BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG THẢO
KỊCH BẢN PHIM TRUYỆN ĐIỆN ẢNH
NHƯ LÀ MỘT THỂ LOẠI VĂN HỌC
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
HÀ NỘI
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG THẢO
KỊCH BẢN PHIM TRUYỆN ĐIỆN ẢNH
NHƯ LÀ MỘT THỂ LOẠI VĂN HỌC
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số
: 9220120
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Lê Trà My
2. TS. Trần Ngọc Hiếu
HÀ NỘI
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu......................................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.....................................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................4
5. Đóng góp mới của luận án.................................................................................4
6. Cấu trúc luận án.................................................................................................5
Chương 1 TỔNG QUAN.........................................................................................6
1. 1. Kịch bản như là một thành tố của phim truyện điện ảnh................................6
1.1.1. Phim truyện điện ảnh như một phương thức kể chuyện............................6
1.1.2. Kịch bản - khâu khởi đầu của phim truyện điện ảnh...............................12
1.2. Những công trình nghiên cứu kịch bản phim truyện điện ảnh.......................13
1.2.1. Nghiên cứu kịch bản phim truyện điện ảnh trong những công trình nghiên
cứu nghệ thuật điện ảnh....................................................................................13
1.2.2. Nghiên cứu kịch bản phim truyện điện ảnh trong những công trình nghiên
cứu liên ngành văn học - điện ảnh và trong nghiên cứu văn học.......................28
1.3. Nghiên cứu kịch bản phim truyện điện ảnh như một thể loại văn học: Vấn đề
nguyên tắc xác lập thể loại...................................................................................32
1.3.1. Vấn đề thể loại văn học...........................................................................32
1.3.2. Quan điểm nghiên cứu kịch bản phim truyện điện ảnh như là một thể loại văn học34
Tiểu kết chương 1................................................................................................36
Chương 2 KỊCH BẢN PHIM TRUYỆN ĐIỆN ẢNH NHƯ LÀ MÔ HÌNH
THẾ GIỚI QUAN..................................................................................................37
2.1. Tiếp cận đời sống ở những xung đột, mâu thuẫn hay là dấu ấn tư duy kịch bản
sân khấu trong kịch bản phim truyện điện ảnh.....................................................39
2.1.1. Tính chất kịch tính trong kịch bản phim truyện điện ảnh........................40
2.1.2. Mức độ kịch tính trong kịch bản phim truyện điện ảnh...........................42
2.2. Tiếp cận đời sống ở thì hiện tại chưa hoàn thành hay là dấu ấn tư duy tiểu
thuyết trong kịch bản phim truyện điện ảnh.........................................................50
2.2.1. Thế giới chưa ngã ngũ, chưa hoàn kết.....................................................50
2.2.2. Tính chất đời thường...............................................................................54
2.3. Giới hạn tiếp xúc đời sống và những xu hướng chính của kịch bản phim truyện
điện ảnh................................................................................................................60
2.3.1. Xu hướng kịch hóa..................................................................................61
2.3.2. Xu hướng tiểu thuyết hóa........................................................................67
Tiểu kết chương 2................................................................................................79
Chương 3 KỊCH BẢN PHIM TRUYỆN ĐIỆN ẢNH NHƯ LÀ MÔ HÌNH
GIAO TIẾP............................................................................................................80
3.1. Đối tượng giao tiếp của kịch bản phim truyện điện ảnh................................80
3.1.1. Cộng đồng làm phim và khán giả mục tiêu.............................................80
3.1.2. Người đọc tự do......................................................................................89
3.2. Tính biểu hành của kịch bản phim truyện điện ảnh và vai trò của tác giả.....92
3.2.1. Tính biểu hành của kịch bản phim truyện điện ảnh.................................92
3.2.2. Vai trò của tác giả kịch bản phim truyện điện ảnh..................................94
3.3. Tính tạo sinh của kịch bản phim truyện điện ảnh và số phận của tác giả......98
3.3.1. Tính tạo sinh của kịch bản phim truyện điện ảnh....................................98
3.3.2. Số phận tác giả kịch bản phim truyện điện ảnh.....................................109
Tiểu kết chương 3..............................................................................................112
Chương 4 KỊCH BẢN PHIM TRUYỆN ĐIỆN ẢNH NHƯ LÀ MÔ HÌNH
TỰ SỰ..................................................................................................................114
4.1. Cấu trúc trần thuật của kịch bản phim truyện điện ảnh...............................114
4.1.1. Người kể chuyện ở ngôi thứ ba.............................................................114
4.1.2. Góc quay như một điểm nhìn................................................................115
4.2. Trường đoạn và nhịp điệu tự sự trong kịch bản phim truyện điện ảnh........122
4.2.1. Trường đoạn..........................................................................................122
4.2.2. Nhịp điệu tự sự......................................................................................126
4.3. Lời văn của kịch bản phim truyện điện ảnh.................................................130
4.3.1. Tính tạo hình.........................................................................................131
4.3.2. Tính gợi................................................................................................137
4.3.3. Sự tương đồng của ngôn từ kịch bản phim truyện điện ảnh với một số thể
loại văn xuôi tự sự..........................................................................................141
Tiểu kết chương 4..............................................................................................146
KẾT LUẬN..........................................................................................................148
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LUẬN
ÁN 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................152
PHỤ LỤC.............................................................................................................170
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Tính đến nay, điện ảnh đã có hơn 100 năm ra đời và phát triển. Mặc dù
ban đầu xuất phát điểm của nó chỉ được hình dung như là trò tiêu khiển trong đời
sống thị dân phương Tây, điện ảnh dần trở thành nghệ thuật thứ bảy có vị trí, vai trò
lớn lao trong đời sống văn hóa bên cạnh các loại hình nghệ thuật truyền thống đã
xuất hiện từ thời cổ đại. Được ghi nhận là nghệ thuật tổng hợp - có rất nhiều yếu tố
cấu thành - điện ảnh dung hợp đa dạng loại hình nghệ thuật: hội họa, nhiếp ảnh, âm
nhạc, kiến trúc… và trong đó có văn học. Bộ phận quan trọng nhất của văn học thực
hiện kiến tạo bộ phim là kịch bản. Vị trí kịch bản quan trọng tới mức Alfred
Hitchcock - nhà làm phim nổi tiếng nước Anh, một trong những đạo diễn lớn nhất
lịch sử điện ảnh khẳng định: "Để làm nên một bộ phim lớn, cần ba thứ: kịch bản,
kịch bản và kịch bản" [46]. Với chất liệu ngôn ngữ - chất liệu của văn học, kịch bản
cho thấy điều hiển nhiên: văn học là một yếu tố cấu thành nên tác phẩm điện ảnh.
1.2. Những năm gần đây, nghiên cứu điện ảnh đang là một lĩnh vực phát
triển năng động và có nhiều đổi thay quan trọng. Tại các trường đại học ở nhiều
quốc gia, khoa Điện ảnh được thành lập. Tuy nhiên, đời sống học thuật vẫn rất thưa
vắng những nghiên cứu kịch bản phim truyện điện ảnh dưới góc nhìn văn học, dù
kịch bản có vị thế đặc biệt. Ở Việt Nam, ngay từ những năm 90 của thế kỷ trước,
trên báo Văn Nghệ đã có cuộc thi sáng tác kịch bản, hai tác phẩm nổi tiếng đoạt giải
là Cây bạch đàn vô danh (Nguyễn Quang Thân), Trăng trên đất khách (Nguyễn Thị
Hồng Ngát). Rất nhiều nhà thơ, nhà văn Việt Nam hoạt động sôi nổi trong các Hội
Điện ảnh, lĩnh vực điện ảnh như: Đặng Nhật Minh, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn
Quang Lập, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Văn Thông, Nguyễn Thị Hồng Ngát,
Phạm Thùy Nhân, Lê Phương, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phạm Ngọc Tiến, Chu Lai,
Ngụy Ngữ, Hoàng Nhuận Cầm... Như vậy, Việt Nam đã sớm ý thức được vai trò
đặc biệt của kịch bản phim truyện điện ảnh trong cả hai loại hình nghệ thuật: điện
ảnh và văn học. Nhiều kịch bản phim truyện công khai trên các trang Internet, được
dịch, xuất bản thành sách như tập kịch bản của Đặng Nhật Minh, Phạm Thùy Nhân,
Nguyễn Thị Hồng Ngát, Trần Anh Hùng, Võ Thị Hảo…, có tác phẩm đạt Giải
thưởng Văn học Nhà nước. Không chỉ dừng lại ở chất liệu làm phim, kịch bản phim
truyện điện ảnh còn ảnh hưởng tới lối viết của văn học, gắn với những phát kiến
mới về mặt trần thuật. Nhiều tiểu thuyết mang tính “xi-nê” ra đời, tác phẩm của
Marguerite Duras là một trong những ví dụ tiêu biểu.
1.3. Việc nghiên cứu kịch bản phim truyện điện ảnh từ góc độ văn học có thể soi
sáng đặc trưng thẩm mỹ của thể loại này; góp phần cung cấp cho người nghiên cứu điện
2
ảnh tri thức nhất định và trang bị tới bạn đọc thông thường phương pháp giải mã kịch bản,
có được cách đọc hiệu quả. Luận án thể hiện sự tôn trọng đối với mỗi kịch bản, cho thấy
sự hoàn thiện không ngừng của kịch bản từ lúc ra đời đến khi lên phim và khẳng định thái
độ trân trọng đặc biệt với nhà biên kịch - những tác giả am hiểu về lĩnh vực điện ảnh, luôn
nỗ lực tìm tòi cái mới trong đề tài, chủ đề, nghệ thuật thể hiện… và đặc biệt là có lòng kiên
nhẫn cao độ, sự hi sinh trong nghề nghiệp để hoàn thành kịch bản đáp ứng yêu cầu của nhà
sản xuất, những cơ quan, tổ chức… cùng nhiều yêu cầu phức tạp khác.
Nghiên cứu này một mặt thúc đẩy, tác động đến hoạt động sáng tác kịch bản,
bởi chất liệu của kịch bản là ngôn từ; mặt khác khiến chúng ta tư duy lại những đặc
thù của loại hình văn học kịch. Lâu nay nghiên cứu văn học kịch mới chỉ chú ý đến
kịch bản kịch, dù điện ảnh ở vị thế “người em” lân cận của sân khấu. Nhìn lại lịch sử
văn học thế giới, từng bị phủ nhận vị thế nhưng giờ đây kịch bản kịch đã trở thành
một thể loại văn học độc lập, được viết ra để phục vụ nghệ thuật sân khấu, đồng thời
mang đến khoái cảm của sự đọc; nhiều kịch gia trở thành tác giả điển phạm/ được
trao giải Nobel văn học như Shakespeare, Harold Pinter, Eugene O'Neill… Đã đến
lúc nhìn nhận vai trò biên kịch/ kịch bản phim truyện điện ảnh một cách tương xứng.
Đây cũng là ý nghĩa lí thuyết của đề tài. Chúng ta có thể kỳ vọng tên tuổi các nhà
biên kịch điện ảnh được vinh danh tại giải Nobel vào một ngày không xa.
Từ tất cả những lí do về mặt thực tiễn và lí luận trên đây, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu: Kịch bản phim truyện điện ảnh như là một thể loại văn học (Movie
script as a literary genre).
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của công trình này là những đặc trưng của thể loại
kịch bản phim truyện điện ảnh khi được nhìn nhận ở tư cách một thể loại văn học.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của công trình là những kịch bản phim truyện điện ảnh dài
của biên kịch (phân biệt với kịch bản phim ngắn và kịch bản phân cảnh của đạo diễn
giàu yếu tố kỹ thuật). Trong tiếng Anh, khái niệm kịch bản được nói đến theo hai
nghĩa: script và screenplay. Script mang hàm nghĩa kịch bản tiền sản xuất, tác phẩm
của biên kịch. Screenplay chỉ kịch bản đã được hiện thực hóa trên màn ảnh thành một
bộ phim - khi xem phim, đối tượng tiếp nhận ở mức độ nào đó có thể hình dung được
kịch bản của bộ phim ấy. Trong các giải thưởng về điện ảnh thường có hạng mục dành
cho kịch bản, không thể chắc chắn rằng những người trao giải đã từng đọc kịch bản văn
học gốc (script), nhưng việc xem phim vẫn có thể giúp họ hình dung về một kịch bản
thú vị, giàu giá trị nội dung và nghệ thuật biểu hiện… Do thực hiện nghiên cứu kịch
3
bản phim truyện điện ảnh từ góc độ văn học, trọng tâm nghiên cứu của người viết là
script. Tuy nhiên, đôi khi chúng tôi vẫn phải thực hiện thao tác đối chiếu với
screenplay - kịch bản được hiện thực hóa bằng bộ phim - trong một số trường hợp, bởi
những lí do về bảo mật hồ sơ phim, thất lạc kịch bản, rào cản ngôn ngữ…
Luận án tập trung khảo sát chủ yếu kịch bản Việt Nam, mở rộng thêm một số kịch
bản nước ngoài với 38 kịch bản phim truyện điện ảnh tiếng Việt, 15 kịch bản nước
ngoài; ngoài ra còn khảo sát, đối chiếu hơn 70 kịch bản khác. Trong số ấy, có những
kịch bản đã được xuất bản thành sách, như tập kịch bản của Đặng Nhật Minh, Nguyễn
Thị Hồng Ngát, Phạm Thùy Nhân, Trần Anh Hùng, Võ Thị Hảo, Nora Ephron,…; hoặc
những kịch bản được in thành văn bản để người đọc thưởng thức một cách độc lập như:
Đời cát, Đảo của dân ngụ cư của Nguyễn Quang Lập; Thời xa vắng của Hồ Quang
Minh; Cây bạch đàn vô danh của Nguyễn Quang Thân; Chơi vơi, Bi, đừng sợ!…, Cha
và con và… của Phan Đăng Di; Vẻ đẹp Mỹ của Alan Ball; Bố già của Mario Puzo,
Francis Ford Coppola; Thelma and Louise của Callie Khouri… Một số kịch bản kịch,
phim truyền hình, phim ngắn… cũng được đưa vào khảo sát nhằm so sánh, đối chiếu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Với nghiên cứu này, lần đầu tiên kịch bản phim truyện điện ảnh được tiếp
cận như một thể loại văn học. Luận án hướng đến sự khẳng định tính đặc thù thể
loại của kịch bản phim truyện điện ảnh, phân biệt nó với kịch bản sân khấu và các
loại hình tự sự khác.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu kịch bản phim truyện điện ảnh như là một thể loại
văn học, xác lập những đặc trưng của nó trong sự phân biệt với kịch bản sân khấu “người anh” lân cận của kịch bản phim truyện điện ảnh - và với các văn bản tự sự
khác, chúng tôi xác định nhiệm vụ nghiên cứu: xây dựng mô hình nghiên cứu kịch
bản phim truyện điện ảnh như một thể loại văn học.
Mô hình này không chỉ giúp chúng ta hiểu đặc trưng văn học của kịch bản
phim truyện điện ảnh, mà còn góp phần gợi ý cho người làm phim và khán giả phần
nào tiêu chí đánh giá về khâu kịch bản phim ở những mức độ nhất định. Việc đề
xuất mô hình nghiên cứu sẽ khu biệt luận án với các tài liệu dạy viết kịch bản - nơi
ta sử dụng kịch bản như là những trường hợp nghiên cứu cụ thể để hướng dẫn làm
nghề điện ảnh. Mục đích luận án không nhằm giúp bạn đọc có được những hiểu
biết, kỹ năng để viết kịch bản, mà cho thấy kịch bản là một văn bản nghệ thuật
mang tính thẩm mỹ, không chỉ cần thiết đối với người và nghề làm phim, mà còn có
thể tạo khoái cảm đọc cho người tiếp nhận.
4
4. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi chủ trương kết hợp nhiều phương pháp khác nhau trong quá trình
nghiên cứu, trong đó có các phương pháp chính như sau:
Phương pháp cấu trúc: Với luận án này, người viết thực hiện công việc mô hình
hóa - đề xuất mô hình nghiên cứu kịch bản phim truyện điện ảnh như một thể loại văn
học, nên phương pháp quan trọng nhất được thực hiện là phương pháp cấu trúc.
Phương pháp loại hình: Dựa trên hệ thống kịch bản phim truyện điện ảnh đa
dạng được khảo sát, người viết tìm ra những đặc trưng chung cơ bản, cộng đồng giá
trị của các kịch bản dưới góc nhìn văn học.
Phương pháp liên ngành: Do đối tượng nghiên cứu của luận án là đối tượng rất
đặc thù - kịch bản phim truyện điện ảnh - một thành tố của tác phẩm điện ảnh, điện ảnh
lại là một bộ môn nghệ thuật tổng hợp, kế thừa tinh hoa của những loại hình nghệ thuật
trước đó, nên người viết thực hiện nghiên cứu từ góc độ liên ngành - văn học, điện ảnh;
điện ảnh, sân khấu; điện ảnh, nhiếp ảnh; điện ảnh, hội họa…
Phương pháp so sánh: Thao tác quan trọng cần được sử dụng trong luận án
là so sánh, bởi nếu không thực hiện so sánh, ta khó có thể tìm ra đặc trưng của thể
loại kịch bản phim truyện điện ảnh. Dù đối tượng nghiên cứu chủ đạo của luận án là
kịch bản văn học gốc của các nhà biên kịch (script) nhưng chúng tôi vẫn cần có
những so sánh, đối chiếu nhất định với “screenplay” - kịch bản được hiện thực hóa
trên màn ảnh thành một bộ phim.
Phương pháp thống kê: Từ số lượng kịch bản nhất định (đảm bảo nguyên tắc đa
dạng, phong phú), chúng tôi thực hiện thao tác này để phân tích những khía cạnh về
tính văn học thể hiện trong các kịch bản được đưa vào khảo sát; từ đó rút ra những nét
đặc trưng chung cơ bản dưới góc nhìn văn học ở kịch bản phim truyện điện ảnh.
5. Đóng góp mới của luận án
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách tập trung và có hệ thống kịch
bản phim truyện điện ảnh không phải dưới góc nhìn điện ảnh mà với tư cách một
thể loại văn học độc lập. Luận án xây dựng mô hình nghiên cứu kịch bản phim
truyện điện ảnh như một thể loại văn học, xác lập những đặc trưng của thể loại này
trong sự phân biệt nó với kịch bản sân khấu và các văn bản tự sự khác.
Luận án có đóng góp nhất định trong đời sống thưởng thức văn học. Kịch
bản phim truyện điện ảnh - văn bản quan trọng trong quá trình sản xuất phim và
người ta thường nghi ngờ tính văn học của nó, nhưng trên thực tế kịch bản là loại
hình văn bản nghệ thuật giàu tính thẩm mỹ, tạo nên khoái cảm đọc, có thể tồn tại
độc lập như mọi tác phẩm văn học khác. Luận án góp phần cung cấp những hiểu
biết nhất định để bạn đọc có được sự đọc chính xác, hiệu quả; đồng thời giúp người
5
xem phần nào đánh giá được giá trị kịch bản phim thông qua việc đọc văn bản trực
tiếp hay qua quá trình xem phim.
Luận án có ý nghĩa thực tiễn nhất định với người sáng tác kịch bản phim
truyện điện ảnh. Kịch bản phim truyện điện ảnh mang những đặc trưng riêng so với
các thể loại văn học khác, biên kịch cần tránh viết kịch bản như một truyện ngắn,
tiểu thuyết, kịch bản kịch… trong thực tế làm nghề.
Trong khi các nhà nghiên cứu văn học còn đang tập trung vào phương thức
chuyển thể, coi đó như là mối quan hệ liên văn bản giữa văn học và điện ảnh, thì
nghiên cứu này là một hướng nghiên cứu phù hợp và khả quan khi tiếp cận nghiên
cứu kịch bản phim truyện điện ảnh dưới góc nhìn văn học, bởi kịch bản sử dụng
chất liệu ngôn ngữ - chất liệu của nghệ thuật văn học.
6. Cấu trúc luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Công trình khoa học đã công bố, Tài liệu
tham khảo và Phụ lục thì Nội dung luận án được triển khai cụ thể trong các chương
như sau:
Chương 1. Tổng quan
Chương 2. Kịch bản phim truyện điện ảnh như là mô hình thế giới quan
Chương 3. Kịch bản phim truyện điện ảnh như là mô hình giao tiếp
Chương 4. Kịch bản phim truyện điện ảnh như là mô hình tự sự
6
Chương 1
TỔNG QUAN
1. 1. Kịch bản như là một thành tố của phim truyện điện ảnh
1.1.1. Phim truyện điện ảnh như một phương thức kể chuyện
Điện ảnh thường được hiểu là một khái niệm lớn, bao gồm “các bộ phim tạo bởi
những khung hình chuyển động (phim); kỹ thuật ghi lại hình ảnh, âm thanh và ánh sáng
để tạo thành một bộ phim (kỹ thuật điện ảnh); hình thức nghệ thuật liên quan đến việc
tạo ra các bộ phim và ngành công nghiệp thương mại liên quan đến các công đoạn làm,
quảng bá và phân phối phim ảnh (công nghiệp điện ảnh)” [136]. Người ta quen gọi điện
ảnh là nghệ thuật thứ bảy, bên cạnh những loại hình nghệ thuật ra đời trước đó: thơ văn,
âm nhạc, hội họa, điêu khắc, vũ kịch (khiêu vũ, sân khấu) và kiến trúc theo quan điểm
của nhà triết học người Đức - Georg Wilhelm Friedrich Hegel. Điện ảnh được coi là
nghệ thuật tổng hợp khi nó kế thừa và phát huy tinh hoa ngôn ngữ nghệ thuật của tất cả
các loại hình nghệ thuật còn lại. Là môn nghệ thuật đa phương tiện, nghệ thuật nghe nhìn, hay một nền công nghiệp giải trí hàng đầu thế giới... điện ảnh tiến bước, gắn với sự
phát triển về máy móc, công nghệ ghi hình và thu thanh, đồng thời các nhà làm phim đã
không còn dừng lại ở kênh nghe - nhìn mà đang nỗ lực mang lại nhiều chiều cảm xúc
bằng việc tìm cách mở rộng thêm các kênh giác quan của người tiếp nhận.
Điện ảnh - nghệ thuật thứ bảy, là bộ môn tổng hợp nhiều dạng thức ngôn
ngữ, sử dụng những thuộc tính của các ngành nghệ thuật khác và lấy yếu tố kỹ
thuật, công nghệ làm nền tảng quan trọng để tạo đà phát triển. Ngôn ngữ đặc trưng
của điện ảnh là hình ảnh động, kết hợp với âm thanh cùng nhiều yếu tố kỹ thuật
khác được sắp xếp với nhau một cách hợp lí để tạo thành tác phẩm nghệ thuật. Sự ra
đời điện ảnh trở thành một bước ngoặt kể chuyện quan trọng của loài người.
Lịch sử loài người ban đầu chưa có chữ viết, những câu chuyện được truyền
miệng - kể bằng lời nói. Hầu hết các quốc gia đều tồn tại nền văn học dân gian truyền
miệng riêng mình. Ví như Arập xa xưa có rất nhiều thơ ca truyền miệng, nhiều thi sĩ
dân gian và “họ thường ngâm thơ cho các bộ lạc du mục nghe” [150; tr.57]. Hai bộ sử
thi đồ sộ của Ấn Độ (Mahabharata và Ramayana) khởi điểm cũng là tác phẩm truyền
miệng. Thần thoại Hy Lạp - tập hợp đồ sộ truyện kể về những vị thần, người anh hùng
và sinh vật thần thoại - được kể với hình thức đầu tiên là thơ ca truyền miệng… Ngoài
chất liệu ngôn ngữ, con người kể chuyện bằng đa dạng các hình thức: hình vẽ khắc
trong hang núi, những bài dân ca, các điệu nhạc, tranh ảnh trên bình gốm, đồ tế lễ…
Chữ viết ra đời là khúc ngoặt kể chuyện lớn lao của nhân loại. Hệ thống chữ viết
đầu tiên của loài người ra đời vào thời điểm cuối thiên niên kỷ thứ ba Trước công nguyên,
tại vùng Sumer (Lưỡng Hà) [247]. Khi có chữ viết, con người kể chuyện bằng những lời
7
văn. Khoảng 20 thế kỷ tiếp theo, nghệ thuật kể chuyện phát triển đỉnh cao với thể loại tiểu
thuyết. Không chỉ vậy, với nhu cầu chia sẻ ở những mức độ khác nhau, các câu chuyện
được kể bằng nhiều loại chất liệu đa dạng đã phát triển tinh hoa thành nghệ thuật: bằng
màu sắc, đường nét trong hội họa; tiết tấu, nhịp điệu, âm vực trong âm nhạc; nghệ thuật
diễn xuất của diễn viên tại bối cảnh nhất định ở sân khấu; hình ảnh tĩnh trong nhiếp ảnh…
Điện ảnh ra đời, bắt đầu thời kỳ loài người kể chuyện bằng hình ảnh động. Có ý
kiến cho rằng: trong việc kể chuyện thì ngôn từ và hình ảnh có mối quan hệ từ khởi
nguyên của nhiều nền văn minh - một số sinh viên và học giả điện ảnh tìm thấy “mối
tương kết ban đầu giữa điện ảnh và văn học từ những hình ảnh trong hang động thời tiền
sử, những biểu tượng Ai Cập, hay nhiều nét thư pháp trong các nền văn minh sơ khai,
chẳng hạn như chữ tượng hình Trung Quốc” [214; tr.147]. Các nhà sử học và phê bình tìm
thấy nỗ lực rất sớm của loài người trong việc ghi lại hệ thống các sự kiện, kể chuyện, hoặc
khơi dậy sức mạnh tâm linh với phong cách giống như “người ta dùng trong điện ảnh
nhiều thế kỷ sau, nhằm giới thiệu về lịch sử của mình, kể lại chuyện của mình” [214;
tr.15].
Điện ảnh là môn nghệ thuật hình ảnh, nảy sinh từ sự gợi ý của thành tựu, sức
hấp dẫn ở nghệ thuật nhiếp ảnh. Đầu thế kỷ 19, các nhà khoa học đã phát hiện ra một
hiện tượng rất lí thú về đôi mắt của con người: khả năng lưu lại hình ảnh sự vật, hiện
tượng trong khoảng một phần nhỏ của giây sau khi sự vật ấy đã dời đi, gọi là sự lưu
ảnh (Persistence of vision). Mắt người có khả năng nhận ra những dư ảnh - lưu ảnh,
đó là tiền đề, nguồn động lực cho những thử nghiệm kỹ thuật phim ảnh trong suốt thế
kỷ trước [10]. Nếu nhiếp ảnh là bức ảnh tĩnh thì điện ảnh lại là nghệ thuật của hình
ảnh động.
Lịch sử ra đời và phát triển điện ảnh gắn liền sự ra đời máy quay phim và những
bước tiến của kỹ thuật ghi hình. Năm 1888, cuốn phim đầu tiên xuất hiện tại Anh, là thử
nghiệm của nhà phát minh Louis Le Prince. Tuy nhiên, do kỹ thuật hạn chế, tốc độ ghi
hình mới chỉ dừng lại ở mức 12 hình/ giây (khi xem phim, khán giả sẽ thấy hình ảnh bị
giật). Ngày 28 tháng 12 năm 1895 là mốc đánh dấu sự ra đời của điện ảnh - ngày hai anh
em Auguste và Louis Lumière (xuất phát điểm là nhà nhiếp ảnh cự phách) nhận bằng
đăng kí phát minh máy chiếu phim (cinématographe) và tổ chức buổi chiếu phim thu tiền
đầu tiên tại Paris. Chiếc cinématographe là sự kế thừa hài hòa, thành công của nhiều
phát minh trước đó; đồng thời hội tụ ba yếu tố quan trọng của phim ảnh: thứ nhất là
ghép động ảnh - tạo ra những tấm ảnh tức thời, theo những kì tư thế của một động
tác/ vận động liên tiếp nhau, thứ hai là chiếu rọi các hình ảnh của động tác ấy lên
màn hình và thứ ba là tồn tại cơ cấu đẩy phim cả trong máy quay và máy chiếu.
Những thước phim đầu của loài người đơn thuần ghi lại cảnh sinh hoạt hàng
8
ngày trong thực tế. Sau đó, điện ảnh nhanh chóng trở thành nghệ thuật giải trí có
sức cuốn hút mạnh mẽ.
Năm 1902 là mốc đánh dấu kỹ xảo điện ảnh ra đời, khi thành công tạo được
khuôn mặt người trong mặt trăng ở phim Cuộc du hành lên mặt trăng (Le Voyage
dans la lune) của Georges Méliès - người được tôn vinh là đã đưa điện ảnh thoát
khỏi khủng hoảng của sự nhàm chán, thậm chí bị coi là đang hấp hối... Những
thước phim mang tính chất người thật việc thật đơn thuần không còn hấp dẫn khán
giả như buổi đầu, nhiều bộ phim chất lượng thấp và thiếu an toàn khi trình chiếu (ví
như thảm họa Chợ Từ thiện, đèn ê-te của máy chiếu đã gây ra đám cháy khiến
khoảng hai trăm người thuộc xã hội thượng lưu chết trong biển lửa)... Bằng việc
sáng tạo ra vị trí đạo diễn, các cảnh phim được xếp đặt theo dụng ý nhất định một
cách rõ ràng hơn so với giai đoạn trước, kế thừa cách kể chuyện của nghệ thuật sân
khấu, chú trọng sản xuất những cảnh huyền ảo, nhiều xảo thuật... Méliès cứu điện
ảnh khỏi thân phận bị xua đuổi, đồng thời góp phần giúp điện ảnh giành thế chủ
động khi cạnh tranh với các loại hình nghệ thuật khác.
Phim The Birth of a Nation (1915) được coi là bước thay đổi lớn lao trên cả hai
phương diện: kịch bản và kỹ thuật dàn dựng. Đạo diễn D.W.Griffith trở thành người có
công lớn trong việc chuẩn hóa nhiều thuật ngữ điện ảnh và tổng kết lại các khâu cần thiết
trong quy trình sản xuất phim. Tuy nhiên, điện ảnh vẫn chỉ dừng lại ở phim câm - đầy hạn
chế khi thể hiện những thước phim yêu cầu về chiều sâu tâm lí nhân vật, vì vậy thể loại hài
lên ngôi (diễn viên phát huy thế mạnh của ngôn ngữ hình thể, diễn xuất qua sắc diện, vẻ
mặt...); mỗi khi chiếu phim có thể cần các tấm biển đề lời thoại của nhân vật, cần người
đọc thoại, thậm chí cần cả dàn nhạc sống đi theo đoàn chiếu phim để minh họa... Năm
1927, phim có tiếng đầu tiên ra đời - The Jazz Singer. Nhờ công nghệ ghép nhạc trực
tiếp vào cuộn phim, điện ảnh trở nên hấp dẫn, phim ca nhạc xuất hiện.
Nghệ thuật điện ảnh tiếp tục hoàn thiện mình với sự ra đời của phim màu.
Thực tế, phim màu xuất hiện từ thế chiến thứ II, đã có thành tựu nhiều mặt trên các
phương diện về góc quay đa dạng cũng như nghệ thuật dựng. Tuy nhiên, phải đợi
đến những năm 1950 phim màu mới thực sự phổ biến. Màu sắc trên phim trở thành
công cụ đặc biệt và hữu ích, giúp điện ảnh thắng thế khi cạnh tranh trên cuộc đua
thu hút khán giả với nhiều loại hình giải trí. Tuy so sánh có phần khập khiễng,
người ta có thể tưởng tượng điện ảnh qua thời gian như một cô gái xinh đẹp, bình dị
và lặng câm đã biết cất lên tiếng nói đầy hấp dẫn và điểm trang cho mình bằng phấn
son, trang sức mỹ lệ, giàu màu sắc… khiến hầu hết nhân loại mê say.
Ở giai đoạn tiếp theo, nhiều trào lưu điện ảnh ra đời - chẳng khác nào trăm hoa đua
nở nơi khu vườn nghệ thuật. Kỹ thuật làm phim và quy trình sản xuất phim không ngừng
9
hoàn thiện, chuyên môn hóa ở mức độ cao. Cuối thế kỷ 20, quy trình sản xuất phim kỹ
thuật số xuất hiện, áp dụng trên cả phương diện máy quay và dựng phim. Điều đó giúp giải
quyết nhiều vấn đề về kinh phí cũng như nghệ thuật làm phim - máy móc gọn nhẹ và đảm
bảo độ an toàn cao, các phần mềm dựng phim ra đời, định dạng viết kịch bản cũng được
phổ biến, kỹ xảo âm thanh lẫn hình ảnh ngày một tiến bộ, đạt tới đỉnh cao.
Sự ra đời và phát triển của điện ảnh là hành trình tiến bước từ những kỹ thuật ghi
hình giải trí đơn thuần đến một môn nghệ thuật thực sự. Khi mới ra đời, điện ảnh chưa có
vị thế nghệ thuật, trong các chương trình chiếu phim của Lumier chỉ xuất hiện những
cảnh quay thực, ngắn ngủi... Hãng phim Lumier đã phái các nhà quay phim được đào tạo
đi khắp nước Pháp cùng nhiều quốc gia trên thế giới để quay và chiếu phim, người ta ví
von rằng đó không khác gì những chiến dịch săn lùng hình ảnh động. Thể loại phim
được chú trọng thời điểm bấy giờ là phim tài liệu, du lịch… Tuy nhiên, với sức hấp dẫn
đặc biệt, điện ảnh nhanh chóng bứt phá, vượt lên thân phận thấp kém của một trò
giải trí chợ phiên. Sau khi bước vào sinh hoạt của loài người với tư cách một sáng chế
kỹ thuật trước ngưỡng cửa thế kỉ XX chừng ba thập kỷ, nó đã trở thành nghệ thuật hùng
vĩ sở hữu những ưu trội nổi bật so với các loại hình nghệ thuật khác - văn học, sân khấu,
âm nhạc, hội họa, điêu khắc - ra đời trước đó cả ngàn năm. Chúng ta cũng nhận ra rằng,
điều ấy chỉ có thể xảy ra được vì “linh cảm về hình ảnh chuyển động và mang theo âm
thanh đã xuất hiện từ nhiều thế kỷ trước” - công cuộc khai phá kỹ thuật của điện ảnh tiến
triển dần qua thời gian và các nguyên tắc nghệ thuật của nó được nảy sinh cả trăm năm
ngay trong lòng những nghệ thuật xuất hiện trước đó [199; tr.22]. Điều đáng nói hơn
hết là con người đã dùng điện ảnh như một cách thức tư duy, một phương thức giao
lưu đồng loại và “tra vấn bản chất của sự hiện hữu” trong cuộc đời - nhằm chứng
minh và thể hiện trách nhiệm làm Người của mình trước nhân sinh vô cùng vô tận
[204; tr.6].
Như vậy, điện ảnh gắn với nghệ thuật kể chuyện bằng hình ảnh. Ban đầu, điện
ảnh đơn thuần mang tư cách một loại hình giải trí kể điều gì đó đang diễn ra với hình
ảnh động: cảnh đoàn tàu vào ga, những công nhân ra khỏi nhà máy... Sau đó, điện ảnh
trở thành ngành công nghiệp giải trí hàng đầu thế giới, gắn với sự phát triển khoa học
kỹ thuật, đồng thời cũng là một bộ môn nghệ thuật hấp thu trong nó tinh thần của nghệ
thuật hiện đại chủ nghĩa. Từ phim câm, điện ảnh xuất hiện phim có tiếng; từ phim đen
trắng, phim màu ra đời; từ phim tài liệu giản đơn, phim truyện nghệ thuật được khai
sinh và mang trong mình vô vàn sức quyến rũ… Điện ảnh vươn lên mạnh mẽ và nhanh
chóng được thừa nhận vị trí loại hình nghệ thuật thứ bảy bên cạnh sáu loại hình nghệ
thuật đã được khái quát từ thời cổ điển. Điều khiến điện ảnh có sức cuốn hút đặc biệt
tới đại chúng là nhờ khả năng tổng hợp và khắc phục nhiều giới hạn của những nghệ
10
thuật tạo hình và biểu hiện trước đó. Điện ảnh khắc phục giới hạn của nghệ thuật sân
khấu đầy tính ước lệ gắn với quy tắc vàng - tam duy nhất, kể chuyện bằng hình ảnh
động, hấp thu sự hấp dẫn của văn học, âm nhạc, hội họa, nhiếp ảnh…
Phim điện ảnh có nhiều thể loại: phim truyện điện ảnh, phim tài liệu (thể loại
phim có đối tượng là người thật việc thật, hạn chế tính hư cấu, nội dung phim thể
hiện bản chất của đối tượng phản ánh và cho thấy ý nghĩa xã hội của đối tượng ấy),
phim khoa học (thể loại phim cung cấp những nội dung, kiến thức khoa học), phim
giáo khoa (thể loại phim mà nội dung của nó phục vụ cho các chương trình môn
học, như một phương tiện cho quá trình dạy và học)…
Về phim truyện điện ảnh, Trung Quốc gọi loại phim này là Cố sự phiến - nghĩa là
phim có cốt truyện. Trong thuật ngữ tiếng Anh, người ta gọi phim truyện là Story film,
khái niệm tương đương ở tiếng Pháp là Film de fiction; điện ảnh Anh và Mỹ sử dụng
thuật ngữ tương tự là Fiction film với nghĩa: phim được tưởng tượng, phim được hư cấu
[199; tr.143]. Phim truyện điện ảnh có thể được định nghĩa đơn giản mà cốt lõi như sau:
Là bộ phim kể một câu chuyện nào đó bằng ngôn ngữ điện ảnh giàu tính nghệ thuật. Sức
hấp dẫn ở phim truyện liên quan đến thuộc tính của bộ não và tâm lí người. Về vấn đề
này, xin được mượn ý kiến tổng kết của David Robson trong bài nghiên cứu Tại sao
nhân loại say mê đọc truyện (Why humans need stories). Tác giả David Robson khẳng
định sự đáng tin của vấn đề: truyện kể đã luôn giữ vai trò trung tâm, đặc biệt quan trọng
không chỉ ngày nay mà còn từ ngàn năm trước trong đời sống con người. Bằng chứng là
các bức tranh được khắc trên hang động ở những địa điểm như Chauvet và Lascaux
(nước Pháp) cách đây khoảng 30.000 năm đã thể hiện nhiều cảnh rất sống động, mà nội
dung ẩn chìm sau đó thực chất là những câu chuyện được kể bằng hình thức truyền
miệng (văn học dân gian). Ngày nay, con người tuy không còn duy trì nếp sống quây
quần bên ánh lửa trại như thời xa xưa, nhưng một người trưởng thành được thống kê là
thường vô thức hoặc hữu ý đắm chìm nơi những câu chuyện tưởng tượng ít nhất 6% thời
gian thức mỗi ngày.... Nhìn từ lăng kính thiên về vật chất và đầy thực tế của thế giới hiện
đại vội vã, nhiều áp lực... sự chìm đắm đó có thể bị cho là phí phạm thời gian vào những
việc không có thật, trốn tránh và thay thế cuộc sống thực tại bằng một thế giới phi thực,
đầy ảo mộng... Tuy nhiên, những nhà tâm lí học và các nhà lí luận văn học đã nghiên cứu
và khẳng định rằng: việc đọc truyện mang lại cho con người vô số những lợi ích hữu
hình cũng như vô hình. Đọc truyện như một dạng của trò chơi nhận thức, giúp rèn luyện
trí óc, cho phép con người mô phỏng thế giới xung quanh theo cách của riêng mình,
đồng thời tưởng tượng ra các chiến lược khác nhau, nhất là những tình huống xã hội.
Giáo sư Joseph Carroll giải thích rằng việc đọc truyện là phương thức giúp người với
người hiểu nhau hơn, đó cũng là một con đường hữu hiệu để mỗi chúng ta có thể luyện
11
tập thấu cảm, luyện tập trí óc. Bằng chứng khoa học được đưa ra đầy sức thuyết phục:
các hình ảnh quét não đã cho thấy tác dụng từ việc đọc/ nghe những câu chuyện rất lớn
lao - giúp kích hoạt mạnh mẽ, đa dạng các khu vực nơi vỏ não con người - bộ phận có
chức năng xử lí cảm xúc và ứng biến xã hội. “Chúng ta càng đọc truyện nhiều thì chúng
ta càng dễ dàng cảm thông với người khác” [257]. Nhà lý luận và phê bình văn học
người Mỹ là Jonathan Culler trong cuốn Nhập môn lý thuyết văn học (Nhà xuất bản Hội
Nhà văn, 2020) từng tổng kết: Vào thế kỷ 20, tiểu thuyết làm lu mờ thơ ca, với tư cách
vừa là tác phẩm do nhà văn viết, vừa là đối tượng được đông đảo độc giả lựa chọn đọc;
tự sự đã thống trị chương trình dạy và học văn học kể từ những năm 1960. Vị trí trung
tâm của văn hóa tự sự chiếm lĩnh cả trên bình diện lí thuyết văn học và lí thuyết văn hóa.
Luận điểm câu chuyện là phương thức chủ yếu để hiểu được mọi sự được đưa ra - chúng
không đi theo logic nhân quả mang tính khoa học mà là logic của câu chuyện, ở đó, hiểu
một vấn đề tức là “nhận biết thứ này dẫn đến thứ khác như thế nào, một thứ nào đó có
thể đã xuất hiện như thế nào” [240; tr.129]. Tựu chung lại, những thuộc tính về sự tò mò,
ham học, thích thông tin của bộ não; tính người và ký ức người trong cộng đồng là động
lực để chúng ta ham mê những câu chuyện và đắm say với thể loại phim truyện điện ảnh.
Trong thế giới phim điện ảnh, phim truyện giữ vị trí nổi bật. Phim truyện
điện ảnh vừa là một phương thức kể chuyện của loài người, vừa là loại hình giải trí
hàng đầu hiện nay của thế giới. Chỉ tính số liệu ở Việt Nam, người ta đã thống kê:
trên 50% dân số đến rạp chiếu phim ít nhất 1 lần trong tháng. Đại diện của một đơn
vị sở hữu cụm rạp BHD khẳng định: Ở bất cứ quốc gia nào, sau khi thoát khỏi
những khó khăn về vật chất tối thiểu, con người sẽ bắt đầu quan tâm, chăm lo đời
sống tinh thần thêm phong phú, giàu màu sắc, tiệm cận tới hạnh phúc thực sự - tồn
tại nơi tâm hồn. “Việt Nam là nước đang phát triển, đã trải qua giai đoạn lo miếng
cơm manh áo thì mọi người bắt đầu nghĩ nhiều hơn về vấn đề giải trí”. Đó là sự lí
giải tại sao các rạp chiếu phim ở Việt Nam đang phát triển nhanh, mạnh, đồng đều
trên cả phương diện số lượng lẫn chất lượng, và sẽ còn tiếp tục tiến xa trong tương
lai [84].
Giai đoạn đầu, phim truyện điện ảnh chưa có kịch bản, nói cụ thể hơn thì
kịch bản phim truyện điện ảnh mới chỉ tồn tại dưới dạng ý tưởng. Tuy nhiên, để
tăng sức cạnh tranh với nhiều loại hình nghệ thuật giải trí khác (như sân khấu), đồng
thời phục vụ cho quá trình làm phim chuyên nghiệp, hiệu quả kinh tế cao (bởi chi
phí quay - dựng, làm âm thanh... đắt đỏ, tốn kém, cần có sự chuẩn bị kỹ càng)…
kịch bản ra đời và vai trò của biên kịch dần định hình rõ nét. Nhờ kịch bản, những
bộ phim có cốt truyện, nhân vật, sự kiện chặt chẽ theo logic, dụng ý sáng tạo nhất
định. Sau này, các loại hình nghệ thuật như truyền hình, sitcom… vẫn luôn cần kịch
12
bản và kịch bản trở thành khâu tối quan trọng trong giai đoạn tiền sản xuất.
1.1.2. Kịch bản - khâu khởi đầu của phim truyện điện ảnh
Trong phần đầu của nghiên cứu, chúng tôi tạm thời đưa ra khái niệm kịch bản
phim truyện mang tính chuyên ngành điện ảnh, dựa trên sự tổng kết nội dung của Giáo
trình biên kịch nội bộ thuộc học viện TVM SBS - HTV3 liên kết Hàn Quốc: Kịch bản
phim truyện điện ảnh là kịch bản cho một câu chuyện. Nó là một bộ phim bằng giấy; là
một trạng thái trung chuyển, một dạng thức văn bản nhất thời để rồi tự biến đổi và mất đi
để thành phim, được viết ra cho đối tượng chủ yếu là các thành viên đoàn phim đọc - mỗi
đối tượng sẽ có cách đọc và mục đích đọc riêng, phục vụ cho quá trình sản xuất phim,
không phải nhằm mục đích thưởng thức văn chương. Kịch bản chỉ bao gồm những gì rất
trực quan: hình ảnh, âm thanh, những cái nhìn, sự im lặng, động tác, và bất động [55].
Hiện nay, phần lớn các bộ phim ra đời đều trải qua ba giai đoạn trong sản
xuất. Giai đoạn thứ nhất: Phát triển ý tưởng phim. Người làm phim nhận cấp phát
chi phí cho bộ phim, thành lập ê-kip làm phim. Giai đoạn thứ hai: Người làm phim
quay hình và ghi tiếng - bao gồm lời thoại, tiếng động, âm nhạc. Giai đoạn thứ ba:
Dựng phim. Giai đoạn này có thể lồng với giai đoạn quay phim, hình ảnh và âm
thanh kết hợp với nhau trong một hình thức cuối cùng. Công việc này gồm dựng
hình và tiếng, làm kỹ xảo, bổ sung âm thanh hoặc thêm lời thoại, tựa đề.
Kịch bản nằm trong giai đoạn đầu tiên của quá trình làm phim, còn gọi là giai
đoạn tiền sản xuất - ý tưởng phim được đưa ra, văn bản kịch bản đã được viết chi tiết,
cụ thể. Khi đoàn làm phim có trong tay kịch bản đảm bảo chất lượng, họ sẽ nhận số
vốn nhất định và tiến hành làm phim (quay hình, ghi tiếng) - trực tiếp sản xuất phim.
Như trên đã nói, điện ảnh giai đoạn đầu đơn thuần là một hình thức giải trí,
hầu như chưa hề có kịch bản… Tuy nhiên, ý thức về kịch bản xuất hiện khá sớm.
Ra đời trong thời kỳ đầu của điện ảnh, bộ phim Người tưới vườn bị tưới
(L’Arroseur arrose’) được xem là phim truyện đầu tiên. Trong những thước phim
ngắn do anh em Lumière sản xuất và trình chiếu, chỉ bộ phim này được quay theo
kịch bản đã chuẩn bị từ trước. Câu chuyện hài hước được kể bằng hình ảnh ấy đã
mở đường cho thể loại phim truyện điện ảnh ra đời và phát triển. Những kịch bản
điện ảnh đầu tiên khá thô sơ. Dần dần, điện ảnh hoàn thiện ngôn ngữ đặc trưng
riêng mình, phim có tiếng ra đời, kịch bản đóng vai trò tối quan trọng, nó có thoại.
Đó vừa là vấn đề phát triển nội tại của nghệ thuật điện ảnh, vừa để tăng khả năng
cạnh tranh trong lĩnh vực giải trí.
Ở giai đoạn tiền sản xuất (giai đoạn đầu tiên của quá trình làm phim), nhiệm
vụ của biên kịch là chuẩn bị kịch bản. Phải qua nhiều chặng biên kịch mới có được
kịch bản hoàn chỉnh, thường bao gồm: bản tóm lược, kịch bản qua một/ vài lần sửa
13
chữa, kịch bản hoàn chỉnh (còn gọi là kịch bản chi tiết). Thật khó khăn nếu muốn
một nhà văn/ nhà thơ sửa tác phẩm, viết lại, thay đổi cách kể… nhưng với biên kịch,
họ thường lắng nghe những đề xuất, góp ý và sửa chữa nhiều lần tác phẩm để kịch
bản không những thể hiện ý tưởng của tác giả mà còn phù hợp với sáng tạo của đạo
diễn cũng như điều kiện sản xuất phim.
Biên kịch có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác làm phim, thông thường
không có kịch bản thì cũng không có những bộ phim. Kịch bản phim viết cho nghệ
thuật điện ảnh, và nó là một khâu của quá trình sản xuất phim. Nếu như kịch bản được
thực hiện với văn bản ngôn ngữ nghệ thuật thì các khâu còn lại là sự chuyển hóa văn
bản ấy thành phim bằng những thao tác kỹ thuật, diễn xuất, kết hợp nhiều loại hình
nghệ thuật khác (hội họa, âm nhạc, điêu khắc,...) nhằm tạo ra những thước phim sống
động, giàu tính hấp dẫn người xem. Người viết xin được mượn lời đạo diễn người Pháp
- Robert Bresson - để nói về vấn đề này: “Bộ phim đầu tiên xuất hiện trong đầu tôi và
chết trên những trang kịch bản, nó được sống lại nhờ những nhân vật, đối tượng có thật
mà tôi ghi lại trên phim, sắp xếp theo trật tự nhất định rồi chiếu lên màn ảnh. Nó trở nên
sống động, tươi tắn như hoa được cắm vào nước” [176; tr.9].
1.2. Những công trình nghiên cứu kịch bản phim truyện điện ảnh
1.2.1. Nghiên cứu kịch bản phim truyện điện ảnh trong những công trình nghiên
cứu nghệ thuật điện ảnh
Là khâu khởi đầu mang tính chất nền tảng cho sự ra đời của bộ phim nhưng khi
xem phim, ít ai nhớ tới kịch bản cũng như tác giả kịch bản. Trong lịch sử phim ảnh,
những nhà làm phim thường không có nhiều ưu ái với biên kịch. Bằng chứng là khi khán
giả đi xem phim, những dòng tiêu đề giới thiệu ê-kip làm phim được mở ra với tên tuổi
của những ngôi sao màn bạc, nhà sản xuất, đạo diễn, quay phim, dựng phim, thiết kế mỹ
thuật, phục trang, chuyên viên âm thanh, ánh sáng, nhạc sĩ... “rồi tận cùng mới là cái tên
của nhà biên kịch” [252; tr.16]. Về phía người tiếp nhận, thông thường đi xem phim là
xem những diễn viên ngôi sao hoặc vì các đạo diễn nổi tiếng, được mến chuộng..., chứ
“chẳng bao giờ đi xem vì nhà biên kịch yêu thích” [252; tr.18]. Nhà văn, nhà viết kịch,
nhà biên kịch điện ảnh Nguyễn Quang Lập từng bày tỏ: “Ai cũng biết nhà biên kịch
đóng góp ít nhất 50 % cho sự thành công mỗi bộ phim, phim truyền hình thì ít nhất 70%,
nhưng người ta thường vẫn hồn nhiên quên các nhà biên kịch mỗi khi phim được ra mắt
hay nhận giải. (…) Nhà biên kịch và đạo diễn là tương đồng cả trong nhuận bút lẫn trong
sự tôn vinh. Bỏ qua nhà biên kịch trong khi tôn vinh một bộ phim là sai lầm, nếu không
muốn nói là thiếu hiểu biết” [89]. Chính vì thực trạng đó, với hệ thống tài liệu nghiên
cứu về điện ảnh nói chung, kịch bản thường được nhắc tới ở những mức độ đậm - nhạt
khác nhau, chủ yếu trên các phương diện: định nghĩa, hình thức, vai trò/ chức năng của
14
kịch bản trong lịch sử điện ảnh nói chung và đối với những người làm phim nói riêng
(đạo diễn, nhạc sĩ, diễn viên...) trong quá trình sản xuất phim. Ở những tài liệu dạy viết
kịch bản phim truyện điện ảnh, kịch bản tuy giữ vị trí trung tâm, nhưng không phải để
nghiên cứu cái hay cái đẹp trong văn bản tác phẩm mà gắn với mục đích chủ đạo là dạy
cho người đọc những kỹ thuật viết kịch bản, đưa ra các mẫu kịch bản (viết theo hình thức
như một truyện vừa/ tiểu thuyết hay theo mẫu quốc tế với phần mềm chuyên biệt), phân
loại kịch bản (sáng tác nguyên gốc, chuyển thể,...). Có thể chia hệ thống tài liệu này
thành các nhóm công trình nghiên cứu sau:
* Thứ nhất, những công trình nói về định nghĩa kịch bản phim truyện điện ảnh
Mang vai trò và tính chất chuyên biệt, kịch bản phim truyện điện ảnh được định
nghĩa với tiêu chí chức năng rất rõ ràng trong cuốn Ngôn ngữ điện ảnh và truyền hình
(DIXT/ Jean Pierre Fougea và Hội Điện ảnh Việt Nam đồng xuất bản, 2007) của tác
giả Bruno Tousssaint. Kịch bản được nhận định như một “bản nhạc” dành trong nhạc
trưởng và các nhạc sĩ trong dàn nhạc. Tất cả những yếu tố: câu chuyện, mô tả địa điểm,
các nhân vật, hội thoại giữa các nhân vật cùng mọi chỉ dẫn cần thiết cho việc dàn dựng,
đều nằm trong kịch bản. Trước khi tiến hành quay phim, kịch bản là căn cứ quan trọng
nhà sản xuất đánh giá chất lượng nghệ thuật của bộ phim tương lai ở mức độ nhất định,
đồng thời giúp họ lên dự án về kinh phí sản xuất và đi tìm các nguồn tài trợ cần thiết
cho việc thực hiện. Cũng trong cuốn sách này, tác giả trình bày tập trung, cô đọng
những nội dung đa dạng như: ngôn ngữ của hình ảnh và âm thanh; thể loại, mẫu dạng
và phương tiện nghe nhìn; băng hình ảnh; băng âm thanh… để phục vụ cái nhìn điện
ảnh cho người làm nghề đầy thực tiễn. Phim truyện được khẳng định là một bộ máy
nặng nề, tốn kém và mất nhiều thời gian sản xuất. Việc tổ chức quay phim đòi hỏi các
chi tiết có độ chính xác cao, kịch bản giống như bản vẽ của một kiến trúc sư trước khi
xây nhà, dựa trên bản vẽ đó, nhà sản xuất, đạo diễn, quay phim, diễn viên, các kỹ thuật
viên... mới có thể thực hiện công việc của mình.
Tác giả Cao Thụy biên soạn cuốn Điện ảnh, nghệ thuật thứ bảy (Nhà xuất bản
Trẻ, 2004) với mục đích: Giúp bạn đọc hiểu tại sao điện ảnh được gọi là môn nghệ thuật
thứ bảy và loại hình nghệ thuật ấy có ý nghĩa gì với nhân loại. Ở công trình này, người
viết tổng kết định nghĩa về kịch bản phim truyện đơn giản và dễ hiểu, gắn với thực tế
ngành điện ảnh chuyện nghiệp: kịch bản văn học điện ảnh (hay truyện phim) được viết
với tay nghề vững vàng coi như là “một bộ phim được chiếu ra trên giấy” [200; tr.27].
Trong cuốn Dạo chơi vườn điện ảnh (Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn, 2006), Việt
Linh đưa ra định nghĩa về kịch bản bằng lối lập luận từ xa đến gần, từ khái quát đến chi
tiết, cụ thể và gắn với những công tác điện ảnh đầy tính thực tiễn như sau: Mỗi bộ phim
được khán giả đón nhận trên màn ảnh thường bắt đầu từ những điều tưởng chừng rất
- Xem thêm -