Kiều và những sáng
tạo của Nguyễn Du so với tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm
Tài Nhân
1.1.1. Những nghiên cứu về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm Truyện Kiều
Trong cuốn “Kỷ niệm 200 năm sinh Nguyễn Du”, do Ủy ban khoa học xã hội
Việt Nam, Viện Văn học phát hành năm 1971, ngay ở bài “Diễn Văn khai mạc lễ
kỷ niệm 200 năm sinh thi hào dân tộc Nguyễn Du” do ông Hoàng Minh Giám đọc
đã khẳng định: Thời đại Nguyễn Du là thời đại đau khổ và oanh liệt vào bậc nhất
trong lịch sử Việt Nam, thời đại của chế độ phong kiến mục nát, thời đại của nhiều
cuộc khởi nghĩa nông dân liên tiếp, nhất là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn vĩ đại đã lật
đổ vua chúa trong nước và chiến thắng hai mươi vạn quân Mãn Thanh xâm lược.
Nhưng rốt cuộc xã hội Việt Nam thời ấy vẫn không thoát ra khỏi chế độ phong
kiến. Với lời khẳng định trên, tác giả đã cung cấp cho chúng ta thấy tình hình chính
trị-xã hội thời đại Nguyễn Du đầy bất ổn và hỗn loạn trong dân chúng cùng sự nổi
dậy chưa từng có của các cuộc khởi nghĩa nông dân chống lại giai cấp phong kiến.
Ở công trình “Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực Nguyễn Du” của giáo sư Lê
Đình Kỵ là một công trình mang tính khái quát cao đồng thời phân tích sâu sắc bối
cảnh thời đại Nguyễn Du. Cùng với sự rối ren trong xã hội, sự tiêu điều về kinh tế
và suy đồi về đạo đức là hàng loạt phong trào nông dân khởi nghĩa: “Đó là lịch sử
của những nội chiến miên man, của những cuộc tranh giành địa vị, giết hại lẫn
nhau trong triều đình. Đồng thời, đó cũng là lịch sử của những cuộc khởi nghĩa
nông dân anh dũng, “cầm lửa đốt trời”, những cuộc vùng dậy của nhân dân rút
cuộc bị đè bẹp, nhưng ý chí thì không sao dập tắt nổi”[45, tr. 23].
Tác giả Xuân Diệu với cuốn “Truyện Kiều trong văn hóa Việt Nam” đã nói lên
sự đau khổ của thời đại thấm vào ngòi bút Nguyễn Du, để rồi bật lên tiếng khóc
lớn dưới chế độ xã hội hà khắc “Đoạn trường tân thanh” là “tiếng kêu mới về nỗi
đứt ruột”. Tác giả đã vạch ra những mâu thuẫn không giải quyết được của xã hội
phong kiến, cuối cùng Xuân Diệu kết luận: “Nguyễn Du của ta sống trong một thời
5
đại chế độ phong kiến ở Việt Nam tan rã đến tột độ, một thời đại loạn ly, một xã
hội tan nát đã làm cho tâm hồn rất mực dễ cảm, rất mực thương người của Nguyễn
Du đau đớn xót xa. Ông lấy những đau khổ của thời đại làm những đau khổ của
chính mình” [20, tr.8-9].
Bài viết “Nguyễn Du với nhân vật Từ Hải” của tác giả Đặng Thanh Lê đã phân
tích một cách sắc sảo bối cảnh thời đại Nguyễn Du là một giai đoạn lịch sử có nhiều
biến cố lớn lao và mọi giá trị đều bị đảo lộn, một thế kỷ “cương thường đảo lộn, thế
sự đảo điên”. Bên cạnh những quan lại tha hóa, hèn nhát, là một số anh hùng nổi lên
với lý tưởng “giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha”: “Thế kỷ XVIII là thế kỷ nông
dân khởi nghĩa. Sử sách cũng đã kể lại nhiều sự kiện như trên khi viết về lịch sử
vùng dậy của nông dân Việt Nam thời đại này. Ở một phạm vi nhất định, nói màn
báo ân báo oán trong Truyện Kiều gắn bó với tư tưởng “ bảo dân” của các lãnh tụ
nhân dân khởi nghĩa thế kỷ XVIII cũng không phải là không có cơ sở” [52, tr. 358].
