Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận án tiến sĩ nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt ở cấp tỉnh ...

Tài liệu Luận án tiến sĩ nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt ở cấp tỉnh miền nam nước cộng hòa dân chủ

.PDF
166
14
102

Mô tả:

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH Sisouk PHONGPHICHIT N¢NG CAO N¡NG LùC T¦ DUY Lý LUËN CHO C¸N Bé CHñ CHèT CÊP TØNH ë MIÒN NAM N¦íC CéNG HßA D¢N CHñ NH¢N D¢N LµO HIÖN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ HÀ NỘI - 2019 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH Sisouk PHONGPHICHIT N¢NG CAO N¡NG LùC T¦ DUY Lý LUËN CHO C¸N Bé CHñ CHèT CÊP TØNH ë MIÒN NAM N¦íC CéNG HßA D¢N CHñ NH¢N D¢N LµO HIÖN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ Mã số: 62 22 03 02 Người hướng dẫn khoa học: 1. GS.TS. TRẦN THÀNH 2. PGS. TS LÊ THỊ THANH HÀ HÀ NỘI - 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả luận án Sisouk PHONGPHICHIT MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU Chương 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Tổng quan những công trình đã nghiên cứu về nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh 1.2. Tổng quan những công trình đã nghiên cứu liên quan đến thực trạng nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh 1.3. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến các giải pháp nâng cao năng lực tư duy lý luận của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh 1.4. Đánh giá khái quát các công trình liên quan và định hướng những nội dung cần triển khai giải quyết trong luận án Chương 2: NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CHO CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP TỈNH Ở MIỀN NAM NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 2.1. Tư duy lý luận và năng lực tư duy lý luận 2.2. Cán bộ chủ chốt cấp tỉnh và vai trò của năng lực tư duy lý luận đối với cán bộ chủ chốt cấp tỉnh 2.3. Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh - nội dung và các nhân tố ảnh hưởng Chương 3: NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CHO CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP TỈNH Ở MIỀN NAM LÀO HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN 1 6 6 15 22 31 36 36 47 60 84 84 3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội các tỉnh miền Nam Lào hiện nay 3.2. Thực trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở miền Nam Lào hiện nay 3.3. Nguyên nhân của thành tựu và hạn chế trong việc nâng cao năng lực tư duy lý luận của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở miền Nam Lào hiện nay 104 Chương 4: MỘT SỐ NHÓM GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CHO CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP TỈNH Ở MIỀN NAM LÀO HIỆN NAY 121 4.1. Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục, đào tạo cán bộ theo hướng chú trọng nâng cao năng lực tư duy lý luận 4.2. Nâng cao tính hiệu quả của công tác tổng kết thực tiễn cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở miền Nam Lào 4.3. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hoàn thiện chính sách pháp luật của Nhà nước trong việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh miền Nam Lào hiện nay 4.4. Tạo động lực kích thích cán bộ chủ chốt cấp tỉnh rèn luyện nâng cao năng lực tư duy lý luận KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 88 121 129 134 143 149 151 152 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đất nước Lào đã và đang thực hiện sự nghiệp đổi mới. Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khẳng định rằng: trước hết phải đổi mới tư duy, đặc biệt là tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội để trên cơ sở đó bổ sung đường lối, chủ trương phát triển đất nước. Trong quá trình đổi mới, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào luôn khẳng định rằng: cán bộ có vai trò quan trọng trong việc quyết định thành công của việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, quy định pháp luật của Nhà nước. Mọi công việc thành công hay thất bại được quyết định bởi người cán bộ. Thực tế đã chỉ ra: nếu không có đội ngũ cán bộ có trình độ, năng lực, có sự trung thành, có sự vững chắc về mặt lý tưởng và là tấm gương tiên phong cũng không thể hoàn thành công cuộc cách mạng dân chủ trước đây và sự nghiệp bảo vệ, xây dựng phát triển đất nước hiện nay. Như chủ tịch Cay Xỏn Phôn Vi Hản đã có ý kiến trong Hội nghị công tác tổ chức toàn quốc lần thứ VII rằng: "Dù đường lối chính sách của Đảng có đúng thế nào đi chăng nữa, nếu cán bộ thiếu trình độ, năng lực về các mặt để lãnh đạo tổ chức thực hiện được đơm hoa kết trái trong thực tế thì đường lối chính sách nêu trên cũng chỉ đúng ở trên mặt giấy mà thôi" [103, tr.6]. Sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn bảo vệ và xây dựng phát triển đất nước rất cần có đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đủ về số lượng và mạnh về chất lượng. Đặc biệt, trong cơ chế phát triển kinh tế thị trường càng yêu cầu có đội ngũ cán bộ chủ chốt có trình độ, có năng lực, kinh nghiệm ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Bởi, cán bộ chủ chốt là người giữ vị trí quan trọng trong cơ quan, đơn vị. Họ là người giữ vai trò quyết định trong việc xác định chương trình, mục tiêu, kế hoạch công tác, hoạt động của đơn vị họ lãnh đạo. Ngoài ra, họ thường xuyên phải kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện quyết định, nếu có lệch lạc phải uốn nắn những biểu hiện đó; Trên cơ sở đó bổ sung, điều chỉnh kịp thời những tình huống phát sinh mới; đúc rút kinh nghiệm, tổng kết thực 2 tiễn để bổ sung, hoàn chỉnh mục tiêu, phương hướng hành động. Đồng thời, cán bộ chủ chốt còn là người được tập thể suy tôn nên họ giữ vai trò quy tụ sức mạnh của quần chúng thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị và xây dựng nội bộ tổ chức vững mạnh. Để có đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, mang tầm chiến lược, yêu cầu họ phải có rất nhiều tiêu chuẩn như chuyên môn giỏi, ngoại ngữ tốt, bản lĩnh chính trị phải vững vàng, có nhiệt huyết với công việc, tận tâm, tận lực với dân, với nước... Nhưng trong điều kiện nước Lào đang đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội thì yêu cầu cán bộ lãnh đạo quản lý cần có tư duy lý luận, đặc biệt là tư duy lý luận khoa học có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết. Đây là yêu cầu của tổng thể của các yêu cầu về cán bộ lãnh đạo chủ chốt. Tư duy lý luận là một trong những yêu cầu quan trọng hàng đầu của người cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt, điều này được xem như là chìa khóa giúp cho người cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt nhận thức cũng như chỉ đạo thực tiễn đem lại hiệu quả cao. Một đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước có đi vào cuộc sống được hay không phụ thuộc rất lớn vào năng lực và trình độ tư duy lý luận của cán bộ chủ chốt. Tại Đại hội lần thứ IX của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào cũng khẳng định: Trong điều kiện mới, Đảng ta mới cần thiết có đội ngũ cán bộ có trình độ năng lực, có đạo đức, có phẩm chất về lập trường chính trị vững vàng, có sự trung thành tuyệt đối với đất nước và sự nghiệp của Đảng, có tinh thần phục vụ đất nước và phục vụ nhân dân bằng sự trong sáng, có nếp sống lành mạnh và tiến bộ, có ý chí rèn luyện chính mình và không ngừng chăm chỉ học tập nghiên cứu nâng cao về mọi mặt, có ý thức đối với tổ chức và kỷ luật, tôn trọng, thực hiện nghiêm túc pháp luật và quy định của Đảng [113, tr.53]. Muốn đi theo hướng xã hội chủ nghĩa thì phải nâng cao trình độ tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt. Để giải quyết vấn đề đó, yêu cầu cấp bách là đội ngũ cán bộ chủ chốt phải khắc phục được tư duy cũ lạc hậu, trì trệ, chủ 3 quan duy ý chí, giáo điều, không phản ánh quy luật khách quan, phải làm cho các đội ngũ cán bộ chốt có tư duy mới phù hợp với nhu cầu khách quan của thời đại, đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên. Các tỉnh miền Nam Lào có một vị trí địa chính trị quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong những năm qua, hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh miền Nam Lào đã thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội góp phần giữ vững ổn định và phát triển đất nước. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân cả khách quan lẫn chủ quan mà năng lực tư duy lý luận vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế. Nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa có được tầm nhìn xa, trông rộng, thiếu tư duy chiến lược, tư duy sáng tạo. Giải quyết công việc chủ yếu vẫn dựa trên tư duy kinh nghiệm. Bên cạnh đó, các tỉnh miền Nam Lào là nơi có điều kiện tự nhiên không thuận lợi lại bị tàn phá nặng nề bởi cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ để giải phóng dân tộc làm cho kinh tế chậm phát triển hơn so với các vùng kinh tế khác trong cả nước. Chính vì vậy, mặc dù vấn đề này đã được khá nhiều sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, nhưng với mong muốn đóng góp vào việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh nước Lào, tôi chọn đề tài: Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở miền Nam nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay làm luận án tiến sĩ triết học. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở lý luận về năng lực tư duy lý luận của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh, luận án phân tích thực trạng và chỉ ra nguyên nhân của thực trạng năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh miền Nam Lào, từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh miền Nam Lào hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Khái quát tình hình nghiên cứu về tư duy lý luận, nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt ở Việt Nam và Lào. 4 - Khái quát vai trò, nội dung nâng cao năng lực tư duy lý luận của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh. - Phân tích thực trạng và nguyên nhân hạn chế của việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh miền Nam Lào hiện nay. - Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh miền Nam Lào hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án nghiên cứu về nâng cao năng lực lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở miền Nam Lào. 3.2. Phạm vi nghiên cứu 3.2.1. Phạm vi không gian Luận án tập trung làm rõ thực trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cấp tỉnh miền Nam nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào trong điều kiện hiện nay. Tập trung khảo sát trên địa bàn bốn tỉnh (tỉnh Chăm Pa Sắc, tỉnh Xa La Văn, tỉnh Xê Công, và tỉnh Át Ta Pư). 3.2.2. Phạm vi thời gian Tập trung nghiên cứu và sử dụng số liệu từ đổi mới (1986) đến nay nhất là số liệu những năm gần đây. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, luận án cũng dựa trên các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước CHDCND Lào, tư tưởng của chủ tịch Cay Xỏn Phôn Vi Hản về lĩnh vực tư duy lý luận. 4.2. Phương pháp nghiên cứu - Luận án sử dụng các phương pháp như lịch sử và lôgic, trừu tượng, và cụ thể, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, so sánh, điều tra, thống kê… - Luận án còn sử dụng những tài liệu của các cấp ủy đảng và chính quyền các tỉnh miền Nam Lào. 5 4.2. Phương pháp nghiên cứu - Luận án sử dụng các phương pháp như lịch sử và lôgic, trừu tượng, và cụ thể, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, so sánh, điều tra, thống kê… - Luận án còn sử dụng những tài liệu của các cấp ủy đảng và chính quyền các tỉnh miền Nam Lào. 5. Những đóng góp về khoa học của luận án - Luận án chỉ ra nội dung của năng lực tư duy lý luận - một năng lực cơ bản trong năng lực của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh; làm rõ vai trò của năng lực tư duy lý luận đối với hoạt động của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh. - Luận án vạch ra thực trạng nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp tỉnh miền Nam Lào, những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế. Trên cơ sở đó, luận án chỉ ra một số giải pháp chủ yếu nhằm năng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ này. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Ý nghĩa lý luận: Những kết luận rút ra trong luận án sẽ góp phần năng cao trình độ tư duy lý luận và cách nhìn nhận đúng đắn vai trò của tư duy lý luận trong hoạt động thực tiễn, khắc phục những khuyết điểm của tư duy cũ trong đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh miền Nam Lào. - Ý nghĩa thực tiễn: Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình xây dựng chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước về nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh. Đồng thời, luận án cũng được sử dụng cho các cán bộ nghiên cứu và giảng dạy lý luận ở các trường Đảng, trường Đại học và trong các cơ quan nghiên cứu lý luận. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án được kết cấu gồm 4 chương, 14 tiết. 6 Chương 1 TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. TỔNG QUAN NHỮNG CÔNG TRÌNH Đà NGHIÊN CỨU VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CHO CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP TỈNH 1.1.1. Về khái niệm tư duy lý luận Trong giáo trình cao cấp lý luận chính trị của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tác giả Trần Văn Phòng đã khẳng định: "lý luận khoa học là hệ thống những tri thức được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của các sự vật, hiện tượng được biểu đạt bằng hệ thống nguyên lý, quy luật, phạm trù" [61]. Có nhiều loại lý luận, nhưng lý luận mà chúng ta nghiên cứu ở đây là lý luận khoa học và tư duy lý luận là quá trình con người phản ánh hiện thực khách quan một cách gián tiếp, mang tính trừu tượng và khái quát cao bằng hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật. Trong quá trình khái quát tư duy lý luận, chủ thể nhận thức sử dụng các công cụ nhận thức như khái niệm, phán đoán, suy luận để nắm bắt các mối liên hệ mang tính bản chất, tìm ra các quy luật vận động của tự nhiên xã hội và tư duy con người. Trong bài: "Đổi mới tư duy lý luận - khâu đột phá trong sự nghiệp đổi mới của Đảng ta" của Trần Sỹ Phán [55] cho rằng: Tư duy lý luận là hình thức cao nhất của tư duy, nó chính là quá trình phản ánh hiện thực khách quan một cách gián tiếp, mang tính trừu tượng và khái quát cao bằng các khái niệm, phạm trù, quy luật. Quá trình tư duy là quá trình chủ thể nhận thức sử dụng ngôn ngữ và các công cụ khái niệm để nắm bắt các mối liên hệ bên trong, bản chất, nhằm tìm ra các quy luật vận động nội tại tiềm ẩn trong khách thể nhận thức. Theo nhóm tác giả trong đề tài: "Nâng cao trình độ tư duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh hiện nay" của Nguyễn Đình Trãi [87] đã quan 7 niệm: Tư duy lý luận là hình thức cao nhất của tư duy, nó chính là quá trình tiếp cận, nắm bắt, nhận thức và tái tạo hiện thực khách quan bằng lý luận, bằng hệ thống các khái niệm, phạm trù, qui luật. Trong cuốn sách: "Tư duy lý luận với hoạt động của người cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn" của Trần Thành [80] cho rằng: Tư duy lý luận (được hiểu theo là cái "phủ định biện chứng" của tư duy kinh nghiệm) là tư duy dựa trên tri thức lý luận và phương pháp nhận thức khoa học. Trong bài: "Đổi mới tư duy lý luận - khâu đột phá và cơ bản trong quá trình đổi mới ở nước ta" của tác giả Lê Thị Thanh Hà [24] đã cho rằng: Tư duy lý luận là hình thức cao nhất của tư duy, nó là quá trình tổng kết những tri thức kinh nghiệm, trên cơ sở của thực tiễn và tái tạo hiện thực khách quan bằng lý luận, bằng hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật. Trong bài: "Nâng cao trình độ tư duy lý luận cho sinh viên thông qua giảng dạy triết học" của tác giả Nguyễn Thị Bạch Vân [91] cho rằng: Tư duy lý luận được hình thành trên cơ sở của tư duy kinh nghiệm; đó là sự phản ánh được các mối liên hệ "trong tính tất yếu của nó, trong những quan hệ toàn diện của nó, trong sự vận động mâu thuẫn của nó" [34, tr.277]. Tư duy lý luận có thể phân thành nhiều loại khác nhau. Mỗi môn khoa học là một hệ thống tri thức lý luận (khác với tri thức kinh nghiệm) về bản chất bởi tư duy lý luận dựa trên cơ sở tri thức kinh nghiệm thực tiễn điển hình cùng với sự tham gia nghiên cứu của các nhà khoa học, các nhà lý luận. Trong bài: "Tư duy lý luận chính trị của cán bộ lãnh đạo và quản lý ở Việt Nam hiện nay" của tác giả Đặng Nguyên Hà [25] cho rằng: Tư duy lý luận là sự hiểu biết ở trình độ lý luận (chứ không phải ở trình độ kinh nghiệm) về thế giới nói chung và về các vấn đề xã hội nói riêng. Để đạt được kết quả cao trong hoạt động thực tiễn, mọi người nói chung và cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng cần có tư duy lý luận. Luận án: "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay" của Dương Minh Đức [22] đã 8 cho rằng, nói đến tư duy lý luận là là nói đến tư duy ở trình độ khái quát hóa, trừu tượng hóa, phản ánh gián tiếp nhưng sâu sắc về mối liên hệ bản chất, tính tất yếu, tính quy luật của các sự vật, hiện tượng. Trong bài: "Ph.Ăngghen bàn về những điều kiện hình thành tư duy lý luận" của tác giả Ngô Đình Xây [93] đã cho rằng có 6 điều kiện hình thành tư duy lý luận là: Tư duy lý luận phải được hình thành trên cơ sở kinh nghiệm. Điểm xuất phát của tư duy lý luận là kinh nghiệm. Không có kinh nghiệm thì không có sự khám phá thực sự về nhưng quy luật tất yếu, nội tại của sự vật, hiện tượng; Phải có giả thuyết và sử dụng giả thuyết trong quá trình hình thành tư duy lý luận. Phương pháp biện chứng duy vật như là điều kiện không thể thiếu để hình thành tư duy lý luận. Tư duy biện chứng là hình thức cao nhất của tư duy lý luận. Do đó một cách tất yếu là trong quá trình hình thành quan điểm duy vật về lịch sử, thì song song và cùng với nó là cần phải sử dụng phương pháp nào để có thể hình thành được tư duy biện chứng duy vật; Tư duy lý luận phải được gắn liền với sự phát triển của khoa học bởi việc gắn với sự phát triển của khoa học sẽ giúp cho tư duy nắm được các mối liên hệ bên trong của các sự vật hiện tượng; Tư duy lý luận phải có "bà đỡ" là thực tiễn xã hội; Muốn có tư duy lý luận, phải có sự nghiên cứu nghiêm túc toàn bộ lịch sử triết học. Bởi vì tư duy lý luận, ở mỗi người chúng ta, chỉ tồn tại dưới dạng năng lực tiềm tàng và chính việc nghiên cứu một cách nghiêm túc, khoa học toàn bộ tư tưởng triết học của nhân loại sẽ giúp cho năng lực "ấy trở thành hiện thực". Tư duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của người ta mà thôi. Năng lực ấy cần phải được phát triển hoàn thiện, mà muốn hoàn thiện nó thì cho tới nay, không có một cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước. Hầu hết các công trình nghiên cứu khoa học đều cho rằng tư duy là vấn đề cốt lõi, mấu chốt của lý luận nhận thức, nếu không làm rõ được bản chất tư duy, nhận thức luận sẽ chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu cảm tính về những thuộc tính, những mặt bên ngoài của các đối tượng nhận thức. Còn tư duy lý 9 luận là giai đoạn cao của quá trình nhận thức, là sự phủ định của tư duy kinh nghiệm. Quá trình hình thành tư duy lý luận gắn liền với sự phát triển của khoa học, của thực tiễn lịch sử - xã hội. 1.1.2 Về vai trò của tư duy lý luận Ph.Ăngghen cho rằng: "Dù người ta tỏ ra khinh thường tư duy lý luận như thế nào đi nữa, nhưng không có tư duy lý luận thì người ta không thể liên kết hai sự kiện trong giới tự nhiên với nhau được, hay không thể hiểu được mối liên hệ giữa hai sự liên kết đó" [41, tr.508]. Theo Ph.Ăngghen, tư duy lý luận có một vai trò đặc biệt quan trọng, vì một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận. Đồng thời, trong khi nhấn mạnh tới vai trò của nó, Ph.Ăngghen cũng lưu ý ngay rằng: Tư duy lý luận của mỗi một thời đại, cũng có nghĩa là cả thời đại chúng ta, là một sản phẩm lịch sử mang những hình thức rất khác nhau trong những thời đại khác nhau và do đó có một nội dung rất khác nhau. Thế cho nên cũng như bất kỳ khoa học nào khác, khoa học về tư duy là một khoa học lịch sử, là khoa học về sự phát triển lịch sử của tư duy con người [41, tr.487]. Trong cuốn: "Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ 1986 đến nay" của Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt và Lê ngọc Tòng [72], các tác giả đã cho rằng: tư duy lý luận có vai trò to lớn trong quá trình đổi mới và phát triển đất nước. Do vậy, để đổi mới xã hội, trước hết phải đổi mới tư duy lý luận, đặc biệt là tư duy kinh tế. Đây là tiền đề nhận thức của đổi mới. Hình thành nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong những hoàn cảnh, điều kiện mới của tình hình trong nước và thế giới là điểm cốt lõi, căn bản nhất của lý luận đổi mới ở nước ta từ giữa thập kỷ 80 thế kỷ XX cho đến nay. Thực tiễn xã hội đã khách quan hoá vai trò và tầm quan trọng đặc biệt của lý luận và tư duy lý luận đối với sự phát triển của đất nước và dân tộc ta. Đổi mới tư duy lý luận của Đảng, do đó là vấn đề cấp bách, bức xúc đối với sự lãnh đạo của Đảng đồng thời là vấn đề cơ bản, 10 lâu dài, có ý nghĩa chiến lược đối với cách mạng nước ta. Ở vị trí Đảng cầm quyền, có trọng trách lãnh đạo nhà nước và lãnh đạo xã hội đi tới chủ nghĩa xã hội, thực hiện lý tưởng và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới chính mình để thúc đẩy đổi mới xã hội, mà trước hết là đổi mới tư duy lý luận để nâng cao trình độ và năng lực lý luận của Đảng cầm quyền. Theo đồng chí Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng thời kỳ đổi mới đã nhấn mạnh: "Nói đổi mới tư duy, điều căn bản là phải đổi mới tư duy lý luận" [36, tr.95]. Bởi, tư duy lý luận là tư duy ở cấp độ cao, dựa trên các công cụ là khái niệm, phạm trù, phán đoán, suy luận, hướng tới phân tích, tổng hợp, khái quát để tìm ra bản chất, quy luật của hiện thực khách quan, từ đó định hướng, hướng dẫn hoạt động thực tiễn của con người và sáng tạo tri thức mới. Trong bài: "Đổi mới tư duy lý luận - khâu đột phá và cơ bản trong quá trình đổi mới ở nước ta" của tác giả Lê Thị Thanh Hà [24] cho rằng: tư duy lý luận có vai trò: nắm bắt, tái tạo hiện thực khách quan không phải bằng những khái niệm thông thường mà bằng những khái niệm khoa học trên cơ sở tổng kết thực tiễn điển hình. Do đó, những khái niệm này giúp tư duy con người có thể đi sâu vào bản chất sự vật, vạch ra qui luật và tính qui luật của các sự vật, hiện tượng và dĩ nhiên quá trình này không phải là hành động giản đơn, bất chợt, vụn vặt, rời rạc mà có quy trình, có hệ thống, mang tính chỉnh thể và tính khái quát cao, tính lô gic chặt chẽ. Vì vậy, sản phẩm của tư duy lý luận đạt tới trình độ lý luận. Do vậy, tư duy lý luận không những giúp cho nhận thức của con người trở thành nhận thức lý luận khoa học mà còn chỉ ra những phương hướng mới cho hoạt động thực tiễn của con người, làm cho hoạt động đó mang tính chủ động, tự giác, sáng tạo hơn. Theo Nguyễn Mạnh Cương [12] thì tư duy lý luận sản sinh ra các tri thức gián tiếp có nội dung là những quy định tất yếu, bản chất và phản ảnh khách thể dưới hình thức cái phổ biến. Những tri thức lý luận được duy trì và hoạt 11 động thông qua các hình thức logic như khái niệm, phán đoán và suy lý... Tư duy lý luận là cấp độ nhận thức cao nhất của con người, có vai trò quan trọng vượt hẳn so với tư duy kinh nghiệm trong việc chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người. Với khả năng thâm nhập vô hạn vào bản chất và quy luật của thế giới đối tượng, tư duy lý luận chỉ đạo có hiệu quả nhất đối với thực tiễn của con người trong hiện tại và cả tương lai. Về lâu dài tư duy lý luận có thể tạo ra những mô hình lý luận phù hợp với hiện thực khách quan chỉ đạo thực tiễn ngày càng có hiệu quả. Theo tác giả Nguyễn Thị Bạch Vân [91] thì: Tư duy lý luận có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động thực tiễn của con người. Vì vậy, để cải tạo thế giới, làm chủ tự nhiên và xã hội thì con người cần phải có và không ngừng nâng cao trình độ tư duy lý luận. Lý luận, các chủ trương, chính sách không ra đời một cách trực tiếp mà là kết quả của những sự trừu tượng khoa học dựa trên cơ sở thực tiễn. Trong cuốn: "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng dạy lý luận Mác- Lênin ở trường chính trị tỉnh" của Trần Viết Quang [68]. Tác giả dẫn lời cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã nói: Cuộc sống ngày càng phức tạp, nhiệm vụ khó khăn, thời đại diễn ra nhanh chóng thì lý luận càng trở nên thiết yếu như cơm ăn và nước uống hằng ngày. Trong cuốn: "Tư duy lý luận với sự nghiệp đổi mới" của Trần Nhâm [49] đã khẳng định: quá trình đổi mới ở Việt Nam trong những năm qua bắt đầu từ tư duy lý luận. Đồng thời, đổi mới cũng giúp Đảng ta đã trưởng thành về tư duy lý luận. Do vậy, tư duy lý luận có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình đổi mới. Theo đó, để đáp ứng những yêu cầu và đòi hỏi ngày càng cao của thời kỳ đổi mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng ta phải tiếp tục nâng cao hơn nữa tư duy lý luận, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình, xây dựng và chỉnh đốn Đảng ta thành một Đảng trí tuệ, đủ sức giải quyết thành công những vấn đề do cuộc sống đặt ra, xứng đáng là 12 người cầm lái, dẫn đường, vững vàng trước mọi thử thách, tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới đi vào thế kỷ XXI với quyết tâm không gì lay chuyển nổi. - Trong cuốn: "Đổi mới phong cách tư duy" của Phạm Như Cương [13]. Cuốn sách đã chỉ ra vai trò to lớn của tư duy lý luận và khẳng định rằng: trong quá trình đổi mới tư duy mấy năm nay mà chúng ta đang thực hiện, chính đang đòi hỏi một sự đột phá lớn về lý luận. Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của lý luận tiền phong, về những yêu cầu nghiêm khắc về trí tuệ và đạo đức của người làm công tác khoa học, làm lý luận, đặc biệt là phải rèn luyện được phong cách tư duy biện chứng, bám sát thực tiễn để kịp thời bổ sung, điều chỉnh, phát triển lý luận. 1.1.3. Nâng cao năng lực tư duy lý luận Năng lực tư duy lý luận là một trong những phạm trù quan trọng của nhận thức luận được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Đã có nhiều công trình, những bài viết đề cập đến bản chất, cấu trúc và vai trò của năng lực tư duy lý luận, từ đó làm sâu sắc thêm lý luận nhận thức và làm cơ sở lý luận cho việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo hiện nay. Năng lực được hiểu theo hai nghĩa, thứ nhất, "khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó"; thứ hai, "phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao" [52, tr.656]. Tư duy là giai đoạn cao của quá trình nhận thức, đi sâu vào bản chất, phát hiện ra những quy luật của sự vật, hiện tượng. Cho nên, năng lực tư duy chính là khả năng, tập hợp những phẩm chất sinh lý và tâm lý của chủ thể đáp ứng cho nhu cầu nhận thức thế giới của con người. Trong bài: "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở nước ta hiện nay" của tác giả Nguyễn Đức Quyền [71] cho rằng: "Năng lực tư duy lý luận là khả năng tư duy về những vấn đề chung, tổng thể, toàn vẹn, nắm bắt đối tượng trong tính chỉnh thể của sự tồn tại, vận động và phát triển; đó là khả năng tư duy khoa học, sáng tạo trong sử dụng các khái 13 niệm, phạm trù để phân tích, so sánh, tổng hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá nhằm đem lại những tri thức mới mang tính chính xác, sâu sắc, chặt chẽ, lôgíc và có hệ thống..., phù hợp với quy luật khách quan của hiện thực. Năng lực tư duy lý luận có sức mạnh đưa lý luận vào cuộc sống, cụ thể hoá lý luận thành mục tiêu, phương hướng, giải pháp khả thi để giải quyết các vấn đề của cuộc sống một cách có hiệu quả". Trong bài: "Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi mới tư duy" của tác giả Nguyễn Ngọc Long [38] đã phân tích về năng lực tư duy lý luận và vai trò của nó trong đổi mới tư duy, thông qua việc nâng cao năng lực tư duy là sự ảnh hưởng đến hiệu quả công việc thực tế. Đất nước ta bắt đầu bước vào thời kỳ đổi mới, tiến lên xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì việc nâng cao năng lực tư duy lý luận có ý nghĩa rất quan trọng đối với các chủ thể kinh tế trong việc đưa ra những định hướng, chiến lược phát triển của mình. Bài viết là tài liệu quan trọng có ý nghĩa và giá trị tham khảo khi nghiên cứu đề tài. Trong bài: "Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã hiện nay" của tác giả Hồ Bá Thâm [84] đã cho rằng: năng lực tư duy thuộc về tư chất của chủ thể tư duy, đồng thời do môi trường kinh tế - xã hội, chính trị xã hội, nền tảng văn hóa, khoa học của xã hội có ảnh hưởng quan trọng đến năng lực tư duy lý luận của con người. Tuy nhiên, hoạt động thực tiễn là yếu tố cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến tư duy lý luận của con người. Luận án: "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ giảng viên các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay" của Cao Thị Hà [23] đề cập tới năng lực tư duy lý luận là năng lực đặc trưng riêng có ở con người. Vì thế khi nói về tư duy thường người ta cũng quan tâm đến năng lực và trình độ tư duy của các chủ thể. Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động tâm lý nào đó; là phẩm chất đạo đức, là quá trình tâm sinh lý tạo khả năng để hoàn thành một hoạt động nào đó với một chất lượng cao. Năng lực tư duy còn thể hiện ở năng lực 14 nhận thức và vận dụng lý luận vào thực tiễn đời sống; ngoài ra năng lực tư duy của chủ thể hoạt động còn biểu hiện ở chỗ biết tổng kết kinh nghiệm, khái quát hóa kinh nghiệm thực tiễn thành lý luận và xây dựng mô hình lý luận mới phù hợp với sự vận động và phát triển của thực tiễn. Luận án: "Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay" của Dương Minh Đức [22]. Năng lực tư duy chính là khả năng, tổng hợp những phẩm chất sinh lý và tâm lý, trí tuệ của chủ thể đáp ứng cho nhu cầu nhận thức thế giới của con người. Hoạt động tư duy không chỉ dừng lại ở mức độ chép lại, chụp lại mà tư duy còn mang tính sáng tạo. Đây không những là cơ sở giúp con người có thể hoạt động thực tiễn một cách có hiệu quả, mà còn giúp cho con người tạo ra những cái không có sẵn, hình thành tự nhiên thứ hai của mình thông qua hoạt động thực tiễn. Phương pháp tiếp cận vấn đề khác nhau chính là biểu hiện trình độ khác nhau của năng lực tư duy. Đề tài: "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở quận Dương Kinh, Thành phố Hải phòng hiện nay" của Nguyễn Thành Nguyên [51]. Tác giả cho rằng, năng lực tư duy còn thể hiện ở năng lực lựa chọn các vấn đề có liên quan để liên kết các hình thức tư duy để trên cơ sở đó chỉ ra một hoặc một số suy luận nhất định. Luận án: "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ giảng dạy ở các trường chính trị tỉnh" của Nguyễn Đình Trãi [87]. Công trình cũng nêu bật các đặc trưng cơ bản của tư duy kinh nghiệm, sự khác nhau của nó với tư duy lý luận khoa học, năng lực tư duy lý luận và trình độ tư duy lý luận. Từ sự phân tích sâu sắc những yếu tố cấu thành năng lực tư duy lý luận, những yếu tố ảnh hưởng tới năng lực tư duy lý luận như tác động về mặt sinh học và những tác động về mặt xã hội, tác giả khẳng định rằng: Năng lực tư duy nói chung, năng lực tư duy lý luận nói riêng, chủ yếu là sản phẩm của lịch sử xã hội, sản phẩm của môi trường hoạt động, của sự học tập và rèn luyện của chủ thể tư duy. 15 1.2. TỔNG QUAN NHỮNG CÔNG TRÌNH Đà NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN THỰC TRẠNG NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CHO CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP TỈNH Cuốn sách: "Tư duy lý luận với hoạt động của người cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn" của Trần Thành [80] cho rằng: thực trạng hiện nay là cán bộ lãnh đạo quản lý bị ảnh hưởng bởi tư duy kinh nghiệm, tư duy bao cấp "Ảnh hưởng của tư duy kinh nghiệm đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh hiện nay biểu hiện ở chỗ một số người chưa có tầm nhìn xa trông rộng, khi đề ra kế hoạch không có một chiến lược lâu dài" [80, tr.42]. "Ảnh hưởng của lối tư duy này đối với tầng lớp cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh hiện nay được biểu hiện ở lối suy nghĩ, cách làm ăn đại khái; tác phong công tác luộm thuộm; đánh giá cán bộ còn mang nặng cảm tính; tuyển người theo quen biết, họ hàng; lối sống còn nặng về tình cảm" [80, tr.43]. Trong cuốn: "Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ 1986 đến nay" của Tô Huy Rứa và các cộng sự [72] đã chỉ ra thực trạng và yêu cầu của tư duy lý luận ở Việt Nam: việc đổi mới tư duy lý luận của Đảng những năm vừa qua vẫn còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới vừa chưa theo kịp sự phát triển nhanh chóng, sâu sắc của thực tiễn đất nước và của thế giới trong thời đại ngày nay. Còn không ít vấn đề lý luận hết sức cơ bản của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta chưa có câu trả lời thật sự sáng rõ. Chẳng hạn, thời kỳ quá độ ở nước ta gồm mấy chặng, là những chặng nào, nội dung và thời gian của mỗi chặng ra sao, tiêu chuẩn kết thúc thời kỳ quá độ là gì; các tiêu thức để đánh giá hoàn thành công nghiệp hóa, hiện đại hóa; nội dung cơ bản của thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta là gì; ở nước ta có hình thành giai cấp tư sản không?... Thậm chí, một vấn đề cụ thể là đảng viên có được làm kinh tế tư bản tư nhân không được đặt ra đã 15 năm, nhưng đến nay vẫn chưa có câu trả lời đầy đủ. Vẫn biết rằng các vấn đề đã nêu và nhiều vấn đề khác không dễ trả lời, rằng nếu vội vàng đưa ra kết luận sai thì còn tai hại hơn là chưa đưa ra câu trả lời, nhưng để quá chậm 16 chưa đưa ra được câu trả lời là một sự bất cập, yếu kém hiển nhiên, không thể bào chữa [72, tr.482]. Nguyên nhân của thực trạng yếu kém về tư duy lý luận, các tác giả trong cuốn sách cũng đã chỉ ra: Về sự chậm trễ của tư duy lý luận, có ý kiến cho rằng phải chờ thực tiễn vận động đến mức chín muồi nhất định, sự vật bộc lộ hết những đặc điểm cơ bản của nó mới có cơ sở để tổng kết, khái quát thành lý luận. Nói như vậy là không có sức thuyết phục, bởi nếu như vậy thì còn đâu vai trò hướng dẫn, soi đường của lý luận; hơn nữa, chẳng phải Mác và Ăngghen đã từng đưa ra những kết luận lý luận nổi tiếng về cách mạng vô sản ngay trong những ngày cuộc nội chiến ở Pháp, Công xã Pa-ri đang diễn ra; Lênin đã rút ra nhiều kết luận vĩ đại chỉ từ một ngày lao động thứ bảy cộng sản; những kết luận của Đảng ta về khoán sản phẩm trong nông nghiệp cũng được rút ra khá nhanh khi thực tiễn mới diễn ra ở một số địa phương, ý kiến còn khá khác nhau [72, tr.482]. Trong bài: "Vai trò của Triết học Mác - Lênin trong đổi mới tư duy lý luận ở Việt Nam hiện nay" của tác giả Lê Văn Quang [67] đã chỉ ra thực trạng "tư duy lý luận Việt Nam bước đầu đã phản ánh được những phát triển mới của thế giới, như sự phát triển của sản xuất vật chất, sự xuất hiện của kinh tế tri thức, sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại; quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra, sự thích nghi và phát triển cao của chủ nghĩa tư bản, sự trì trệ và xuất hiện khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Nhờ phân tích cụ thể tình hình cụ thể trong sự vận động, phát triển không ngừng của thế giới đương đại, chúng ta đã bổ sung cho mình sự hiểu biết mới và từng bước điều chỉnh chủ trương, chính sách phát triển cho phù hợp với thực tiễn". Trong bài: "Tổng kết thực tiễn - một nhiệm vụ trọng yếu của công tác lý luận hiện nay" của Nguyễn Phú Trọng [88] cho rằng: hiện nay: "công tác lý luận vẫn còn lạc hậu, việc tổng kết thực tiễn vẫn còn yếu kém, chưa theo kịp sự phát triển và yêu cầu của cách mạng... phương pháp tư duy vẫn chưa vươn tới tầm biện chứng, còn dừng lại ở trình độ cảm tính, ở chủ nghĩa kinh nghiệm
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan