Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận án tiến sĩ hoàn thiện kế toán định giá doanh nghiệp trong bối cảnh tái cấu ...

Tài liệu Luận án tiến sĩ hoàn thiện kế toán định giá doanh nghiệp trong bối cảnh tái cấu trúc doanh nghiệp tại các doanh nghiệp nhà nước việt nam

.PDF
170
49
76

Mô tả:

1 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KẾ TOÁN ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP KHI TÁI CẤU TRÚC DOANH NGHIỆP 1.1. Tổng quan về định giá doanh nghiệp. Định giá doanh nghiệp (ĐGDN) hay còn gọi là "Xác định giá trị doanh nghiệp" (XĐGTDN) là việc làm tất yếu trong công cuộc TCT nền kinh tế nói chung, TCT doanh nghiệp (TCTDN) nói riêng để nhằm trợ giúp cho quá trình chuyển đổi cơ cấu về vốn chủ sở hữu, giúp chuẩn bị cho việc phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu (IPO), giúp cải thiện tình hình hoạt động của công ty sau thời gian hoạt động kém hiệu quả. Quá trình ĐGDN sẽ đánh giá một cách khách quan các điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp (DN) giúp công ty đánh giá một cách khách quan hoặc “mở khoá” các cơ hội (tiềm năng) và gia tăng giá trị cổ phiếu cho các cổ đông hiện tại và tương lai. 1.1.1. Khái niệm về định giá doanh nghiệp. 1.1.1.1. Giá trị doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp (GTDN) là biểu hiện bằng tiền về các khoản thu nhập mà doanh nghiệp mang lại cho nhà đầu tư trong quá trình kinh doanh. Để hiểu rõ khái niệm về GTDN ở trên ta xét từ các khía cạnh sau: Thứ nhất: DN là một tổ chức, một đơn vị kinh tế chứ không giống như những “tài sản” thông thường. Nó là một thực thể hoạt động, thông qua sự hoạt động mà người ta nhận dạng ra DN, DN không phải là một tập hợp các loại tài sản vào với nhau. Khi thực hiện phá sản, DN không còn tồn tại với tư cách của một tổ chức kinh doanh nữa. Khi đó, nó chỉ đơn giản là một sự hỗn hợp các loại tài sản đơn lẻ, rời rạc mà người ta có thể thanh lý, phát mãi từng thứ riêng biệt như những hàng hóa thông thường – nó không còn đầy đủ ý nghĩa của một DN. Do vậy, GTDN là một khái niệm chỉ được dùng cho những DN đang còn hoạt động và sẵn sàng hoạt động. Thứ hai: DN là một tổ chức, một đơn vị kinh doanh, nhưng đồng thời cũng là một hàng hóa. Chúng có thể được trao đổi, mua bán như những hàng hóa thông thường khác. Khái niệm “DN” cũng như khái niệm về “giá trị doanh nghiệp” là những khái niệm thuộc phạm trù của kinh tế thị trường. Và vì vậy, quan niệm về giá 2 trị, cũng như các tiêu chuẩn để nhận biết giá trị như đã nêu ở phần trên, hoàn toàn có thể sử dụng được để ĐGDN. Thứ ba: DN là một tổ chức, một đơn vị, một hệ thống và đồng thời cũng là một phần tử trong hệ thống lớn – nền kinh tế. Do đó, sự tồn tại của DN là ở mối quan hệ của nó với các phần tử khác của hệ thống, tức mối quan hệ với các đơn vị, thể nhân và pháp nhân kinh tế khác. Sự tồn tại của DN không chỉ được quyết định bởi các mối quan hệ bên trong DN mà còn bởi mối quan hệ với các yếu tố bên ngoài, như: Khách hàng, người cung cấp, người cho vay… Sự phát triển của DN ở mức độ nào, là tùy thuộc vào mức độ bền chặt của các mối quan hệ đó với môi trường xung quanh, DN có đạt được mục tiêu lợi nhuận của mình hay không sẽ phụ thuộc có tính quyết định ở các mối quan hệ đó, chính vì vậy, sự đánh giá về DN đòi hỏi phải xem xét tất cả các mối quan hệ nói trên. Tức là, đánh giá về DN không chỉ đơn thuần bao gồm nội dung đánh giá về những tài sản trong DN mà điều quan trọng hơn là phải đánh giá nó về mặt tổ chức. Thứ tư: Các nhà đầu tư thành lập ra DN không nhằm vào việc sở hữu các tài sản cố định (TSCĐ), tài sản lưu động (TSLĐ) hay sở hữu một bộ máy kinh doanh năng động mà nhằm vào mục tiêu chủ yếu là tìm kiếm lợi nhuận, tìm kiếm thu nhập. Tiêu chuẩn để họ đánh giá hiệu quả hoạt động – lợi ích của DN đối với các nhà đầu tư ở các khoản thu nhập từ hoạt động SXKD. Vì vậy, tại các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, GTDN được xác định là các khoản thu nhập trong quá trình SXKD, độ lớn của GTDN. Theo đó, được đo bằng lượng thu nhập mà DN có thể mang lại cho các nhà đầu tư. Trong nền kinh tế thị trường, cũng như các hàng hóa khác, sự hoạt động của DN mang lại lợi ích cho nhà đầu tư. DN là một loại tài sản đặc biệt, lại như một cỗ máy sinh lời và có thể hợp nhất, sáp nhập, mua bán, chia tách ……Khi thực hiện các giao dịch này, giá cả và giá trị của loại hàng hóa DN cũng không nằm ngoài các quy luật giá trị, cung cầu và cạnh tranh. Theo từ điển của Oxford thì giá trị được định nghĩa là: : “Thước đo bằng hiện vật hoặc tiền tệ của một vật mà tại đó mới có thể được trao đổ hoặc giao dịch” ¾ Một số khái niệm về GTDN liên quan tới kế toán ĐGDN Giá trị doanh nghiệp theo sổ kế toán: Là tổng giá trị tài sản thể hiện trong 3 Bảng cân đối kế toán của DN theo chuẩn mực kế toán hiện hành. Giá trị thực tế của doanh nghiệp: (giá trị thị trường của DN) là tổng giá trị thực tế của tài sản (hữu hình và vô hình) thuộc quyền sở hữu của DN tính theo giá thị trường tại thời điểm xác định GTDN. Được xác định trên cơ sở kết quả kiểm kê, phân loại và đánh giá xác định giá trị thực tế của toàn bộ tài sản của DN theo giá thị trường tại thời điểm định giá. Giá trị hợp lý: Theo IFRS 13, "giá trị hợp lý là giá có thể nhận được khi bán tài sản hoặc phải trả khi chuyển giao một khoản công nợ trong một giao dịch bình thường giữa các bên tham gia thị trường tại ngày xác định giá trị giao dịch." Bản chất của GTHL là một phương pháp bổ sung cho giá gốc và tập trung vào việc định giá sau ghi nhận ban đầu trên cơ sở giá thị trường và các thông tin có được từ thị trường. Giá trị hợp lý còn được sử dụng cho đánh giá ban đầu của tài sản khi không có giá gốc ở một số trường hợp cụ thể. Giá trị hoạt động liên tục: Là giá trị của một DN, hay một lợi ích trong đó được xem