Nghiên cứu về hoàn cảnh ra đời của Truyện Kiều không thể không nhắc tới
công trình vô cùng giá trị, phân tích hết sức sâu sắc mọi khía cạnh từ kinh tế, chính
trị, xã hội đến các cuộc đấu tranh giai cấp trong thời đại Nguyễn Du đó là cuốn
“Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du” của tác giả Trương Tửu. Với công trình này
Trương Tửu đã phân tích đầy thuyết phục những mâu thuẫn nảy sinh trong xã hội
dẫn đến các cuộc nổi dậy của nông dân chống lại bọn cường hào, diệt trừ quan
tham. Tình hình kinh tế đình trệ, cộng với sự bóc lột nông dân thậm tế của giai cấp
thống trị đã làm cho mâu thuẫn xã hội lên đến đỉnh điểm.
Lê Đình Kỵ với cuốn “Hiểu đúng đắn về Truyện Kiều” đã làm rõ tình hình rối
ren về chính trị và bất ổn về xã hội với sự sụp đổ liên tiếp của các triều đại đã làm
chấn động đến tâm hồn dễ cảm của Nguyễn Du, nhiều khi làm cho ông mất niềm
tin vào cuộc sống mà phải hướng niềm tin vào định mệnh: “Ở vào thời kỳ ly loạn,
đảo điên, tính mệnh con người như cỏ rác, tư tưởng người ta cũng dễ hướng vào
chủ nghĩa định mệnh. Thời đại Nguyễn Du là thời đại có nhiều biến cố dữ dội, bao
nhiêu sự việc diễn ra Nguyễn Du không sao hiểu được. Những tranh giành giết hại
lẫn nhau vẫn thường thấy ở các triều đại trước đến thời Nguyễn Du thì trở thành
chuyện hàng ngày” [44 ,tr. 19].
Cùng với quan điểm trên trong cuốn “Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm”
Nguyễn Hữu Sơn đã phân tích về tình trạng hỗn loạn và xu thế tan rã của xã hội
6
phong kiến Việt Nam lúc bấy giờ đã làm cho đời sống nhân dân hết sức cực khổ:
“Không cần phải mô tả nhiều ai cũng có thể đoán biết người dân Việt Nam sống
giữa những biến cố ấy, giữa sự tan vỡ của một chế độ đã tàn ác lại càng tàn ác hơn
trong khi nó tan vỡ thì lầm than khốn khổ như thế nào. Cái cảnh sớm màn loan
trướng huệ, chiều chiếc lá lênh đênh không phải là cảnh tưởng tượng mà là cảnh
Nguyễn Du từng mục kích, từng trải qua vậy nên Nguyễn Du đã cảm thông được
một phần nỗi khổ chung của con người bị chà đạp dưới một chế độ ngày càng thêm
mục nát” [79, tr. 483-484].
Đỗ Đức Dục với cuốn “Về chủ nghĩa hiện thực thời đại Nguyễn Du” đã phân tích
một cách cụ thể tình hình kinh tế suy sụp, chính trị rối ren và tác giả còn vẽ lên được
bức tranh khá hào hùng về cuộc nổi dậy long trời lỡ đất của lực lượng nông dân chống
lại phong kiến đứng đầu là Nguyễn Huệ: "Xã hội Việt Nam ở thế kỷ 18, đó là những
đảo lộn chưa từng thấy trên bối cảnh hoàng hôn phong kiến bầy ra một mặt thối nát và
bất lực của vua chúa, mặt khác cùng cực và trổi dậy của nông dân” [15, tr.140].
Ở công trình “Lịch sử tư tưởng Việt Nam” do Nguyễn Tài Thư chủ biên đã
phản ánh về sự xuống dốc của đạo đức trong xã hội, sự tiêu cực và bệ rạc trong thi
cử, phản ánh một nền giáo dục hư hỏng trong bối cảnh thời đại Nguyễn Du, với
tình trạng mua quan bán chức, đút lót trong thi cử để được đậu đạt một cách công
khai “Xã hội loạn lạc của thế kỷ XVIII là nguồn gốc của những suy tư văn học và
sáng tác văn học. Nhiều tác phẩm văn học lớn đã ra đời, như “Chinh Phụ Ngâm”
của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm, “Cung Oán Ngâm Khúc” của Nguyễn Gia
Thiều, và nhất là cuốn Truyện Kiều của Nguyễn Du, ra đời đầu thế kỷ XIX, là tác
phẩm tiêu biểu của văn học cổ điển Việt Nam. Các tác phẩm trên phản ánh nhiều
cảnh ngộ éo le của con người, thể hiện nhiều khát vọng về tình yêu và lẽ sống, về
đạo làm người, đồng thời đề cập đến nhiều phương hướng giải quyết các vấn đề
nhân sinh và xã hội” [102, tr. 413].
“200 năm nghiên cứu bàn luận Truyện Kiều” do tác giả Lê Xuân Lít sưu tầm
(2005), là một công trình đồ sộ và mang tầm vóc khoa học lớn lao, chứa đựng trong
đó nhiều bài viết sắc sảo, có giá trị rất lớn về mặt học thuật đặc biệt với bài viết
“Chiếc ngai vàng mục rũa và sấm sét của phong trào nông dân khởi nghĩa” của
Đặng Thanh Lê đã phân tích một cách sát thực về tình hình kinh tế, chính trị, đạo đức
khủng hoảng một cách trầm trọng trong toàn bộ cơ cấu xã hội phong kiến và sức trỗi
7
dậy với một khí thế chưa từng có trong phong trào nông dân khởi nghĩa. “Chưa bao
giờ, chế độ phong kiến Việt Nam, giai cấp phong kiến Việt Nam lại bộc lộ bản chất
tiêu cực, phản động của nó một cách trắng trợn, lỗ liễu và toàn diện như lúc này.
Không những bất lực, nó còn đi vào con đường phản động trên mọi vấn đề kinh tế,
chính trị, ngoại giao…đặt ra trước mắt. Tuy nhiên trận tuyến hàng đầu vẫn là cuộc
đấu tranh giữa những người nông dân chống lại giai cấp phong kiến với một khí thế
quyết liệt chưa từng có trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam”[52, tr. 22-24].
Ngoài những công trình, bài viết đã phân tích ở trên về hoàn cảnh lịch sử thời
đại Nguyễn Du còn có một số công trình, bài viết cũng đề cập đến vấn đề này như
cuốn “Khảo luận về Truyện Kiều của Đào Duy anh”, năm 1943, đã đề cập đến
hoàn cảnh ra đời của Truyện Kiều nhưng mới chỉ là bản tóm tắt, thống kê những sự
kiện lịch sử chưa phân tích về điều kiện kinh tế, chính trị thời đại Nguyễn Du. Còn
Trương Tửu thì lại tuyên bố: “Truyện Kiều là bức tranh trung thành của thời đại
Tây Sơn, tiếng nói trung thành của quần chúng nhân dân đã làm ra phong trào Tây
Sơn, ý thức sâu sắc về cuộc chiến chống phong kiến đương thời với tất cả ưu điểm,
khuyết điểm, nhược điểm của tầng lớp xã hội bị bóc lột, áp bức tiến hành cuộc
chiến đấu ấy” [101, tr. 515].
Như vậy, với những công trình tâm huyết, với những bài viết sắc sảo và những
kết luận sát thực với thực tế tình hình kinh tế, chính trị, xã hội cuối thế kỷ XVIII
đầu thế kỷ XIX hầu như các tác giả đã làm rõ được bối cảnh thời đại Nguyễn Du.
Tác giả luận án trên cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các tác giả đi
trước sẽ đi vào tìm hiểu về hoàn cảnh ra đời của Truyện Kiều một cách chuyên sâu
hơn và cố gắng tiếp cận theo một hướng kế thừa có sáng tạo để thấy được những
tiền đề kinh tế, chính trị-xã hội và tư tưởng nào đã tác động đến Nguyễn Du góp
phần hình thành nên những tư tưởng triết học trong Truyện Kiều.
1.1.2. Những nghiên cứu về sáng tạo của Nguyễn Du trong Truyện Kiều
so với tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân
Công trình “Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều” của tác giả
Phan Ngọc đã làm rõ được sự sáng tạo của Nguyễn Du so với tác phẩm Kim Vân
Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân ở góc độ kết cấu, bố cục và cách kể chuyện,
xét về mặt kết cấu hầu như tiểu thuyết Trung Quốc đều kết cấu theo lối chương hồi
truyền thống. Sang Truyện Kiều, chúng ta hầu như bước sang một thế giới khác
8
hẳn, đây là việc Nguyễn Du làm khác hẳn so với thể loại truyền thống của tiểu
thuyết Trung Quốc, sự việc diễn ra do cái lôgic khách quan của cuộc sống, và quan
trọng hơn ông đặt sự việc vào một thế đối lập, vào những tương phản bắt người ta
phải rút ra những kết luận cần thiết.
Đào Duy Anh trong sách “Khảo luận về Truyện Thúy Kiều” đã nêu lên nhiều
vấn đề mới quan trọng như sự tích lịch sử của Thúy Kiều, đặc biệt là tác giả so
sánh Truyện Kiều với Kim Vân Kiều truyện, và đã nêu lên nhận định mới:
“Nguyễn Du đã hoán cốt đoạt thai Kim Vân Kiều truyện mà tạo thành một tác
phẩm hoàn toàn mới. Nguyên Văn thì tự sự rất tỷ mỷ mà khô khan, Nguyễn Du thì
tự sự vắn tắt, gọn gàng, vừa tự thuật vừa tự luận khiến văn có hứng thú, Nguyễn
Du tuy không tả thực nhưng lại là một tay tâm lý học sành sỏi”[1,tr.49]. Những ý
kiến của Đào Duy Anh rất độc đáo và giá trị vì nó đã gợi hướng mới cho những
người đi sau nghiên cứu về những sáng tạo của Nguyễn Du vượt hẳn nguyên tác.
Cùng đồng nhất với quan điểm trên tác giả Nguyễn Lộc trong cuốn “Văn học
Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX” đã cho rằng: “Ngày nay có
lẽ hầu hết học giả đều xem Truyện Kiều không phải là tác phẩm dịch hay phóng
tác, mà là một tác phẩm sáng tạo đích thực. Lẽ cố nhiên, là được sáng tạo theo các
quy luật của văn học trung đại, trên cơ sở vay mượn, cải biến, cải tạo một truyện
có sẵn để tạo thành một tác phẩm khác, xuất phát từ một cảm hứng mới với những
nguyên liệu mới, những điều nghe thấy, cảm xúc, suy nghĩ của mình trong hoàn
cảnh xã hội Việt Nam thời đại Nguyễn Du”[59,tr.67].
Nghiên cứu về vấn đề này Nguyễn Thạch Giang đã đưa ra ý kiến của mình:
“Ngày nay, tuy lác đác vẫn còn có người xem Truyện Kiều là tác phẩm dịch, mô
phỏng, song tuyệt đại bộ phận học giả vẫn xem Kiều là một sáng tác”[28,tr.73].
Ngay học giả Trung Quốc trong công trình “So sánh văn học Trung Quốc và văn
học nước ngoài‟‟ do Chu Vi Chi chủ biên. Khi đề cập tới Truyện Kiều của Nguyễn
Du tuy cũng nói “phiên bản” của tiểu thuyết Trung Quốc, song đã viết: “Truyện
Kiều tuy vay mượn đề tài của tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện, nhưng quyết
không phải là một tác phẩm dịch, cũng không phải là tác phẩm mô phỏng máy móc
đơn giản, mà là một thành quả lớn của việc cấu tứ lại một cách tinh vi, và tái tạo lại
trên cơ sở dị thực” [10, tr. 317].
9
Vượt xa tất cả những nghiên cứu đã phân tích ở trên về phương diện sáng tạo
của Nguyễn Du so với tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân,
tác giả Trần Đình Sử đã đề cập tới sự sáng tạo của Nguyễn Du về góc độ tư tưởng
và quan niệm mới về con người, mà trong nguyên tác không có để cho ra đời một
kiêt tác bất hủ với thời gian, tuy nhiên tác giả chưa đi sâu vào chứng minh và làm
rõ cụ thể sáng tạo về mặt tư tưởng mới như thế nào nhưng phải thừa nhận đây là
một tìm tòi và phát hiện vô cùng đáng trân trọng và có giá trị gợi mở cho người đi
sau tiếp tục nghiên cứu mà từ trước chưa ai đề cấp tới.
N.L Niculin, nhà nghiên cứu về văn học Việt Nam, đã có bài viết hết sức đặc
sắc “Nguyễn Du nhà thơ nhân đạo lỗi lạc” trình bày một cách thuyết phục những
sáng tạo bậc thầy của Nguyễn Du trong Truyện Kiều so với nguyên tác ban đầu về
cốt truyện, về hình tượng nhân vật, đặc biệt tác giả nhấn mạnh sự sáng tạo của
Nguyễn Du trong việc dựa trên truyền thống thơ ca Việt Nam và đã sử dụng rất
nhiều hình ảnh của ca dao để sáng tạo ra một hệ thống hình tượng độc đáo.
Lê Hoài Nam đã có một sự so sánh Truyện Kiều với Kim Vân Kiều truyện rất
chi tiết trong cuốn “200 năm nghiên cứu và bàn luận về Truyện Kiều” về phương
diện hình thức nghệ thuật, phương pháp sáng tác cho đến tính hiện thực, tính tư
tưởng, đồng thời tác giả đã thực hiện việc đối chiếu giữa hai tác phẩm để tìm ra
điểm dị đồng về các mặt như tổ chức kết cấu, tính cách nhân vật, cơ sở chủ đề tư
tưởng. Từ kết quả những so sánh ấy tác giả đã rút ra những nhận định về cách xử
lý cuốn Kim Vân Kiều truyện, về tài năng nghệ thuật, về phong cách và phương
pháp sáng tác, về thế giới quan Nguyễn Du và giá trị chân chính của Truyện Kiều.
Đây thực sự là một bài viết tâm huyết, so sánh một cách chi tiết và đưa ra những
kết luận hết sức giá trị, đồng thời tác giả đã có những phát hiện mới mẻ về sáng tạo
của Nguyễn Du vượt trội nguyên tác.
Trong cuốn “Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm”, tác giả Nguyễn Hữu Sơn với
bài viết “Tiếp cận Truyện Kiều của Nguyễn Du trong sự so sánh với Kim Vân
Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân” đã làm nổi bật sự khác biệt về nội dung xã
hội, màu sắc triết lý. Đây thực sự là một quá trình nghiên cứu dựa trên tinh thần
khoa học, đã đi sâu lý giải giá trị và đặc trưng của mỗi tác phẩm và tác giả đã đi
đến kết luận: “Thực tế cho thấy, nếu tác phẩm gốc, nguyên mẫu thường mới chỉ là
những phác họa, những nguyên liệu mới được pha chế, thì các nhà nghệ sĩ đã phù
10
phép hoán cải cốt truyện, mở rộng dung lượng hiện thực, đưa vào trong đó ý nghĩa
triết lý, sức khái quát cao và được thể hiện trong một hình thức nghệ thuật sinh
động” [79, tr. 530].
Trần Thị Phương Phương với bài viết “Tiếp cận Truyện Kiều từ hướng văn
học so sánh và phương pháp so sánh loại hình lịch sử”. Ở bài viết này tác giả đã có
ba hướng chủ yếu trong việc so sánh, nhứ nhất là so sánh Truyện Kiều với chính
nó, đây là vấn đề liên quan đến văn bản, thứ hai là so sánh Truyện Kiều với các tác
phẩm văn học dân tộc vừa cho thấy sự phát huy truyền thống trong sáng tác của
Nguyễn Du, vừa cho thấy những nét độc đáo đặc sắc của riêng nhà thơ và Truyện
Kiều. Và điều quan trọng thứ ba là việc so sánh Truyện Kiều với nguyên tác của
nó, từ đó tác giả khẳng định: “Việc so sánh Truyện Kiều với Kim Vân Kiều truyện
cho thấy nguồn gốc của Truyện Kiều, nhưng chủ yếu cho thấy Truyện Kiều của
Nguyễn Du không phải là bản dịch từ văn xuôi sang văn vần, mà là một sáng tác
của Nguyễn Du cả về mặt hình thức và nội dung tác phẩm” [56, tr. 628].
Như vậy, qua những công trình đã khảo cứu ở trên dù đánh giá khác nhau như
thế nào về mức độ sáng tạo của Nguyễn Du trong Truyện Kiều nhưng tất cả đều
thống nhất và đi đến kết luận: Truyện Kiều không phải là một tác phẩm dịch mà là
một kiệt tác được sáng tạo vô cùng độc đáo bởi trái tim và khối óc tài hoa của thiên
tài Nguyễn Du. Mặc dù các tác giả đã chỉ ra sự sáng tạo của Nguyễn Du về mặt
văn chương, nghệ thuật, cốt truyện, tình tiết, nhân vật, tuy nhiên chưa có tác giả
nào bàn đến việc sáng tạo của Nguyễn Du trong quan niệm mới về con người, về
cuộc đời đầy biến động, về một chủ nghĩa nhân đạo mới mà trong nguyên tác
không có, tức là Nguyễn Du đã lồng vào đó một tư tưởng mới, đây là sự sáng tạo
cần phải nghiên cứu và làm rõ, vậy nên tác giả luận án trên cơ sở tiếp thu những
nghiên cứu của các học giả đi trước để làm nền tảng, cơ sở cho mình đi vào tìm
hiểu nghiên cứu về tư tưởng mới Nguyễn Du đã gửi gắm trong Truyện Kiều.
1.2. Tình hình nghiên cứu về ảnh hƣởng của tƣ tƣởng triết học Việt Nam
và triết học Nho - Phật - Lão trong Truyện Kiều
1.2.1. Những nghiên cứu về ảnh hƣởng của tƣ tƣởng triết học Việt Nam trong
Truyện Kiều.
Trước khi nói tới ảnh hưởng của tư tưởng triết học Việt Nam trong Truyện
Kiều chúng ta tìm hiểu một số quan điểm về vấn đề Việt Nam có triết học hay
11
không? Hay Việt Nam chỉ có tư tưởng triết học. Giáo sư Nguyễn Tài Thư cho rằng
“Từ rất sớm trong lịch sử, người Việt Nam đã hình thành một loại kiến thức chung
có tính chất phổ biến cho cả tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Kiến thức đó là
gì? Là triết học hay chưa triết học? Là tư tưởng đang quá độ đến triết học? Nhưng
mọi người đều nhất trí xem đó là kiến thức khái quát nhất, kiến thức đóng vai trò
thế giới quan và phương pháp luận của người Việt Nam trong lịch sử” [102, tr.3].
Với cách đặt vấn đề và giải thích như trên tác giả đã khẳng định Việt Nam ngay từ
rất sớm đã có tư tưởng triết học, đó là những kiến thức chung nhất về thế giới
hướng dẫn người Việt nhận thức và hành động trong cuộc sống.
Ở bài viết “Lịch sử tư tưởng, lịch sử triết học hay lịch sử tư tưởng triết học
Việt Nam” giáo sư Lê Hữu Tầng cho rằng “Ở Việt Nam, không có những trước tác
thuần túy triết học, tức là thuần túy bàn về các quy luật chung nhất của tồn tại và tư
duy, càng không có những học thuyết riêng, được xây dựng một cách chặt chẽ và
có hệ thống về những vấn đề này. Tuy nhiên rải rác ở nơi này hay nơi kia trong di
sản tinh thần của cha ông ta để lại, lại có những tư tưởng triết học nhất định, tức là
những tư tưởng, quan điểm gắn liền với việc giải quyết phương diện này hay
phương diện kia của vấn đề cơ bản của triết học”[86, tr.60-61]. Điều này muốn nói
rằng: Ở Việt Nam không có triết học theo nghĩa hàn lâm, theo nghĩa kinh điển
được xây dựng có hệ thống, cấu trúc chặt chẽ nhưng chắc chắn có tư tưởng triết
học nằm rải rác trong di sản tinh thần của cha ông ta để lại.
Trong cuốn “Lịch sử tư tưởng Việt Nam” do Nguyễn Tài Thư chủ biên đã
khẳng định “Một dân tộc đã có nhiều dịp tổng kết về công cuộc dựng nước và giữ
nước như dân tộc ta không thể không phát triển về mặt nhận thức. Rất tiếc là lịch
sử chưa đúc kết thành những hệ thống triết học. Nhưng rõ ràng là đã hình thành
những lý luận ở mức độ khái quát, những lý luận giữ vai trò thế giới quan chung và
phương pháp luận cho các lĩnh vực hoạt động tinh thần và hoạt động thực tiễn giữ
nước và dựng nước. Lý luận đó có thể tìm thấy rải rác trong các bài cáo, bài biếu,
bài văn, bài thơ, bài luận. Ở đó tuy chưa phải là triết học thuần túy, nhưng đã đề
cập tới một số vấn đề của bản thân triết học, ở đó không còn là tư tưởng nói chung
mà đã là tư tưởng triết học”[102, tr.16-17]. Với quan điểm này tác giả đã khẳng
định chắc chắn Việt Nam trong lịch sử đã có tư tưởng triết học của mình, chẳng
qua chưa có điều kiện để đúc kết thành những hệ thống triết học.
12
Theo giáo sư Nguyễn Tài Thư ở bài viết “Mấy vấn đề về lịch sử tư tưởng Việt
Nam” đã khẳng định: Lẽ đương nhiên lịch sử tư tưởng Việt Nam trước hết phải
khai thác tư tưởng triết học, phải coi trọng các tư tưởng triết học. Tư tưởng triết
học Việt Nam trong lịch sử tuy chưa phát triển thành hệ thống triết học, những vẫn
hình thành các tư tưởng, các quan điểm, quan niệm, các phạm trù. Vì vậy, những
tư tưởng nói lên lập trường triết học Việt Nam đó là “tư tưởng về quan hệ giữa trời
với người, giữa tài và mệnh, giữa thời với thế, giữ tĩnh tại và biến dịch”[103, tr.3839]. Ngoài tư tưởng nổi bật của triết học Việt Nam là tư tưởng yêu nước, tư tưởng
nhân nghĩa, đạo lý làm người, thì các tư tưởng triết học Việt Nam mà giáo sư
Nguyễn Tài Thư nêu ra ở trên đều dàn trải trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Trong cuốn “Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực Nguyễn Du” của giáo sư Lê
Đình Kỵ đã phân tích một cách thuyết phục tính dân tộc, đặc biệt là tư tưởng yêu
nước ảnh hưởng một cách mạnh mẽ đến Nguyễn Du trong quá trình sáng tác
Truyện Kiều, khẳng định tình yêu quê hương được nối dài bởi những lẽ sống khác
nên có sức tổng hợp lớn lao và được kết tinh trong những giá trị tốt đẹp được nhân
dân Việt Nam trân trọng qua bao đời.
Giáo sư Đặng Thai Mai trong bài viết “Đặc sắc của văn học cổ điển Việt Nam
qua nội dung Truyện Kiều” đã cho rằng: “Truyện Kiều dạy cho ta biết yêu thiên
nhiên, khi thi sĩ gây cho ta mối tình cảm sâu sắc đối với cảnh vật, thì đồng thời cũng
bồi dưỡng nỗi lòng yêu quê hương đất nước. Tình yêu quê hương làng mạc đó chính
là một yếu tố để bồi dưỡng tinh thần yêu nước của con người. Qua Truyện Kiều, có
những bức họa, bức cảnh tuyệt diệu mà độc giả luôn luôn có thể đối chiếu với thực tế
Việt Nam, làm cho ta tin chắc rằng đó là hình thái màu sắc của đất nước Việt Nam.
Chúng ta không lấy làm lạ khi những người bôn tẩu việc nước và gặp bước đường
trắc trở vẫn mở một trang Kiều, tìm lấy một lý do cho sự hi sinh với lý tưởng của
mình trong câu thơ Kiều giản dị: “Tấc lòng cố cuốc tha hương. Đường kia nổi nọ
ngổn ngang bời bời”. Nhân dân mãi yêu Truyện Kiều, cũng vì qua Truyện Kiều, mọi
người đều thấy rằng non nước, quê hương của ta quả là đáng yêu”[62, tr. 58-59].
Với quan điểm trên tác giả đã khẳng định đọc Truyện Kiều nhân dân Việt Nam
càng thêm yêu đất nước mình hơn, điều này có được là do Nguyễn Du đã tiếp thu
tư tưởng yêu nước một cách nhuần nhuyễn để rồi tuôn chảy thành những câu thơ
lục bát đẹp mượt mà ca ngợi vẽ đẹp con người và cảnh vật Việt Nam.
13
Tác giả Đặng Thanh Lê với bài viết “Truyện Kiều, thành tựu rực rỡ và kết tinh
giá trị ngôn ngữ thơ ca dân tộc” đã khai thác ảnh hưởng của tư tưởng yêu nước đến
Nguyễn Du trong quá trình sáng tác Truyện Kiều bằng ngôn ngữ dân tộc. Với bài
viết này tác giả đã khái quát được sự vận dụng triệt để ngôn ngử dân tộc trong sáng
tác Truyện Kiều và sự thẩm thấu của ngôn ngử dân tộc vào trong trái tim Nguyễn
Du. Cùng với quan điểm trên, tác giả Trương Tửu với công trình “Truyện Kiều và
thời đại Nguyễn Du” cũng đã khẳng định: “Nghệ thuật Truyện Kiều làm vẻ vang
cho tiếng nói dân tộc. Ở tác phẩm kiệt xuất ấy, mỗi từ ngữ là một chất sống, mỗi
hình ảnh là một giá trị tình cảm, mỗi nhịp điệu là một nét uẩn khúc của tâm tư, mỗi
cảnh ngộ là một tư tưởng sinh động. Toàn truyện là một hòa điệu siêu việt của ngôn
ngữ dân tộc, tư tưởng và cuộc sống dân tộc tràn trề sinh lực”[101, tr. 210-211].
Ngoài hấp thụ tư tưởng yêu nước, trong Truyện Kiều còn thấm đẫm tư tưởng
đạo hiếu, tư tưởng nhân ái bao dung, đạo lý làm người, tư tưởng nhân đạo tốt đẹp
của dân tộc Việt Nam. Giáo sư Hà Văn Tấn trong bài viết “Lịch sử Việt Nam và tư
tưởng Việt Nam” đã nêu lên: “Mỗi lần dân tộc đứng trước thử thách của lịch sử,
ông cha ta lại trở lại với những giá trị tư tưởng đã có từ lâu. Đôi khi, con người
dường như quay trở lại với quá khứ quanh co, chẳng hạn Kiều của Nguyễn Du,
dường như đã nghe tiếng kêu thương về thân phận con người và đòi giải phóng cá
nhân”[87, tr. 33].
Trong cuốn “Đại cương lịch sử tử tưởng triết học Việt Nam” do giáo sư
Nguyễn Hùng Hậu chủ biên đã khẳng định: “Khi phản ánh công cuộc xây dựng và
bảo vệ đất nước, triết học Việt Nam hướng chủ yếu đến vấn đề nhân sinh, đến đạo
lý làm người, đến vấn đề đạo hiếu của con người” [34, tr.12]. Vậy nên, Nguyễn Du
đã tiếp thu, kế thừa tư tưởng đạo hiếu của triết học dân tộc đưa vào Truyện Kiều
một cách rất thuyết phục qua hình ảnh nhân vật Thúy Kiều một lòng hiếu thảo với
cha mẹ, hi sinh tình yêu, tuổi xuân để gia đình được bình yên.
Đặng Thanh Lê trong bài viết “Thế giới Truyện Kiều - con người Truyện
Kiều” đã chỉ ra tư tưởng đạo hiếu trong truyền thống của dân tộc Việt Nam mà
Nguyễn Du đã khắc họa ở nhân vật Thúy Kiều: “Hành động, “Dẽ cho để thiếp
bán mình chuộc cha” của nàng chủ yếu xuất phát từ tình cảm yêu thương chân
thành đối với cha. Đây là tình cảm tự nhiên trong truyền thống Việt Nam xưa kia
chứ không phải một nghĩa vụ đơn thuần cực đoan theo chữ hiếu của phong kiến.
14
Có thể nói, đây là chữ hiếu mang nội dung nhân dân đằng sau hình thức khái
niệm phong kiến”.
N.I.Niculin, nhà nghiên cứu văn học của Nga đã có hẳn một bài viết về tư
tưởng nhận đạo của Nguyễn Du chính là tư tưởng nhân đạo của nhân dân Việt
Nam được hun đúc trong quá trình lịch sử của dân tộc. Ở bài viết “Nguyễn Du nhà
thơ nhân đạo lỗi lạc”, tác giả đã kết luận: “Trong lịch sử văn học Việt Nam, sáng
tác Nguyễn Du tự nó đã làm thành cả một thời đại. Nguyễn Du có một vai trò lớn
lao trong quá trình xây dựng truyền thống văn học dân tộc, trong sự hình thành của
ngôn ngữ dân tộc Việt Nam” [74, tr.66].
Tác giả Huỳnh Công Bá trong cuốn “Lịch sử tư tưởng Việt Nam” với quan
điểm con người sinh ra rồi vẫn thuộc về trời đất, trời đất biến chuyển tác động đến
con người và Nguyễn Du đã khéo léo lồng tư tưởng này vào trong Truyện Kiều:
“Con người còn là sự hợp lại của hai phần: thể xác và linh hồn, xác là thể phách,
hồn là tinh anh. Không chỉ thể phách mà cả tinh thần của con người cũng từ vũ trụ
tách ra mà có. Chết là trở về với đất, còn tinh thần thì bay lên cao trong sáng”. Như
vậy chết chỉ là thể xác, còn tinh thần thì về với trời. “Thác là thể phách, còn là tinh
anh” [4,tr.73]. Ở quan điểm này tác giả đã chỉ ra được sự ảnh hưởng của tư tưởng
triết học nhân sinh của dân tộc trong Truyện Kiều Nguyễn Du.
Tác giả Nguyễn Hùng Hậu đã chỉ ra ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng mệnh trời
trong quan niệm về triết học nhân sinh của dân tộc.: “Ý chí của trời gọi là“ mệnh”,
“thiên mệnh”. Trời là lẽ định trước, thích mà không thể làm được, sức người không
thể thay đổi được, mệnh như một trái núi đè lên con người, con người vùng vẫy
nhưng không sao thoát được” [34, tr.216 - 217]. Ở đây tác giả nêu bật lên được ảnh
hưởng của tư tưởng thiên mệnh trong quan niệm của triết học Việt đến Truyện
Kiều của Nguyễn Du, tuy nhiên mới chỉ nhìn thấy được ảnh hưởng tiêu cực duy
tâm, tin vào mệnh trời, phó mặc cho số phận, định mệnh với tư tưởng buông trôi
“Chờ xem con tạo xoay vần ra sao” chứ chưa làm rõ được ảnh hưởng tích cực của
hành động con người chống lại thiên mệnh trong khi Nguyễn Du đã từng tuyên bố
trong Truyện Kiều “Xưa nay nhận định thắng thiên cũng nhiều”. Vậy nên ở phần
ảnh hưởng tích cực khi con người biết vươn lên, tích cực chiến đấu để chống lại
mệnh trời tác giả luận án sẻ cố gắng đi vào luận giả và nghiên cứu.
15
- Xem thêm -