xét theo giả thiết DN hoạt động liên tục. Giá trị phần vốn chủ sở hữu tại DN theo sổ kế toán: Là phần còn lại khi lấy GTDN theo sổ kế toán trừ đi các khoản nợ phải trả, số dư quỹ phúc lợi, khen thưởng và số dư nguồn kinh phí sự nghiệp (nếu có). Giá trị thực tế phần vốn chủ sở hữu tại DN: Là phần còn lại khi lấy tổng giá trị thực tế của DN trừ đi các khoản nợ thực tế phải trả và số dư nguồn kinh phí sự nghiệp (Nếu có). Trong đó, nợ thực tế phải trả là tổng giá trị các khoản nợ phải trả của DN trừ (-) các khoản nợ không phải thanh toán. Giá trị của DN để TCT DN: Là giá cả của DN khi được chuyển, bán cho chủ sở hữu khác, nó được xác định trên cơ sở giá trị thị trường và giữa giá trị xác định của DN và giá bán trên thị trường có thể xảy ra các trường hợp sau: - Giá trị của DN trên thị trường bằng với giá trị xác định. Điều này chứng tỏ DN được người đầu tư chấp nhận về mọi mặt vì DN phản ánh được mức độ đáp ứng của mình về mọi mặt trên thị trường. Đây là một trường hợp lý tưởng nhất đối với một DN khi định giá (điều này lại khó xảy ra trong thực tế). - Giá trị của DN trên thị trường lớn hơn giá trị xác định. Điều này chứng tỏ giá trị vô hình của DN lớn, có nhiều triển vọng trong tương lai, khả năng sinh lời cao nên 4 được nhiều nhà đầu tư quan tâm. Giá trị lợi thế thương mại (theo VAS 11-Lợi thế kinh doanh của DN): Là những lợi ích kinh tế trong tương lai phát sinh từ các tài sản không xác định được và không ghi nhận được một cách riêng biệt. - Theo IFRS 3 giá trị về lợi thế thương mại (Goodwill) thu được hoặc giảm trừ được yêu cầu ghi nhận kết quả lợi thế thương mại từ giao dịch Hợp nhất kinh doanh như là tài sản của bên bị mua. Sau khi ghi nhận ban đầu, lợi thế thương mại sẽ không được thực hiện vốn hóa đối với khoản lợi nhuận hoặc lỗ theo phương pháp đường thẳng hoặc phương pháp cơ bản khác. Nó sẽ ghi nhận bằng giá phí Hợp nhất kinh doanh trừ đi các khoản làm giảm lũy kế. Lợi thế thương mại sẽ được kiểm tra theo như quy định của IAS 36 - sửa chữa tài sản. Mặc dù ghi nhận một tài sản, nhưng lợi thế thương mại không nên được đánh giá lại. Lợi thế thương mại âm được sử dụng để phản ánh phần vượt quá phần tài sản thuần có thể xác định được trong giao dịch Hợp nhất kinh doanh (HNKD) thông qua quá trình chuyển giao và lợi ích không kiểm soát của bên mua. 1.1.1.2. Định giá doanh nghiệp. Định giá là "xác định giá trị bằng tiền tệ cho các đối tượng hoặc sự kiện liên quan đến DN"1. ĐGDN là quá trình xác định thước đo bằng tiền tệ của DN, thông qua định giá, giá trị của các đối tượng kế toán của DN được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ, xác định được giá trị tài sản, nguồn vốn cũng như kết quả hoạt động kinh doanh của DN. Đây là quá trình đánh giá nhằm đưa ra ý kiến về GTDN chứ không phải là việc tính toán các công thức toán học thuần túy, xác định GTDN là công việc chứa đựng nhiều ước tính chủ quan. Trên thực tế sẽ không thể có được một phương pháp định giá duy nhất đúng và có thể áp dụng trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. ĐGDN luôn đòi hỏi phương pháp luận lô-gic và việc vận dụng phù hợp, thận trọng các nguyên lý định giá cơ bản và thông lệ chung. Việc XĐGT và mua bán một DN khác với việc XĐGT và mua bán các hàng hóa thông thường do trong số các yếu tố cấu thành giá trị và giá cả DN có nhiều yếu tố khác với các yếu tố cấu thành giá trị và giá cả các hàng hóa thông thường. GTDN bao gồm cả giá trị tài sản hữu hình và giá trị tài sản vô hình, cụ thể: Giá trị tài sản 1 Eldon S. Hendriksen, Accounting theory, xuất bản lần thứ tư, trang 75 5 hữu hình là giá trị những tài sản có hình thái vật chất do DN nắm giữ để sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh phù hợp với tính chất ghi nhận Bảng cân đối kế toán (BCĐKT) của DN bao gồm giá trị thực tế của DN (toàn bộ tài sản của DN sử dụng cho HĐKD). Là những yếu tố tạo ra lợi nhuận của DN. Nguồn gốc của giá trị tài sản hữu hình là tài sản có tính vật chất của DN nên phần giá trị này có tính ổn định hơn so với phần giá trị tài sản vô hình. Giá trị tài sản vô hình là giá trị các tài sản có tác dụng làm tăng hiệu quả kinh tế trong hoạt động SXKD của DN, do đó làm gia tăng giá trị của DN như trình độ tổ chức quản lý: Trình độ chuyên môn kỹ năng của người lao động tại DN, vị trí địa lý, uy tín, thương hiệu và xu hướng phát triển của DN trong tương lai…Thực tiễn đã chứng minh, giá trị vô hình của DN là một đại lượng có thật, có thể xác định được, trong nhiều trường hợp nó có giá trị lớn, thậm chí lớn hơn rất nhiều so với giá trị hữu hình của DN. Theo số liệu của Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC), năm 1998 khoảng 50-90% giá trị của một công ty tạo ra (tùy thuộc vào từng loại hình công ty) là nhờ vào việc quản trị các tài sản vô hình. Do vậy, các tài sản hữu hình được tạo ra chiếm 10-50% giá trị của công ty. Hay như công ty Microsoft tại thời điểm năm 1996 tổng giá trị của công ty là 86 tỷ USD, trong đó toàn bộ giá trị những tài sản hữu hình (bao gồm bất động sản, máy móc, thiết bị…) chỉ chiếm 1 tỷ USD, phần còn lại 85 tỷ USD là giá trị của những tài sản vô hình (điển hình là bản quyền của phần mềm hệ điều hành Windows). Như vậy, đối với công ty Micrsoft, toàn bộ giá trị của công ty phụ thuộc vào tên tuổi và sự tài giỏi trong việc khai thác và quản trị các tài sản vô hình, hơn là số tài sản hữu hình. Sự chênh lệch này sẽ tiếp tục tăng lên khi nền kinh tế tri thức ngày càng trở thành một thực tế khách quan. Nếu trong những năm 70 của thế kỷ XX tương quan giữa giá trị sổ sách (căn cứ vào Bảng cân đối tài sản) và giá trị thị trường (căn cứ vào giá cổ phiếu) của một công ty là 1/1, thì hiện nay tương quan đó lại là 1/6. Do giá trị tài sản vô hình chịu sự tác động trực tiếp của việc đánh giá trên thị trường nên giá trị tài sản vô hình của DN biến động thường xuyên hơn so với giá trị tài sản hữu hình. Chính vì thế thách thức đặt ra cho các DN là rất lớn nếu các DN không biết xây dựng một chiến lược để phát triển và quản trị tài sản vô hình, xây dựng thương hiệu thì sẽ phải đối mặt với rủi ro lớn trên thương trường. Điều này đã được thực tế của VN trong thời gian gần đây chứng minh rõ nét qua việc xuất khẩu nông sản, thủy sản… 6 Đối với một DN khi XĐDN với bất cứ lý do nào đều được hiểu nếu tại thời điểm đó đem ra bán trên thị trường là việc chuyển giao toàn bộ tài sản hiện có với việc kế thừa các nguồn “nội lực” vốn có của DN, nên mục tiêu trọng tâm của XĐGTDN là XĐGT tương lai của DN mà các bên có quyền lợi đối với DN đều quan tâm (người bán, người mua DN, chủ nợ…). Do vậy, trong nền kinh tế thị trường, việc mua bán DN giữa các nhà đầu tư với nhau được tuân thủ theo quan hệ thị trường, là chịu sự chi phối của các quy luật trên thị trường (quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh…) TS của DN không chỉ được xem xét thuần túy dưới dạng các khối hiện vật hoặc một DN cụ thể mà được giá trị hóa trong thị trường. Để XĐGTDN, xét về mặt nguyên lý, chỉ có thể tồn tại 2 cách tiếp cận, đó là: Trực tiếp đánh giá giá trị của các tài sản trong DN và đánh giá giá trị của yếu tố tổ chức. Hoặc bằng một kỹ thuật nào đó để lượng hóa các khoản thu nhập mà DN có thể mang lại cho nhà đầu tư và về lượng GTDN được đo lường trên hai phương diện: Giá trị thị trường và giá trị kế toán. Vì vậy, một phương pháp XĐGTDN được gọi là cơ bản và khoa học, trước hết nó phải thuộc vào một trong hai cách tiếp cận nói trên. Như vậy: Định giá doanh nghiệp (ĐGDN) chính là gắn cho nó một giá trị mà một nhà đầu tư nào đó mua toàn bộ về mặt lý thuyết. Là giá trị lý thuyết phản ánh một giao dịch mua tiềm năng chứ không phải giá một giao dịch thực. Theo giáo sư W.Seabroke và N.Walker,viện đại học Portsmouth, vương quốc Anh: “Định giá được hiểu là sự ước tính về giá trị của các quyền sở hữu tài sản cụ thể bằng hình thái tiền tệ cho một mục đích đã được xác định rõ”.[38] Còn theo giáo sư Lim Lan Yuan, trường xây dựng và bất động sản, đại học quốc gia Singapore thì: “Định giá được quan niệm là một nghệ thuật hay khoa học về ước tính giá trị cho một mục đích cụ thể của một tài sản tại một thời điểm, có cân nhắc đến tất cả các đặc điểm của tài sản và cũng như xem xét đến tất cả các yếu tố kinh tế căn bản của thị trường bao gồm các loại đầu tư lựa chọn”. Vậy với các quan điểm trên ta có thể hiểu ĐGDN theo hai cách như sau: Thứ nhất, ĐGDN là sự ước tính về giá trị của các quyền sở hữu tài sản cụ thể bằng hình thái tiền tệ cho một mục đích đã được xác định rõ, đó là để đưa DN ra mua bán, hoặc để đầu tư vào DN… 7 Thứ hai, ĐGDN là một nghệ thuật hay khoa học về ước tính giá trị cho một mục đích cụ thể của một DN tại một thời điểm đó là thời điểm định giá, mà có cân nhắc đến tất cả các đặc điểm của DN và cũng như xem xét đến tất cả các yếu tố kinh tế căn bản của thị trường. Quá trình XĐGTDN là tính toán, xác định sự thay đổi về mặt giá trị của DN tại một thời điểm nhất định. Thông thường đây cũng là quá trình ước tính các khoản tiền mà người mua có thể trả để họ có được DN, và ngược lại là sự ước tính khoản tiền thu được của người bán khi bán DN của mình. XĐGTDN là một hoạt động khoa học có tính tổng hợp và khả năng dự đoán cao, vì quá trình XĐGTDN không chỉ căn cứ vào các thông tin hiện có của DN mà còn phải dựa vào các thông tin khác như: Chiến lược phát triển kinh doanh của DN, cung cầu sản phẩm của DN trên thị trường, lợi thế kinh doanh (nếu có), trị giá các tài sản tương đương với tài sản của DN, nhu cầu mua sắm, bán loại hình DN đang định giá... Do đó, XĐGTDN là một quá trình phức tạp, có tính nghệ thuật và chuyên môn cao. Chính vì vậy đòi hỏi các chuyên gia XĐGTDN phải nắm chắc đươc kỹ thuật định giá, hiểu biết và tinh thông về thị trường và ngành nghề đặc biệt là khả năng dự đoán nghiệp vụ giỏi. Ngoài ra còn là cơ sở cho việc quyết định về quản trị kinh doanh, đưa ra các quyết định về đầu tư, tài trợ, quản lý kinh tế vĩ mô. Vì vậy, ĐGDN đem lại rất nhiều lợi ích cho các chủ thể như: Qui trình “Xác định giá trị doanh nghiệp” thể hiện khả năng tổng hợp, đánh giá, phân tích và khớp lại các dữ liệu quá quá khứ và triển vọng phát triển trong tương lai của DN trong một bản báo cáo chính xác và toàn diện và được thể hiện bằng việc xác định các điểm mạnh, điểm yếu và các giá trị cốt lõi của công ty. ĐGDN trở thành một công cụ hữu hiệu giúp công ty hiện thực hoá được cơ hội và gia tăng giá trị cho các cổ đông hoặc nhà đầu tư tương lai. Trong các trường hợp cần thiết, sẽ vạch ra các kế hoạch và các kiến nghị chuẩn bị cho các hoạt động tiền và hậu của Bản cáo bạch (IPO) tại thời điểm XĐGTDN. Qua kết quả của ĐGDN sẽ chỉ ra những thay đổi cần thiết về hệ thống tài chính, cơ cấu thành phần cổ đông hoặc cấu trúc DN bởi qui trình này sẽ tạo ra một diễn đàn mở để công ty có thể thảo luận một cách sâu rộng và xem xét xem những cơ cấu này có đồng nhất và có lợi cho tương lai của công ty hay không? Ngoài ra sẽ hỗ 8 trợ Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc đưa ra những quyết định khó khăn như các hoạt động bán hàng hoặc loại bỏ các hoạt động làm ăn không có lãi hoặc không mang tính mấu chốt, để tập trung vào những hoạt động mang lại giá trị cao và đưa ra những phân tích về hệ thống quản trị và điều hành công ty, đồng thời cung cấp những đánh giá về năng lực đối với một số các vị trí nhân lực chủ chốt. Một dự án “Xác định giá trị doanh nghiệp” toàn diện và thành công sẽ đem lại những hiệu quả tích cực do đội ngũ chuyên gia tư vấn sẽ phát hiện ra những khu vực làm ăn hiệu quả của công ty, từ đó sẽ đưa ra được những giải pháp phát huy tối đa hiệu quả điểm mạnh đó để gia tăng giá trị cho các cổ đông và chủ DN. ĐGDN là quá trình XĐGT thực tế của một DN tại một thời điểm nhất định trên cơ sở thị trường nhằm tạo lập cơ sở để các bên tham gia giao dịch mua bán DN. Đồng thời XĐGTDN là một hoạt động không thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường. Đặc biệt trong quá trình đổi mới và sắp xếp lại DNNN ở Việt Nam, ĐGDN là cơ sở để kế toán căn cứ ghi nhận, xử lý kế toán hoàn thiện quá trình TCTDN. Có thể nói rằng, những khái niệm và quan niệm trên đây về GTDN và ĐGDN là một quan niệm hết sức cơ bản. Nó được coi là phương châm chi phối, xuyên suốt các phương pháp XĐGTDN sau này, là nền tảng cơ sở lý luận đối với tất cả các phương pháp ĐGDN trong nền kinh tế thị trường và là tiền đề cho kế toán ĐGDN. Dưới góc độ của đề tài, tác giả muốn nhấn mạnh việc ĐGDN là tiền đề cho mục đích TCT các DN. 1.1.2. Một số phương pháp định giá doanh nghiệp. Để tiến hành ĐGDN, các DN và tổ chức định giá cần phải sử dụng phương pháp ĐGDN phù hợp với mô hình kinh doanh của DN, việc lựa chọn phương pháp định giá có ảnh hưởng trực tiếp tới GTDN. Trong thực tế hiện nay trên thế giới có rất nhiều phương pháp ĐGDN được áp dụng phổ biến trên thế giới và cũng có thể phù hợp với thực tiễn TCT DNNN ở VN, việc xác định giá trị dựa trên 3 phương pháp, các phương pháp được tổng hợp và nhóm lại thành 3 nhóm phương pháp chính như: - Phương pháp tài sản; Phương pháp thu nhập; Phương pháp thị trường; Trong 3 phương pháp trên thì phương pháp mà các DN sử dụng rộng rãi đó là “Phương pháp thu nhập”. Phương pháp tài sản thường được sử dụng nhằm đánh giá giá trị thay thế tài sản của DN còn phương pháp giá thị trường còn được gọi là 9 phương pháp định giá so sánh. Phương pháp này đánh giá giá trị của DN so với các DN khác hoạt động trong cùng lĩnh vực hoặc nghành nghề kinh doanh. 1.1.2.1. Phương pháp tài sản Theo phương pháp này thì giá trị của một DN bằng tổng các giá trị của từng loại tài sản riêng biệt trừ đi các khoản nợ phải trả của DN đó trên cơ sở xác định giá trị của từng tài sản riêng biệt. Giá trị của một tài sản được xác định trên cơ sở xem xét các chi phí phải bỏ ra để có được một tài sản thay thế tương đương về năng lực sản xuất (Dòng tiền phải chi để mua, sản xuất tài sản). Phương pháp chi phí thường không xem xét điều kiện thị trường nên thường không được sử dụng trong thực tế, ngoại trừ để xác định GTHL của một phần máy móc thiết bị hoặc giá trị các công trình xây dựng cơ bản. Căn cứ để xác định GTDN là các chứng từ, sổ sách kế toán; BCTC của DN những năm gần nhất; báo cáo kiểm kê tài sản, vật tư hàng hóa, tiền vốn và biên bản đối chiếu công nợ… 1.1.2.2. Phương pháp thu nhập Phương pháp thu nhập sử dụng nguyên tắc hoạt động liên tục và đánh giá mức độ thu hồi vốn đầu tư cùng với các rủi ro đầu tư liên quan. Phương pháp thu nhập bao gồm các phương pháp dùng lợi tức tương lai làm cơ sở định giá GTDN. Giá trị, GTHL của một tài sản hay một khoản nợ được xác định bằng cách sử dụng các phương pháp kỹ thuật để quy đổi các khoản tiền trong tương lai về giá trị hiện tại (Dòng tiền vào từ việc khai thác, sử dụng tài sản hoặc dòng tiền ra để thanh toán nợ phải trả). Phương pháp này dựa trên tiền đề rằng một người tham gia thị trường sẵn sàng trả giá trị hiện tại của các lợi ích sẽ thu được của một tài sản trong tương lai. Phương pháp thu nhập được sử dụng phổ biến trên thế giới cụ thể như - Phương pháp dòng tiền chiết khấu (Discounted Cash Flow Method – Viết tắt là phương pháp “DCF”) Đầu tư vào một DN thì nhà đầu tư phải cân nhắc, xem xét và đánh giá hiệu quả hoạt động của DN và dự án đầu tư. Nhà đầu tư phải xem xét, cân nhắc lượng vốn đầu tư phải bỏ ra, thời điểm đầu tư và độ lớn của các khoản thu nhập có thể đạt được trong tương lai từ các khoản đầu tư đó. Trên quan điểm thời giá của tiền tệ và đầu tư là hoạt động bỏ vốn với số lượng lớn, trong một khoảng thời gian dài, nên yếu tố mà 10 người ta không thể bỏ qua là thời điểm phát sinh các dòng tiền đó. Vì thế, giá trị hiện tại của dòng tiền thuần mà việc đầu tư vào DN cả ở thời điểm hiện tại và tương lai đem lại cho nhà đầu tư, được coi là tiêu chuẩn thích hợp để XĐGT DN. DCF là phương pháp mà GTDN được xác định bằng cách hiện tại hóa các luồng tiền thuần DN dự kiến thu được trong tương lai theo một tỷ lệ chiết khấu tương ứng với mức độ rủi ro của DN. Trong đó; - Dòng tiền vào là các khoản thu nhập mà DN có thể mang lại dưới hình thức như: Thu hồi vốn đầu tư (khấu hao) TSCĐ, lợi nhuận thuần hàng năm và các khoản tiền khác DN thu được. Dòng tiền ra là các khoản chỉ đầu tư vào DN, bao gồm các khoản vốn đầu tư và TSCĐ và TSLĐ thường xuyên cho DN. - Phương pháp vốn hóa dòng tiền (Capitalization of Cash Flow Method) Cũng giống như phương pháp chiết khấu dòng tiền, phương pháp vốn hóa dòng tiền XĐGTDN thông qua việc xác định các dòng tiền mà DN có thể mang lại cho CSH trong suốt thời gian tồn tại của DN có tính đến thời giá của tiền tệ, chi phí cơ hội và các rủi ro liên quan. - Phương pháp chiết khấu thu nhập tương lai (Discounted Future Income Method) Trong quá trình SXKD, doanh thu của DN được sử dụng để bù đắp các khoản chi phí đã phát sinh, thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước, phần còn lại là lợi nhuận thuần (còn gọi là lợi nhuận ròng) thuộc về CSH DN. Giá trị của một DN, theo đó sẽ được đo bằng độ lớn của các khoản lợi nhuận thuần mà DN có thể mang lại cho chủ sở hữu trong suốt thời gian tồn tại của DN. Song, trên quan điểm về thời giá của tiền tệ, về chi phí cơ hội, tức là: giá trị của một dòng tiền ở các thời điểm khác nhau sẽ không giống nhau, cho nên người ta thực hiện quy đổi các khoản thu nhập về cùng một thời điểm, đó là thời điểm hiện tại. - Phương pháp vốn hóa thu nhập (Capitalization of Income Method) Cũng như phương pháp chiết khấu thu nhập tương lai, phương pháp vốn hóa thu nhập tương lai XĐGTDN thông qua độ lớn của các khoản lợi nhuận thuần mà DN có thể mang lại cho chủ sở hữu trong suốt thời gian tồn tại của DN có tính đến thời giá của tiền tệ, chi phí cơ hội và các rủi ro liên quan. 11 - Phương pháp định lượng Goodwill (lợi thế thương mại-GW). Cũng giống như phương pháp chiết khấu thu nhập tương lai tuy nhiên phương pháp này có sử dụng đến giá trị tài sản thuần của DN, lợi nhuận thuần các năm thu được dự kiến trong tương lai và tỷ suất lợi nhuận trung bình của tài sản đưa vào sản xuất kinh doanh và giá trị tài sản năm mà DN đưa vào sản xuất kinh doanh. 1.1.2.3. Phương pháp giá trị thị trường. Phương pháp này còn còn được gọi là phương pháp Định giá so sánh. Cơ sở cả phương pháp này là XĐGT của DN thông qua việc giá trị của DN tương đương hoặc DN “có thể so sánh”. Giá trị này thường là mức giá mà DN “có thể so sánh” được bán tại các giao dịch trong thời điểm hiện tại trên cơ sở giá cả thị trường quan sát được và các thông tin về các giao dịch thực tế trên thị trường sẽ được sử dụng để ước tính GTHL của một tài sản, một khoản nợ phải trả. Phương pháp này được dựa trên tiền đề rằng một người tham gia thị trường sẽ không trả nhiều hơn chi phí để mua một tài sản tương tự. Trong các trường hợp này, các nhà định giá dùng mức giá trị thị trường của các chứng khoán đang được giao dịch để XĐGT thị trường của DN tương đương so với DN đang được định giá. Tất nhiên, không thể so sánh một cách tuyệt đối giá trị của các DN này với nhau, đặc biệt là giá trị của các DN niêm yết với nhau, cũng vẫn tồn tại những khác biệt. Các khác biệt này có thể là giá trị tài sản, quy mô hoạt động, doanh thu, xu hướng thu nhập, sản phẩm và kết cấu sản phẩm, nguồn tài chính, địa điểm, cổ tức, số lượng lao động, cán bộ chủ chốt, cơ cấu ban giám đốc, uy tín DN, các hoạt động đầu tư, tỷ trọng vốn CSH. v.v… Giá cả thị trường quan sát được và các thông tin về các giao dịch thực tế trên thị trường sẽ được sử dụng để ước tính GTHL của một tài sản, một khoản nợ phải trả. Phương pháp này được dựa trên tiền đề rằng một người tham gia thị trường sẽ không trả nhiều hơn chi phí để mua một tài sản tương tự. 1.2. Tổng quan về tái cấu trúc doanh nghiệp. Như đã đề cập ở phần 1.1 một trong những mục đích của việc ĐGDN chính là làm lành mạnh hóa những DN yếu kém, thay đổi cơ cấu vốn CHH...quá trình thực hiện cơ cấu lại DN chính là việc tái cấu trúc doanh nghiệp (TCTDN) sao cho làm ăn có hiệu quả hơn. 12 1.2.1. Khái niệm tái cấu trúc doanh nghiệp. Trong thời điểm thị trường khủng hoảng và biến động như hiện nay việc các DN phải có những biện pháp bảo toàn tài sản, nguồn vốn để đứng vững và vượt qua sóng gió là việc làm thực sự cần thiết cho bất cứ DN nào. Việc thực hiện tái cơ cấu thường được cho là giải pháp quan trọng trong các trường hợp DN phải đối mặt với khó khăn có thể đe dọa tới sự tồn tại của DN, đặc biệt trường hợp này thường được đề cập đến khi khủng hoảng kinh tế trên diện rộng. Vậy thế nào là tái cấu trúc DN? Khái niệm này được các học giả Michael Hammer và JamesA. Champy đưa ra lần đầu và phát triển trong cuốn sách Reengineering the Corporation, Reengineering Management. "Tái cấu trúc (Reengineering) là việc xem xét và cấu trúc lại một phần, một số phần hay toàn bộ một tổ chức, một đơn vị nào đó, mà thường là một công ty. Ngoài việc tổ chức cho một công ty về các mảng chức năng (như là sản xuất, kế toán, tiếp thị, v.v...) và xem xét các nhiệm vụ mà mỗi chức năng thực hiện, theo lý thuyết tái cơ cấu, chúng ta còn phải chú ý tới các quy trình hoàn thiện từ khâu tìm kiếm các nguyên liệu, cho tới các khâu sản xuất, tiếp thị và phân phối. Công ty cần được tái cơ cấu qua một loạt các quy trình"(theo http://vi.wikipedia.org) Theo ông Nguyễn Đình Nhơn, Chủ Tịch Công Ty Vinabull phát biểu: "Tái cấu trúc DN là gì? Về bản chất đó chính là việc tiến hành thay đổi DN một phần hay toàn diện, tự làm mới mình cho phù hợp với tình hình hiện tại để nâng cao năng suất kinh doanh, nâng cao tính cạnh tranh để tồn tại và phát triển." [65] Tác giả đồng nhất quan điểm với PGS.TS Vũ Công Ty trình bày trong đề tài NCKH cấp học viện tại Học viện Tài chính cho rằng: "Tái cấu trúc công ty (corporate restructuring) là một thuật ngữ quản trị DN để chỉ hành động tổ chức lại về mặt pháp lý, quyền sở hữu, hoạt động kinh doanh, cơ cấu tài chính, nhân sự hoặc những cơ cấu khác của công ty nhằm xây dựng một cấu trúc phù hợp hơn với nhu cầu thực tiễn, gia tăng năng lực cạnh tranh và cải thiện khả năng sinh lời một cách bền vững" [84] (trang 4) Theo cách hiểu thông thường thì tái cơ cấu chính là việc sắp xếp lại cơ cấu tổ chức của DN, bằng cách xây dựng lại sơ đồ cơ cấu tổ chức, thay đổi các phòng ban chức năng với những tên gọi mới. Có thể đây chỉ là một phần của vấn đề, và nó chỉ phù hợp với những DN hoạt động tương đối ổn định và đang gặp khó khăn về vấn đề 13 tổ chức không hợp lý. Nếu hiểu rộng hơn, tái cơ cấu còn quan tâm đến tính hệ thống và chuyên nghiệp trong phương thức thực hiện công việc, phối hợp công việc và điều hành công việc. Trong điều kiện hội nhập hiện nay, thì việc tái cơ cấu đòi hỏi các DN phải thay đổi tư duy quản lý, cải cách công tác quản lý, tái cơ cấu vốn, TCT lại các quá trình kinh doanh, trên cơ sở đó định hình mô hình và cơ cấu tổ chức phù hợp với điều kiện và định hướng kinh doanh của DN. 1.2.2. Phân loại tái cấu trúc doanh nghiệp. Tái cấu trúc doanh nghiệp gồm nhiều hoạt động đa dạng. Tuy nhiên, nếu phân theo nội dung có thể chi thành ba hướng TCT cơ bản là Tái cấu trúc tài chính (financial restructuring), Tái cấu trúc hoạt động (operating restructuring) và Tái cấu trúc chiến lược (strategic restructuring): - Tái cấu trúc tài chính doanh nghiệp: Là các biện pháp đẩy lùi tình trạng mất khả năng thanh toán đang đe dọa DN và đảm bảo khả năng tồn tại của DN. Với mục tiêu TCT tài chính trung và dài hạn nhằm thiết lập lại cấu trúc vốn vững chắc, lành mạnh cho DN và được thực hiện bằng tái vốn hóa năng động, nhằm cung cấp đủ vốn cổ phần và dòng tiền tài trợ cho sự tăng trưởng trong tương lai. Tái cấu trúc tài chính là điều kiện tiên quyết cho quá trình tái cấu trúc bền vững. - Tái cấu trúc hoạt động doanh nghiệp: Nhằm cải thiện tình hình lợi nhuận và khả năng thanh toán theo chuỗi giá trị đã được xác định với trọng tâm đảm bảo khả năng tồn tại trong ngắn hạn của DN một cách nhanh chóng nhằm gia tăng lượng tiền mặt và cải thiện kết quả kinh doanh. - Tái cấu trúc chiến lược doanh nghiệp: Là việc tái tổ chức các cấu trúc và quy trình phù hợp của các bộ phận trong DN. Cho mục đích trung và dài hạn, một công ty bị ảnh hưởng của khủng hoảng chỉ có thể lấy lại khả năng cạnh tranh nếu giải quyết được các vấn đề nội tại, ngoại trừ những quá trình và bộ phận kinh doanh kém hiệu quả, xác định vị thế của DN trên thị trường cạnh tranh. Với ba hướng TCT chính như đã nêu thì TCT hoạt động và chiến lược của các DN là hoạt động thực hiện trong nội tại DN chính vì vậy GTDN không làm ảnh hưởng tới chất lượng của công việc. Nhưng đối với hoạt động TCT về tài chính về lâu dài sẽ ảnh hưởng và thay đổi nhiều bởi GTDN và công tác kế toán định giá DN tại thời điểm TCT. Như vậy, kế toán định giá DN nhằm phục vụ cho việc thực hiện 14 Tái cấu trúc tài chính DN. 1.2.3. Phương thức thực hiện tái cấu trúc doanh nghiệp. DN là mối quan tâm của ba loại chủ thể: Nhà nước, nhà đầu tư và nhà quản trị DN, TCT DN thường thực hiện theo các phương thức sau: - Cổ phần hóa DN - Sáp nhập, hợp nhất DN. - Giải thể, phá sản DN. (không đề cập sâu trong nghiên cứu) - .... Ngoài ra còn có thể sử dụng phương thức chia tách DN, mua bán nợ, thoái vốn nhằm vực dậy những DN yếu kém... Nhưng với phạm vi của luận án tác giả chỉ tập trung đi sâu vào kế toán ĐGDN khi CPH và sáp nhập, hợp nhất DN. 1.2.2.1. Cổ phần hóa doanh nghiệp. Cổ phần hóa là cách gọi tắt của việc chuyển đổi các DNNN thành công ty cổ phần. Cổ phần hoá DNNN là việc chuyển DNNN thành công ty Cổ phần, tức là chuyển đổi loại hình DN chỉ có một chủ sở hữu là Nhà nước thành loại hình DN có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động và tư nhân tham gia. Cổ phần hoá là kết quả gián tiếp của quá trình cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường hỗn hợp Nhà nước – Tư nhân, là sản phẩm tất yếu của nền sản xuất lớn. sự ra đời trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa nhưng không phải là phạm trù kinh tế riêng của chủ nghĩa Tư bản. Đã có thời kỳ, giai cấp thống trị một số nước Tư bản sử dụng cổ phần hóa (CPH) làm công cụ để điều hoà cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân bằng biện pháp “củ cà rốt”, “sở hữu hoá công nhân trong công ty, xí nghiệp tư bản chủ nghĩa” nhằm ngăn ngừa, hạn chế đình công, bãi công của công nhân. Lịch sử đã chứng minh CPH không phải là sản phẩm riêng của kinh tế tư bản mà là con đẻ của kinh tế thị trường và đã được nhiều nước trên thế giới áp dụng, đem lại nhiều thành công trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế có nhiều thành phần sở hữu. Hiện nay, so với các loại hình DN khác DN là Công ty cổ phần có nhiều lợi thế hơn hẳn. Lợi thế đó xuất phát từ những lợi ích và đặc điểm pháp lí mà pháp luật quy định. Trong mô hình Công ty cổ phần, các cổ đông chịu TNHH trong phần vốn góp, việc chuyển nhượng các phần vốn góp được thực hiện một cách tự do thông qua việc bán cổ phần của các cổ đông. Ngoài ra, Công ty cổ phần là loại hình có cấu trúc 15 vốn và tài chính linh hoạt, cơ chế quản lý tập trung cao do có sự tách biệt vai trò chủ sở hữu với chức năng quản lý. Nhiệm vụ của Kế toán ĐGDN chính là giúp DN XĐGTDN theo giá trị thị trường tại thời điểm CPH thể hiện trong việc thu thập chứng từ, điều chỉnh các bút toán xử lý tài chính lập BCTC sau khi định giá. Từ đó xác định được giá trị vốn của Nhà nước trong DN khi chuyển đổi hình thức sở hữu. Đây chính là cơ sở giá trị ban đầu để DN có một bước chuyển quan trọng trong quá trình phát triển, hội nhập với nền kinh tế trong và ngoài nước. Hình thức thực hiện cổ phần hóa: Để chuyển đổi hình thức sở hữu DN theo phương thức CPH trên thị trường có rất nhiều hình thức chuyển đổi khác nhau, tuy nhiên thực tế các đơn vị thường áp dụng với mục đích: (1). Giữ nguyên vốn hiện có tại DN, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn. (2). Bán một phần vốn hiện có tại DN. (3). Bán toàn bộ vốn hiện có tại DN. (4). Thực hiện các hình thức 2 hoặc 3 kết hợp với phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn. 1.2.2.2. Sáp nhập và hợp nhất doanh nghiêp: Sáp nhập doanh nghiệp là một phần tất yếu của bất cứ nền kinh tế lành mạnh nào và là một công cụ hiệu quả để tái cơ cấu DN. Quan trọng hơn, đó là cách thức chủ yếu để các DN cơ cấu lại, mở rộng và phát triển hoạt động kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh của mình và đem lại thu nhập cho chủ sở hữu và các nhà đầu tư. Nguyên tắc là tạo ra giá trị cho cổ đông bao trùm và lớn hơn tổng giá trị hiện tại của hai DN khi hai DN tồn tại riêng rẽ. Thuật ngữ “Sáp nhập doanh nghiệp” (SNDN) xuất hiện trong khá nhiều tài liệu trong nước và quốc tế. Trong lý luận kinh tế chính trị, C.Mác đưa ra một khái niệm rộng hơn có liên hệ với sáp nhập trong kinh tế, đó là tập trung tư bản. Tập trung tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt có sẵn trong xã hội thành một tư bản cá biệt khác lớn hơn. Cạnh tranh và tín dụng là những đòn bẩy mạnh nhất thúc đẩy tập trung tư bản. Do cạnh tranh mà dẫn tới sự liên kết tự nguyện hay sáp nhập của các tư bản cá biệt... Như vậy, sáp nhập là một dạng của tập trung tư bản. 16 Sáp nhập diễn ra khi một DN nhập vào một DN khác và chấm dứt sự tồn tại của mình, trên thực tế về mặt pháp lý có một bên bị sở hữu và một bên được sở hữu. Nhìn rộng ra, hợp nhất doanh nghiệp (HNDN) là một dạng đặc biệt của của sáp nhập. Hiện nay trên thế giới, người ta thường nhắc đến thuật ngữ M&A (sáp nhập và mua bán DN). Mặc dù chúng thường được đề cập cùng nhau nhưng vẫn có sự khác biệt về bản chất, mua bán DN là một quá trình trong đó cổ phiếu hoặc tài sản của một bên sẽ được chuyển giao và thuộc sở hữu của bên mua thực hiện thông qua đấu thầu rộng rãi để mua trực tiếp cổ phiếu từ các cổ đông của bên bán. Điểm khác biệt giữa sáp nhập và mua bán DN là: Mua bán DN là một thuật ngữ chung để mô tả cách thức chuyển quyền sở hữu. Sáp nhập lại là một thuật ngữ có nghĩa hẹp hơn, một thuật ngữ kỹ thuật để mô tả một quy trình pháp lý đặc biệt có thể hoặc không tiếp diễn thông qua mua bán DN. Ngoài ra, có một dạng sáp nhập rút gọn, nghĩa là việc chuyển nhượng hầu hết hoặc toàn bộ cổ phiếu của một bên sang bên mua có thể được thực hiện mà không cần biểu quyết cổ đông. Trừ dạng sáp nhập rút gọn kể trên, tất cả các dạng sáp nhập đều yêu cầu phải có biểu quyết nhất trí của cổ đông hai bên; tuy nhiên việc bán hầu hết hoặc toàn bộ tài sản của bên bán thì chỉ yêu cầu biểu quyết nhất trí của bên bán đó mà không nhất thiết cần biểu quyết của cổ đông bên mua. Từ những phân tích trên đây có thể rút ra được khái niệm của SNDN như sau: SNDN theo nghĩa hẹp là giao dịch trong đó một hoặc một số DN từ bỏ pháp nhân của mình để gia nhập vào một DN khác. DN nhận sáp nhập sẽ tiếp nhận toàn bộ tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp và nghĩa vụ của DN bị sáp nhập. Sau khi việc sáp nhập hoàn thành DN bị sáp nhập sẽ chấm dứt sự tồn tại của mình. Sáp nhập theo nghĩa rộng bao gồm cả việc hai hoặc nhiều DN chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một DN mới, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các DN trước sáp nhập (sáp nhập theo nghĩa rộng bao gồm cả hợp nhất) Như vậy, tái cấu trúc doanh nghiệp (TCTDN) mà cụ thể là việc CPH, sáp nhập, hợp nhất...DN là việc chuyển đổi hình thức sở hữu DN bằng việc cơ cấu lại DN cho phù hợp với quy mô cũng như sự phát triển của DN. Sau khi được cấp đăng ký kinh doanh, DN bị chuyển đổi chấm dứt tồn tại, DN chuyển đổi, (DN mới) được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị chuyển đổi. 17 1.3. Kế toán định giá doanh nghiệp khi tái cấu trúc doanh nghiệp. Kế toán được hình thành từ những quan sát, đo lường của con người đối với kết quả lao động của họ. Sản xuất xã hội phát triển kéo theo sự phát triển của kế toán, trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, kế toán được phát triển thành một khoa học. Hiện nay, chưa có một khái niệm cơ bản cho Kế toán ĐGDN. Nhưng nếu nghiên cứu từ góc độ của khái niệm về kế toán nguồn gốc của kế toán theo tác giả thì: Kế toán ĐGDN khi tiến hành TCTDN có thể hiểu là việc thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính dưới hình thức giá trị, hiện vật và thời gian lao động của DN khi chuyển đổi cơ cấu sở hữu tại thời điểm trước, trong và sau khi ĐGTDN. 1.3.1. Các nhân tố ảnh hưởng tới kế toán ĐGDN khi TCTDN. Qua sự phân tích về định nghĩa GTDN ở trên cho chúng ta có cách nhìn về mặt định tính của GTDN. Tuy nhiên, nội dung cơ bản của vấn đề là ở mặt định lượng, cũng như mọi phương pháp định lượng các yếu tố kinh tế khác, để ĐGDN người ta phải bắt đầu từ chỗ xác định các yếu tố tác động đến nó để từ đó có thể thực hiện công tác Kế toán ĐGDN. Chất lượng của việc TCT các DN có đạt kết quả tốt, đúng thời gian phần nào phụ thuộc nhiều vào công tác kế toán ĐGDN. Tức là phụ thuộc vào tất cả các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp, gián tiếp đến chất lượng công việc. 1.3.1.1. Các nhân tố thuộc về môi trường kinh doanh Có thể khẳng đinh rằng: GTDN và kế toán ĐGDN chỉ được đánh giá và thực hiện trong một môi trường kinh doanh nhất định. Các yếu tố này tồn tại một cách khách quan và thông thường nằm ngoài tầm kiểm soát của DN. Để tồn tại và phát triển, DN phải thích nghi được với môi trường. Môi trường kinh doanh được chia làm hai loại: môi trường KD tổng quát và môi trường kinh doanh đặc thù. ¾ Môi trường kinh doanh tổng quát. Thuộc về môi trường kinh doanh tổng quát có: Môi trường kinh tế, môi trường chính trị-pháp luật, môi trường văn hóa-xã hội, môi trường tự nhiên, môi trường kỹ thuật và môi trường dân số…. Đây là những yếu tố làm ảnh hưởng tới công việc kế toán ĐGDN. Môi trường kinh tế: Trong môi trường này DN luôn luôn tồn tại và được thể hiện qua hàng loạt các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như tốc độ tăng trưởng kinh tế, chỉ số 18 giá cả, lạm phát, lãi suất, tỷ giá ngoại hối, tỷ suất đầu tư, các chỉ số trên thị trường chứng khoán v.v…Tuy môi trường kinh tế tồn tại một cách khách quan ngoài tầm kiểm soát của DN và GTDN nhưng những chỉ tiêu của nó lại có tác động trực tiếp tới hoạt động của DN và GTDN khi xử lý, đánh giá ghi nhận các chỉ tiêu tiền, nợ phải thu, phải trả...Mặt khác, khi nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, các chỉ số giá cả, lạm phát, ngoại hối ổn định, chỉ số chứng khoán tăng trưởng ổn định, vững chắc, các DN sẽ có cơ hội tốt để đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả hoạt động và giá trị của mình và ngược lại, kết quả KTĐG cũng ảnh hưởng tương ứng theo giá trị này. Môi trường chính trị - luật pháp: Sản xuất kinh doanh chỉ có thể ổn định và phát triển trong một môi trường có sự ổn định về chính trị ở một mức độ nhất định. Và hơn thế nữa, quan điểm của Chính phủ trong xu thế chính trị mới với những quy định chính sách tác động trực tiếp gián tiếp tới những vận hội và khả năng cho sự phát triển của SXKD của DN ở thị trường trong nước cũng như quốc tế. Luật pháp là khung hành lang cho việc thực hiện trong một khuôn khổ nhất định, theo mục đích của người xây dựng luật (gắn với hệ thống chính trị của quốc gia đó), sự thay đổi của luật pháp gắn tới công việc nào cũng sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến kết quả thực hiện của công việc đó. Trong công tác kế toán cũng vậy, những quy định trực tiếp, gián tiếp của luật pháp sẽ làm ảnh hưởng tới môi trường đầu tư của các DN nói chung, tới GTDN nói riêng. Cụ thể những quy định của Chính phủ, của ngành cũng là những yếu tố ảnh hưởng và làm tác động trực tiếp tới công tác KTĐGDN vì khi có sự thay đổi về những quy định của Chính phủ liên quan về những vấn đề tài chính, về TCTDN làm ảnh hưởng nhiều tới kết quả của KTĐGDN. Môi trường văn hóa – Xã hội: Môi trường này đại diện cho các giá trị về văn hóa, hệ tư tưởng, dân trí cũng như mức sống của cộng đồng dân cư. Trên phương diện xã hội, DN ra đời là để đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao trong đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng. Văn hóa - xã hội phát triển khiến đời sống con dân sinh cũng phát triển, DN phát triển hơn trong kinh doanh GTDN cũng vì thế cũng được đánh giá cao hơn. Cách ứng xử đẹp, ý thức tốt của mỗi cá nhân trong DN trong một xã hội văn minh có trách 19 nhiệm cũng là những tài sản vô giá cũng môi trường văn hóa DN. Vì vậy khi ĐGDN, không thể bỏ qua các yếu tố của môi trường văn hóa – xã hội. Môi trường văn hóa - xã hội lành mạnh kéo theo ý thức của con người đối với công việc, ý thức tốt thì việc thực hiện công tác kế toán tại DN cũng đem lại hiệu quả và chất lượng hơn trong bảo quản tài sản, ghi nhận và lưu trữ sổ sách, chứng từ...tổ chức công tác kế toán cũng sẽ khoa học hơn, chất lượng công tác kế toán cũng vì thế đảm bảo hơn. Kết quả công việc của những con người có ý thức sẽ là những tài liệu quan trọng trong việc cung cấp thông tin và sử dụng thông tin đó vào việc thực hiện công tác kế toán ĐGDN. Vì công việc kế toán thời điểm định giá rất phức tạp, nhiều phát sinh nên một môi trường văn hóa-xã hội không lành mạnh ý thức của người thực hiện không tốt dẫn tới chất lượng tổng hợp của KTĐG sẽ không thể đảm bảo. Môi trường kỹ thuật – công nghệ: Sự tiến bộ của kỹ thuật – công nghệ làm thay đổi cơ bản các điều kiện về quy trình và phương thức tổ chức công tác kế toán trong các DN. Cùng với sự phát triển vũ bão của kỹ thuật – công nghệ, cũng như trên đã phân tích vì khối lượng công việc nhiều và rất phức tạp nếu chỉ dùng sức lao động của con người thì công việc kế toán sẽ chậm trễ và không chính xác. Nếu công tác kế toán được thực hiện bằng các phần mềm kế toán hiện đại sẽ giúp giảm tải công tác kế toán chất lượng của kế toán định giá cũng sẽ đạt kết quả tốt hơn, đảm bảo và rút ngắn được thời gian thực hiện. ¾ Môi trường đặc thù: So với môi trường tổng quát, môi trường đặc thù bao gồm các yếu tố có tác động trực tiếp hơn đến DN. Ngoài ra, DN còn có thể kiểm soát được các yếu tố này trong một chừng mực nhất định. Đó là các yếu tố về môi trường tự nhiên, khách hàng, nhà cung cấp, các hãng cạnh tranh, các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan. Môi trường tự nhiên: Nước ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, lượng mưa hàng năm rất lớn, độ ẩm cao. Nhiều DN địa bàn kinh doanh rộng, có thể có ở những địa bàn khác nhau, giao thông cách trở...Giá trị tài sản tại mỗi địa bàn cũng có thể chất lượng khác nhau. Đây là một nhân tố ảnh hường nhiều tới công tác kiểm kê đánh giá tài sản của đơn vị định giá, sẽ làm ảnh hưởng tới chất lượng và thời gian thực hiện công tác kiểm kê, đánh giá tài sản cố định, hàng tồn kho. 20 Quan hệ DN với khách hàng: Trong điều kiện hiện nay, khách hàng của DN có thể là các cá nhân, các DN khác hoặc Nhà nước. Khách hàng tiềm năng, năng lực có sẽ giúp cho DN tránh được nhiều rủi ro trong kinh doanh. Tránh thất thoát vốn Nhà nước trong việc thu nợ, để tránh được rủi ro này thì việc thu thập chứng từ, đối chiếu công nợ phải thu thường xuyên, đánh giá đúng khả năng của khách hàng sẽ giúp cho công việc của kế toán định giá sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Quan hệ DN với nhà cung cấp: Các DN thường sử dụng và tiêu thụ sản phẩm. hàng hóa và các dịch vụ từ các nhà cung cấp. Nếu nhà cung cấp ổn định thường xuyên sẽ giúp cho quá trình sản xuất kinh doanh (SXKD) của DN được tốt hơn. Giúp cho việc XĐGTDN thuận lợi hơn. Việc đối chiếu công nợ thuận lợi phần nào cũng có sự góp sức của các chủ nợ Tính ổn định và kịp thời của nguồn cung cấp có ý nghĩa quan trọng, đảm bảo thực hiện thành công kế hoạch sản xuất và tiêu thụ hàng hóa của DN sau này. Các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan: Trong cơ chế thị trường, DN nói chung được quyền chủ động hoàn toàn trong SXKD. Tuy nhiên, sự hoạt động của DN luôn phải được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan Nhà nước như: Cơ quan thuế, cơ quan thanh tra, các tổ chức công đoàn…,Các tổ chức này có bổn phận kiểm tra, giám sát, đảm bảo cho sự hoạt động của DN đảm bảo tuân thủ các Luật thuế, Luật môi trường, Luật cạnh tranh, Luật lao động… Ngoài ra các quy định của Chính phủ của ngành là yếu tố ảnh hưởng rất lớn tới công tác kế toán ĐGDN như: Những quy định liên quan đến CPH, về ĐGDN về kế toán ĐGDN... 1.3.1.2. Các yếu tố thuộc về nội tại doanh nghiệp. Các yếu tố thuộc về nội tại DN là yếu tố ảnh hưởng trưc tiếp và là yếu tố ảnh hưởng chính tới công tác kế toán ĐGDN. ¾ Hiện trạng tài sản trong doanh nghiệp. Mối quan tâm đầu tiên khi XĐGTDN đó là hiện trạng tài sản của DN. Điều này được thể hiện cụ thể vào hai vấn đề cơ bản như: Thứ nhất: Tài sản của một DN được biểu hiện tà yếu tố vật chất cần thiết, tối
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất