VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐỖ THỊ NHUNG
HÁT XOAN PHÚ THỌ
TRONG BỐI CẢNH DI SẢN HÓA Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
HÀ NỘI - 2022
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐỖ THỊ NHUNG
HÁT XOAN PHÚ THỌ
TRONG BỐI CẢNH DI SẢN HÓA Ở VIỆT NAM
Ngành: Văn hóa học
Mã số: 9.22.90.40
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Lê Hồng Lý
HÀ NỘI - 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận án Tiến sỹ này là kết quả nghiên cứu của riêng
tôi dưới sự hướng dẫn của người hướng dẫn khoa học, chưa từng được công bố
trong các công trình nghiên cứu nào khác. Kết quả nghiên cứu của các nhà
nghiên cứu đi trước đã được tác giả tiếp thu chân thực, cẩn trọng trong luận án.
Tác giả luận án
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ
LUẬN VÀ ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU ........................................................ 10
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu................................................................ 10
1.1.1. Những nghiên cứu về di sản hóa và tính chính trị của di sản ............ 10
1.1.2. Những nghiên cứu về Hát Xoan và di sản hóa Hát Xoan................. 17
1.2. Khái quát chung về Hát Xoan .................................................................... 21
1.2.1. Hát Xoan: những vấn đề về thể loại và nguồn gốc............................ 21
1.2.2. Tổ chức, lệ tục Hát Xoan ................................................................... 29
1.2.3. Diễn xướng Hát Xoan ........................................................................ 34
1.3. Cơ sở lý luận ................................................................................................ 38
1.3.1. Các khái niệm công cụ dùng trong luận án ....................................... 38
1.3.2. Nghiên cứu Hát Xoan trong bối cảnh di sản hóa ............................... 42
Tiểu kết Chƣơng 1 .............................................................................................. 47
Chƣơng 2: BỐI CẢNH DI SẢN HÓA Ở VIỆT NAM VÀ QUÁ TRÌNH
GHI DANH DI SẢN HÁT XOAN PHÚ THỌ ................................................. 48
2.1. Bối cảnh di sản hóa ở Việt Nam ................................................................. 48
2.1.1. Bối cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa ................................................... 48
2.1.2. Bối cảnh văn hóa, chính trị và những tác động đến thực hành
Hát Xoan ...................................................................................................... 58
2.2. Quá trình ghi danh di sản Hát Xoan ......................................................... 64
2.2.1. Quá trình lựa chọn Hát Xoan ............................................................. 64
2.2.2. Quá trình xây dựng hồ sơ di sản Hát Xoan ....................................... 69
2.3. Di sản hóa Hát Xoan trong quá trình ghi danh di sản ............................ 76
2.3.1. Lập hồ sơ di sản và quá trình mở rộng quyền sở hữu........................ 76
2.3.2. Chọn lọc các yếu tố để có một hồ sơ di sản "có tính truyền
thống và có tính xác thực" ........................................................................... 78
Tiểu kết Chƣơng 2 .............................................................................................. 80
Chương 3: DIỆN MẠO HÁT XOAN PHÚ THỌ SAU GHI DANH DI SẢN....... 81
3.1. Hoạt động kiểm kê, sƣu tầm, sáng tác, ký âm bài bản Xoan .................. 81
3.1.1. Hoạt động kiểm kê tư liệu Hát Xoan ................................................. 82
3.1.2. Hoạt động sưu tầm và ký âm Xoan ................................................... 84
3.1.3. Đặt lời mới và sáng tác dựa trên ngữ liệu Xoan cổ ........................... 89
3.2. Hoạt động trình diễn và truyền dạy Hát Xoan hậu ghi danh di sản ...... 90
3.2.1. Những không gian Xoan sau ghi danh .............................................. 91
3.2.2. Thực hành và truyền dạy Hát Xoan sau ghi danh tại các làng
Xoan cổ ........................................................................................................ 94
3.2.3. Thực hành và truyền dạy Hát Xoan tại các CLB Hát Xoan và
dân ca Phú Thọ .......................................................................................... 100
3.2.4. Thực hành và truyền dạy Hát Xoan tại công sở, trường học ........... 106
3.2.5. Thực hành và trình diễn Hát Xoan trong quảng bá du lịch và
văn hóa ....................................................................................................... 119
Tiểu kết chƣơng 3 ............................................................................................. 122
Chƣơng 4: DI SẢN HÓA HÁT XOAN: NHỮNG VẤN ĐỀ BÀN LUẬN... 123
4.1. Hát Xoan và nguy cơ nhất thể hóa bài bản Xoan, xu hƣớng bảo tồn
bảo tàng hóa và vai trò, nhu cầu của cộng đồng chủ .................................... 123
4.2. Hát Xoan: củng cố ý thức bảo vệ di sản hay một hình thức phổ
quát hóa di sản .................................................................................................. 135
4.3. Giữ gìn, bảo vệ Hát Xoan và đời sống riêng của di sản ......................... 138
4.4. Di sản Hát Xoan và sự định giá di sản .................................................... 141
4.5. Di sản hóa Hát Xoan và các hình thức khác nhau của di sản ............... 144
Tiểu kết Chƣơng 4 ............................................................................................ 147
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ .................... 154
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 155
PHỤ LỤC
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
Chữ viết tắt
Chữ viết đầy đủ
CLB
Câu lạc bộ
DSVHPVT
DSVHPVT
GD&ĐT
Giáo dục và Đào tạo
VHTT&DL
Văn hóa, Thể thao và Du lịch
UBND
Ủy ban nhân dân
UNESCO
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lần đến gặp các nghệ nhân Hát Xoan tại một phường Xoan cổ, tôi
rất ngạc nhiên khi thấy sau lúc tập luyện, các nghệ nhân ngồi bên nhau và hát
những bài do họ tự đặt lời, hân hoan tán thưởng những lời hát mới. Thấy sự hào
hứng của tôi, nghệ nhân Thái1 ngẫu hứng hát thêm vài lời mới trên điệu Xoan cổ,
không quên nói thêm rằng, bà và mọi người ở đây đang "hát trộm ông Sở", vì
ông ấy biết thì sẽ không cho hát như thế. Các nghệ nhân còn cho biết thêm rằng,
có những quy định rất cụ thể trong việc nghệ nhân phải trình diễn các bài bản
Hát Xoan nào, mặc loại trang phục ra sao, nghệ nhân tham gia biểu diễn cần
được sự đồng ý cho phép của các ban ngành văn hóa,… Mấy người ngồi đó chia
sẻ thêm, bộ quần áo theo thiết kế mới họ "thấy không đẹp như bộ cũ", và họ rất
thích nghe và tự đặt lời mới cho Xoan, chẳng hạn để nói về chuyện bầu cử,
chuyện Covid-19,… nhưng không dám hát ở đâu cả, lúc truyền dạy ở trường
học, công sở hay khi biểu diễn đều phải theo đúng 31 bài bản đã được "ông"
UNESCO ghi danh. "Có lúc trời rét cũng phải bỏ giầy múa ra đi chân đất" để
theo đúng yêu cầu biểu diễn, vì "Hát Xoan là của người nông dân, nên nó phải
mộc mạc thế mới là Xoan".
Những gì chứng kiến đã khiến tôi đặt ra nhiều câu hỏi. Hát Xoan được
UNESCO ghi danh di sản, nhưng di sản này là của ai? Ai là người có thẩm
quyển quyết định Hát Xoan nên được thực hành bởi ai, ở đâu, như thế nào, theo
cách thức nào? Việc để những người thực hành Hát Xoan, cũng là "người mang
di sản"2, phải bày tỏ nguyện vọng của họ về một cách thức Hát Xoan theo ý
muốn như vậy liệu có đúng với tinh thần bảo vệ và phát huy di sản vẫn được cả
UNESCO và các cơ quan, tổ chức tại địa phương đã cam kết? Những bài bản hát
Xoan vốn luôn được xem là cổ, và luôn được thực hành trong sự giám sát
nghiêm ngặt của các cơ quan hành chính thực sự xuất hiện khi nào, khi quá trình
1
2
Tên của các thông tín viên đều được tác giả luận án thay đổi để đảm bảo nguyên tắc ẩn danh.
Cụm từ do UNESCO sử dụng trong Công ước 2003.
1
làm hồ sơ, sưu tầm các bài bản để phục vụ công tác ghi danh di sản mới chỉ được
thực hiện vào những năm đầu thế kỉ XX, dựa trên nhiều tư liệu điền dã trước đó
của các nhà nghiên cứu trong các đợt 19541, 1971-19732, 1978, 1998 - 20063?
Những thực hành Hát Xoan đã và đang diễn ra trên diện rộng tại Phú Thọ, xuất
hiện tại công sở, trường học, trong hầu khắp các hoạt động văn hóa, nghệ thuật
của tỉnh, tham gia vào nhiều khía cạnh đời sống cả về văn hóa lẫn kinh tế, xã hội
khơi gợi gì đến vấn đề về tính chính trị của di sản, điều đã được nói tới trong
nhiều nghiên cứu đi trước của Salemink (2001, 2012, 2014), Lê Hồng Lý và các
cộng sự (2014), Meeker (2019),…
Bảo vệ và phát huy văn hóa truyền thống của dân tộc là một trong
những vấn đề đang được những người làm công tác văn hóa, những nhà quản lý
và hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta quan tâm và trăn
trở. Tính đến năm 2017, Việt Nam đã có gần 10.000 di tích văn hóa cấp tỉnh,
thành phố; 3.463 di tích cấp quốc gia; 95 di tích quốc gia đặc biệt; 249
DSVHPVT được đưa vào danh mục DSVHPVT quốc gia. Trong số các di sản
đó, UNESCO (Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của Liên hợp quốc) đã
ghi danh 8 Di sản văn hóa và Thiên nhiên thế giới; 14 DSVHPVT4. Con số các
di sản vừa là niềm tự hào của Việt Nam, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều
thách thức trong công tác bảo vệ, phát huy di sản.
Từ việc nhìn nhận lại về vai trò của văn hóa với phát triển trong thế kỉ
XX, đặc biệt là từ những động thái của UNESCO trong việc bảo vệ các di sản
(mà nổi bật là di sản phi vật thể) của nhân loại đã kéo theo những thay đổi trong
1
Năm 1954, nhiều cán bộ ngành văn hóa phát hiện ra Hát Xoan lần đầu tiên và tiến hành giới thiệu, sưu tầm,
chỉnh lý, đưa vào sáng tác ca nhạc, biên soạn hoạt cảnh cho tiết mục của các đoàn văn công.
2
Tác giả Nguyễn Khắc Xương sưu tầm 13 quả cách hát thờ phường Phù Đức (1971-1973), 13 quả cách hát
thờ phường An Thái (1971, 1973 và 1978).
3
Từ 1998 đến 2006 là giai đoạn phục hồi các phường Xoan thành các Câu lạc bộ Xoan Kim Đức, An Thái,
rồi tổ chức lại là 4 phường Xoan An Thái, Phù Đức, Kim Đái, Thét.
4
Nhã nhạc - Nhạc Cung đình Triều Nguyễn; Không gian văn hoá Cồng chiêng Tây Nguyên; Dân ca Quan họ
Bắc Ninh; Hát Ca Trù; Hội Gióng ở Đền Phù Đổng và Đền Sóc; Hát Xoan Phú Thọ; Tín ngưỡng Thờ cúng
Hùng Vương ở Phú Thọ; Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ; Dân ca Ví, Dặm ở Nghệ Tĩnh; Nghi lễ và trò
chơi Kéo co; Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ của người Việt; Nghệ thuật Bài Chòi ở Trung Bộ; Thực hành
Then của người Tày, Nùng, Thái, Nghệ thuật Xòe Thái.
2
nhận thức chung về văn hóa, về di sản và quá trình bảo tồn, phát huy di sản.
Ngoài những Công ước và tôn chỉ hành động của UNESCO (Công ước 1972,
Công ước 2003), những tổ chức, hiệp hội, các nhà nghiên cứu, hoạch định và
quản lý văn hóa cũng đã có nhiều những bàn luận xung quanh vấn đề di sản.
Những tranh luận nổi bật nhất xoay quanh vấn đề nhận thức về di sản và giá trị
di sản, tính nguyên gốc của di sản và đánh giá vai trò của di sản văn hóa với
tương lai. Di sản văn hóa được nhìn nhận như một quá trình tiếp tục sáng tạo văn
hóa trong bối cảnh hiện tại, được tạo ra bởi những cảm nhận về các giá trị của
quá khứ và trong những mối bận tâm của thực tại và tương lai.
Những nhận thức về di sản văn hóa có một ý nghĩa quyết định đến công
tác sưu tầm, bảo tồn, quản lý và phát huy di sản, tác động mạnh mẽ đến các thực
hành di sản. Quan sát quá trình tác động và thay đổi đó từ các thực hành cụ thể,
các nhà nghiên cứu đặt ra vấn đề mang tính lý thuyết: di sản hóa (heritagization),
trong đó di sản được coi là một động từ hơn là một danh từ, và di sản hóa được
xem như một thực hành văn hóa (Harvey 2008). Trên thực tế, khi được gắn cho
những danh hiệu khác nhau (di sản cấp tỉnh – cấp quốc gia – cấp quốc gia đặc
biệt – cấp thế giới), di sản không còn tồn tại như nó vốn có. Di sản, khi được
nhiều bên biết tới, đồng nghĩa với những cách thức thực hành văn hóa truyền
thống (trước khi được ghi danh) chịu sự tác động, biến đổi theo một tiêu chí hay
những định hướng phù hợp với quan điểm duy trì và bảo tồn mà các cơ quan
quản lý đưa ra. Quá trình di sản hóa, với việc lựa chọn di sản nào sẽ được ghi
danh và quá trình di sản tồn tại hậu ghi danh ở Việt Nam hiện đang đặt ra rất
nhiều vấn đề có ý nghĩa thiết thân đến sự tồn tại của chính di sản; và rất cần
những nghiên cứu cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn để có thể tìm ra những cách
thức duy trì và bảo tồn phù hợp nhất, mang lại sức sống lâu bền cho di sản.
Hát Xoan Phú Thọ là di sản văn hóa thuộc loại hình dân ca nghi lễ phong
tục, có lịch sử hình thành và quá trình tồn tại gắn liền với tín ngưỡng thờ cúng
Hùng Vương của cư dân Việt nơi này. Hát Xoan được Tổ chức Giáo dục, Khoa
3
học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) ghi danh DSVHPVT cần được
bảo vệ khẩn cấp vào 24/11/2011; và đến 8/12/2017, Hát Xoan được đưa ra khỏi
danh sách DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp để chuyển sang ghi danh trong danh
sách DSVHPVT đại diện của nhân loại. Kết quả điều tra năm 2010 cho thấy, Hát
Xoan gắn với 30 cửa đình, đền tại Phú Thọ và Vĩnh Phúc, trong đó đa số là các di
tích thờ các vua Hùng và các nhân vật thời Hùng Vương. Trong số đó, chỉ có 4 làng
được xem là có họ Xoan cổ là An Thái, Thét, Phù Đức và Kim Đái (trước cách
mạng thuộc tổng Phượng Lâu huyện Phù Ninh, này đều thuộc thành phố Việt Trì)1.
Các làng Xoan gốc này thuộc vùng sơn phận núi Hùng, cũng là những nơi hiện còn
lưu giữ được 31 bài bản Hát Xoan cổ.
Từ khi được công nhận đến nay, diện mạo của Hát Xoan đã có nhiều thay
đổi. Việc ghi danh di sản đã tác động mạnh đến những chính sách và thực hành
Hát Xoan, đồng thời kéo theo những chiều cạnh phức tạp trong mối quan hệ giữa
cộng đồng chủ thể, nhà nước và di sản. Lựa chọn đề tài Hát Xoan Phú Thọ
trong bối cảnh di sản hóa ở Việt Nam, luận án mong muốn làm rõ quá trình di
sản hóa Hát Xoan ở Phú Thọ như thế nào, đồng thời góp phần bàn luận về sự tồn
tại của di sản trong bối cảnh xã hội Việt Nam đương đại.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án nghiên cứu về diện mạo của Hát Xoan Phú Thọ sau khi được
UNESCO ghi danh qua hai giai đoạn, từ 24/11/2011, trong danh mục DSVHPVT
cần bảo vệ khẩn cấp, và giai đoạn hai, từ 8/12/2017, Hát Xoan được UNESCO đưa
ra khỏi danh sách DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp và ghi danh tại Danh sách
DSVHPVT đại diện của nhân loại. Luận án chú trọng nghiên cứu các vấn đề từ thực
hành bài bản Xoan, sưu tầm, ký âm, truyền dạy, công tác nghệ nhân,…, đến cách
Hát Xoan tham gia trong các chương trình, hoạt động văn hóa, tín ngưỡng, kinh tế,
giáo dục, du lịch trong và ngoài địa bàn tỉnh để có thể hiểu về cách Hát Xoan hiện
1
Cả 4 họ Xoan đều được gọi theo tên làng.
4
diện trong đời sống văn hóa tại Phú Thọ kể từ sau khi được ghi danh. Từ hiện trạng
cụ thể của Hát Xoan sau ghi danh, luận án bàn luận các vấn đề trong công tác bảo
vệ, phát huy di sản (các cấp), nhìn ra những động thái kinh tế, chính trị, văn hóa từ
các thực hành di sản Hát Xoan.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích trên, luận án đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
- Nghiên cứu về vấn đề di sản hóa các di sản văn hóa, tập trung vào vấn đề về tính
chính trị của di sản.
- Nghiên cứu về bối cảnh di sản hóa ở Việt Nam từ các phương diện kinh tế, chính
trị, văn hóa.
- Nghiên cứu, tìm hiểu quá trình Hát Xoan Phú Thọ được lựa chọn và ghi danh là
DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp của UNESCO.
- Nghiên cứu những diễn biến sau ghi danh của Hát Xoan Phú Thọ, quá trình bảo vệ
khẩn cấp Hát Xoan, bàn luận vấn đề di sản hóa Hát Xoan trong bối cảnh hiện nay ở Việt
Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các thực hành Hát Xoan được tiến
hành tại tỉnh Phú Thọ sau quá trình ghi danh của UNESCO, trong sự tham chiếu
với các thực hành Hát Xoan diễn ra trước đó. Các thực hành Hát Xoan diễn ra tại
Phú Thọ rất đa dạng và phong phú, cả ở các phường Xoan cổ, ở các CLB, tại
trường học, công sở, các điểm du lịch, các chương trình văn hóa văn nghệ và
trong nhiều nghi lễ, lễ hội tại địa phương.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: luận án tìm hiểu về các thực hành Hát Xoan diễn ra ở Phú
Thọ, trong đó tập trung nghiên cứu các làng Xoan cổ như: An Thái, Phù Đức,
Kim Đới, Thét, một số làng Xoan, CLB Xoan mới, một số trường học, công sở,
địa điểm du lịch trong địa bàn tỉnh Phú Thọ có thực hành truyền dạy và trình
diễn Hát Xoan.
5
Về thời gian: Luận án nghiên cứu thực hành Hát Xoan ở Phú Thọ trong
giai đoạn từ sau khi được UNESCO ghi danh DSVHPVT cần được bảo vệ khẩn
cấp của nhân loại (2011) cho đến nay, trong đó, chú trọng tập trung nhận diện,
phân tích và bàn luận các thực hành Hát Xoan đang diễn ra trong sự tham chiếu
với các thực hành đã diễn ra trước đó. Thời gian luận án thực hiện khảo sát là từ
năm 2016 đến năm 2021.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra trong đề tài, luận án xác định sử
dụng các phương pháp chính gồm:
- Phương pháp tổng hợp, phân tích: Đây là phương pháp được tác giả
luận án sử dụng trong quá trình tìm kiếm và tổng hợp các tư liệu thứ cấp đã có
về Hát Xoan (cả tư liệu nghiên cứu và tư liệu thực hành), về các quan điểm
nghiên cứu, bảo vệ, phát huy di sản nói chung và di sản Hát Xoan nói riêng. Hệ
thống các tư liệu này được tác giả luận án tìm kiếm trong các thư viện (thư viện
Quốc gia và thư viện tỉnh Phú Thọ), các trung tâm lưu trữ tại Sở VH-TT-DL tỉnh
Phú Thọ, tại phòng văn hóa, Trung tâm di sản của tỉnh, kỷ yếu các hội thảo (cả
về chủ đề Hát Xoan và một số loại hình di sản được ghi danh khác). Ngoài ra,
các tư liệu liên quan đến quan điểm và chính sách bảo vệ, phát huy di sản còn
được tác giả tổng hợp từ tư liệu công bố trên website của UNESCO, trong các kỷ
yếu hội thảo, trong các quyết định, thông tư liên quan tới di sản nói chung và Hát
Xoan nói riêng, đặc biệt là hệ thống các công văn triển khai hoạt động bảo vệ
phát huy di sản tại tỉnh Phú Thọ.
- Phương pháp điền dã dân tộc học, trọng tâm là quan sát tham dự và
phỏng vấn sâu. Trong quá trình tìm hiểu về hiện trạng Hát Xoan sau ghi danh,
tác giả luận án đã tiến hành quan sát tham dự các thực hành diễn xướng Xoan
diễn ra tại các làng Xoan cổ vào các thời điểm hội, lễ (đặc biệt vào lễ hội đầu
năm và lễ giỗ tổ Hùng Vương); trong các hoạt động giao lưu, truyền dạy và
trong thời điểm thường ngày. Các thực hành Hát Xoan tại các CLB Hát Xoan và
6
dân ca Phú Thọ, tại trường học, công sở hay hoạt động trình diễn Xoan trên các
sân khấu tại địa phương, đặc biệt là các chương trình diễn dành cho khách du
lịch cũng được tác giả tham dự.
Các cuộc phỏng vấn sâu được tiến hành với các nghệ nhân thực hành
Xoan tại 4 làng Xoan cổ, các nghệ nhân và thành viên của CLB Hát Xoan và
Dân ca tỉnh Phú Thọ, người dân tại làng Xoan, cán bộ Sở VH-TT-DL, cán bộ
Phòng Di sản, cán bộ nhà nước tại một số cơ quan trong tỉnh (đã từng tham gia
các lớp tập huấn về Hát Xoan), cán bộ Sở GD&ĐT tỉnh Phú Thọ, cán bộ lãnh
đạo văn hóa xã, một số giáo viên tại một số trường Tiểu học và trung học phổ
thông tại thành phố Việt Trì, huyện Tam Nông (Hiệu trưởng, Hiệu phó, giáo viên
phụ trách Đoàn - Đội, giáo viên Âm nhạc và các giáo viên được phân công đi
học và truyền dạy Hát Xoan trong nhà trường), học sinh (cấp 1, 2, 3) tại một số
trường học trên địa bàn tỉnh.
Tác giả cũng tham gia và tiến hành ghi chép, phỏng vấn trong các lớp tập
huấn Hát Xoan thường niên dành cho cán bộ nhà nước và giáo viên tại các
trường học. Những cuộc trao đổi với các nhà sưu tầm, nghiên cứu tại địa
phương, với các đạo diễn - biên kịch một số chương trình nghệ thuật của tỉnh và
các cán bộ làm công tác ký âm Xoan cũng được tác giả thực hiện trong thời gian
làm luận án.
Ngoài ra, do Hát Xoan là một loại hình nghệ thuật có âm nhạc, lời ca, giai
điệu, trang phục, nhạc cụ, luận án còn vận dụng cách tiếp cận và phương pháp
phân tích của ngành nhạc học và dân tộc học âm nhạc, đặc biệt trong phần tìm
hiểu về ký âm, âm nhạc, múa trong Hát Xoan.
Trong quá trình thực hiện luận án, tác giả luôn cố gắng tuân thủ các
nguyên tắc trong việc khai thác các tư liệu điền dã. Tên của các thông tín viên
được thay đổi để đảm bảo nguyên tắc ẩn danh, và các tư liệu phỏng vấn được gỡ
băng ngay sau thời điểm tiến hành khai thác tại thực địa. Tác giả cũng duy trì
việc kết nối với các thông tín viên (thông qua điện thoại, Facebook...) để có thể
7
nắm bắt kịp thời các hoạt động diễn ra tại địa phương. Thông tin đăng tải từ
website của các khu du lịch, các trung tâm du lịch tại Phú Thọ, các chương trình
hoạt động văn hóa diễn ra trên địa bàn tỉnh được tác giả cập nhật thường xuyên.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án chỉ ra rằng, Hát Xoan là thực hành văn hóa đã được kiến tạo
trong lịch sử và hiện vẫn tiếp tục được kiến tạo, gắn với các nhu cầu về tâm linh,
văn hóa, xã hội, chính trị, kinh tế tại Phú Thọ.
- Luận án chỉ ra các vấn đề liên quan tới quá trình bảo vệ và phát huy di
sản Hát Xoan hậu ghi danh, từ việc sưu tầm, kiểm kê đến cách thức Hát Xoan
được truyền dạy và thực hành tại các làng Xoan cổ, tại công sở, trường học và
các địa điểm du lịch, trong các chương trình quảng bá văn hóa tại Phú Thọ. Luận
án cho thấy, việc Hát Xoan được bảo vệ và phát huy trên diện rộng đã gia tăng
các nguy cơ di sản hóa, cũng như có những tác động mạnh đến diện mạo của
thực hành Hát Xoan của quá trình bảo vệ và phát huy này, với các vấn đề về sự
nhất thể hóa, bảo tàng hóa, phổ quát hóa, giá trị hóa Hát Xoan, dẫn đến những
tiếp nhận trái chiều trong thực hành di sản.
- Luận án chỉ ra rằng, sau khi được UNESCO ghi danh, Hát Xoan có xu
hướng hình thành hai tiểu loại: Xoan tín ngưỡng (Xoan được cộng đồng thực
hành gắn liền với nhu cầu tâm linh, với tín ngưỡng thờ cúng tại đình, miếu địa
phương) và Xoan văn nghệ (Xoan được trình diễn cho các đối tượng thưởng thức
đa dạng bên ngoài), mỗi tiểu loại có các đặc trưng riêng về không gian, phương
thức và nguyên tắc thực hành.
- Luận án nhấn mạnh cách tiếp cận "di sản văn hóa sống", với việc xem di sản
như một yếu tố trong chỉnh thể văn hóa và xã hội, tôn trọng đời sống riêng của di sản
cũng như quyền sử dụng di sản của các chủ thể thực hành nhằm hướng tới việc phát
huy các giá trị của di sản trong bối cảnh di sản hóa hiện nay ở Việt Nam.
8
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về mặt lý luận: Thông qua nghiên cứu trường hợp di sản Hát Xoan, luận
án chỉ ra tầm quan trọng của cách tiếp cận xem di sản như một thực thể sống. Di
sản cần được tạo điều kiện để phát triển bình thường nhất có thể trong đời sống
văn hóa, xã hội của địa phương.
Về mặt thực tiễn:
- Kết quả nghiên cứu của luận án giúp cung cấp cơ sở khoa học cho các
nhà hoạch định chính sách trong việc thiết kế và triển khai các chương trình/ hoạt
động phù hợp trong lĩnh vực văn hóa, đặc biệt với hoạt động bảo tồn các
DSVHPVT.
- Kết quả nghiên cứu của luận án đóng góp vào hệ thống tri thức về văn
hóa của người Việt nói riêng và tri thức về văn hóa hệ thống các dân tộc ở Việt
Nam nói chung. Luận án được hoàn thiện có thể trở thành một tài liệu tham khảo
hữu ích trong nghiên cứu và giảng dạy về văn hóa. Hướng tiếp cận di sản của
luận án có thể trở thành tài liệu tham khảo hữu ích cho ngành quản lý văn hóa,
quản lý di sản tại Việt Nam.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục (gồm cả Phụ lục Ảnh) và Tài
liệu tham khảo, luận án được triển khai với các chương cụ thể như sau:
Chương 1 - Tổng quan tình hình nghiên cứu, Cơ sở lý luận và Đối tượng
nghiên cứu
Chương 2 - Bối cảnh di sản hóa ở Việt Nam và quá trình ghi danh di sản
Hát Xoan Phú Thọ
Chương 3 - Diện mạo của Hát Xoan Phú Thọ sau ghi danh di sản
Chương 4 – Di sản hoá Hát Xoan: những vấn đề bàn luận
9
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN
VÀ ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Những nghiên cứu về di sản hóa và tính chính trị của di sản
Tính đến năm 2021, Việt Nam có 14 DSVHPVT được UNESCO ghi
danh, gồm: Nhã nhạc cung đình Triều Nguyễn, Không gian văn hóa cồng chiêng
Tây Nguyên, Dân ca Quan họ Bắc Ninh, Ca trù, Hội Gióng ở đền Phù Đổng và
Đền Sóc, Hát Xoan Phú Thọ, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ,
Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ, Dân ca Ví, Giặm ở Nghệ Tĩnh, Nghi lễ và trò
chơi Kéo co, Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt, Nghệ
thuật Bài Chòi ở Trung Bộ, Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái, Nghệ
thuật Xòe Thái. Ngoài các DSVHPVT kể trên, trên đất nước Việt Nam còn hiện
hữu nhiều loại hình di sản phi vật thể như âm nhạc, múa, tín ngưỡng, lễ hội,...
của người Kinh và các dân tộc thiểu số khác. Những di sản này có lịch sử tồn tại
gắn liền với đời sống văn hóa, xã hội của các cộng đồng, tộc người ở Việt Nam,
cả trong quá khứ và trong hiện tại.
Nghiên cứu về di sản văn hóa, trong đó có DSVHPVT, thu hút được sự
quan tâm của nhiều nhà khoa học và quản lý trong các lĩnh vực như văn hóa học,
dân tộc học, nhân học, quản lý văn hóa, bảo tàng,... Tùy vào mục đích nghiên
cứu, những chuyên gia có cách tiếp cận DSVHPVT khác nhau. Một cách khái
quát, có thể thấy các nghiên cứu về di sản thường tập trung vào một số vấn đề
như: quan điểm về di sản và vai trò của di sản; công tác sưu tầm, kiểm kê, tư liệu
hóa DSVHPVT; quá trình bảo vệ, khai thác và phát huy giá trị DSVHPVT trong
xã hội. Các tác giả đã khẳng định về tầm quan trọng của di sản trong đời sống
văn hóa cộng đồng, trong việc xác định bản sắc quốc gia, dân tộc (Hoàng Vinh
2006, Đặng Văn Bài 2007, Cao Tự Thanh 2013). Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng,
10
để DSVHPVT tồn tại và phát huy được những giá trị vốn có trong xã hội hiện
nay, ngoài nhiệm vụ điền dã để sưu tầm, kiểm kê và tư liệu hóa, cần phải tôn
trọng và khuyến khích cộng đồng chủ thể di sản để họ lưu giữ, trao truyền các
loại hình DSVHPVT cho các thế hệ kế cận (Trần Văn Khê 2002, Đặng Văn Bài
2007, Tô Ngọc Thanh 2007, Nguyễn Xuân Kính 2009, Ngô Đức Thịnh 2010,
Bùi Hoài Sơn 2010, Lê Thị Minh Lý 2013, Lê Hồng Lý và các cộng sự 2014).
Ngoài ra, các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, cần có sự kết hợp nhuần nhuyễn vai
trò của các cơ quan, tổ chức, nhà nước với cộng đồng trong việc bảo vệ và phát
huy các giá trị của DSVHPVT của Việt Nam hiện nay.
Trong nghiên cứu về di sản, nổi bật là quan điểm lý thuyết về di sản hóa.
Theo Salemink (2014), di sản hóa (heritagization) là khái niệm được Robert
Hewison đưa ra năm 1987 trong “Công nghiệp di sản: Vương quốc Anh trong sự
đi xuống” (The Heritage Industry: Britain in a Climate of Decline) và có một quá
trình biến chuyển hàm nghĩa từ đó tới khoảng những năm 2009, 2010. Từ một khái
niệm vốn chỉ dùng để nói về những biến đổi trong các địa điểm di sản, di sản hóa
được Regina Bendix trong Di sản giữa kinh tế và chính trị: Đánh giá từ quan điểm
nhân học văn hóa (Heritage between economy and politics: An assessment from the
perspective of cultural anthropology) (2009) sử dụng với những hàm nghĩa mới.
Theo đó, quá trình bảo tồn một cách có ý thức các di sản cho hiện tại và cho các thế
hệ tương lai là quá trình "nhất thiết phải mang tính chọn lọc, do không phải mọi ký
ức văn hóa đều được coi là di sản" (dẫn theo Salemink 2014: 489). Bendix đã chỉ ra
một số sự biến đổi do sự phong thánh một số địa điểm và thực hành nhất định là di
sản đem lại: sự viện dẫn truyền thống và tính chân thực; sự hiện hình bản chất và
nuôi dưỡng vốn biểu tượng; sự tranh cãi về những giá trị di sản; công việc mang
tính biểu tượng về marketing. Đến Rosmary Coombe và Joseph Turcotte (2012)
trong “Di sản văn hóa của người bản địa trong sự phát triển và thương mại: Quan
điểm từ động năng Luật và chính sách di sản văn hóa” [Indigenous Cultural
Heritage in Development and Trade: Perspectives from the Dynamics of Cultural
11
Heritage Law and Policy], vấn đề di sản hóa được nhận định: "Có thể cho rằng, sự
nhấn mạnh mới lên việc kiểm kê DSVHPVT, cụ thể hóa chúng, gắn cho chúng
những người bảo vệ phù hợp, và đầu tư xây dựng năng lực để phát triển các chuyên
gia địa phương, tạo nên một chế độ quyền lực mới và chế độ này vừa hứa hẹn vừa
gây nguy hiểm đến các cộng đồng địa phương và người bản xứ được coi là có một
nền văn hóa riêng biệt mà những chế độ mới này tìm kiếm để đánh giá" (Coombe
and Turcotte 2021: 31-32, dẫn theo Salemink 2014: 491). Nói theo cách của
Salemink, do vướng vào những hệ thống đánh giá khác nhau (bởi người thực hành,
bởi các chuyên gia văn hóa, bởi cán bộ nhà nước, bởi thị trường), ở những cấp độ
khác nhau (địa phương, quốc gia, liên quốc gia và quốc tế), việc công nhận
DSVHPVT có thể là một may mắn không trọn vẹn với những cộng đồng là người
mang - nhưng có lẽ không còn là người sở hữu, khi thực hành văn hóa trở thành di
sản (Salemink 2014: 491).
Trong các nghiên cứu về di sản ở Việt Nam, từ khoảng năm 2010, các nhà
nghiên cứu bắt đầu nói tới vấn đề di sản hóa. Người đề cập trực tiếp và bàn luận
nhiều nhất về vấn đề di sản hóa các loại hình DSVHPVT ở Việt Nam là Oscar
Salemink. Trong bài viết “Di sản hóa văn hóa sống ở Việt Nam như DSVHPVT” in
trong Hội thảo 10 năm thực hiện công ước bảo vệ DSVHPVT của UNESCO - Bài
học kinh nghiệm và định hướng tương lai, Salemink đã giới thiệu về khái niệm “di
sản hóa” (heritagization) thông qua việc điểm lại quá trình thuật ngữ này xuất hiện
và những hàm nghĩa của di sản hóa. Từ bối cảnh cụ thể ở Việt Nam, nhà nghiên cứu
phát triển cách hiểu về khái niệm di sản hóa, "Di sản hóa - được hiểu theo nghĩa
đơn giản nhất, cụ thể là gắn cho các di tích và thực hành văn hóa danh hiệu di sản"
(tr.494). Quá trình này có khả năng đưa đến sự xói mòn các quyền của cộng đồng
sở hữu di sản, cao hơn là sự tước mất quyền của các cộng đồng địa phương,
"công cụ hóa các thực hành văn hóa bởi vì nó thường phù hợp với mối quan tâm
của những người bên ngoài - các cá nhân và chuyên gia văn hóa, chính quyền địa
phương, chính phủ quốc gia (tr.494). Salemink đã bàn luận về vấn đề di sản hóa
12
một số loại hình DSVHPVT đại diện nhân loại của Việt Nam như Nhã nhạc
cung đình Huế, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Hát Xoan Phú
Thọ, Quan họ Bắc Ninh, Ca trù... Theo tác giả, quá trình tuyên bố và công nhận
di sản ở Việt Nam là quá trình chính trị hóa di sản ở các cấp, với những sự trùng
lặp và tương tác. Ngoài ra, nhà nước còn phải chịu những trách nhiệm liên quan
đến việc quản lý, bảo vệ hoặc giữ gìn di sản. Như vậy, di sản của cộng đồng khi
được UNESCO công nhận sẽ trở thành “tài sản quốc gia” (Salemink 2015: 485).
Và khi trở thành tài sản quốc gia, nhà nước sẽ có những chính sách quản lý, bảo
tồn di sản như sân khấu hóa, giảng dạy các di sản như Ví, Giặm Nghệ Tĩnh,
Quan họ Bắc Ninh, Hát Xoan Phú Thọ trong trường học hoặc thế tục hóa lễ hội...
Những việc làm trên thường hướng đến những người bên ngoài chứ không phải
là chủ thể di sản, trong khi cộng đồng, chủ thể di sản mới đóng vai trò quyết định
sự tồn tại của di sản.
Nhấn mạnh thêm về tính chính trị của DSVHPVT ở Việt Nam, trong bài viết
“Appropriating Culture: The politics of intangible cultural heritage in Vietnam Chiếm đoạt để sở hữu văn hóa: Chính trị về DSVHPVT ở Việt Nam”, Oscar
Salemink (2012) đã phân tích sự cạnh tranh mang tính địa phương, ở cấp quốc gia
và toàn cầu để đạt được sự công nhận mang tính quốc gia và của tổ chức
UNESCO. Sự công nhận dù mang tính quốc gia hay toàn cầu thì nhà nước cũng
can thiệp trong việc quản lý, bảo vệ và giữ gìn di sản, sự can thiệp đó là một sự
“chiếm đoạt” DSVHPVT từ chủ thể di sản - những người đã sáng tạo, gìn giữ và
có các quyền lợi về di sản - ra khỏi những thực hành văn hóa của họ. Sự can
thiệp này mang tính hai mặt, nếu việc tổ chức, quản lý, bảo quản cũng như chia
lợi ích hợp lý thì sẽ mang lại kết quả tốt; ngược lại, nó cũng có thể đẩy chính
những người dân ra ngoài lề, mất độc quyền thực hành văn hóa của chính họ.
Đề cập đến di sản hóa các loại hình DSVHPVT, trong chuyên khảo “Bảo tồn
và phát huy di sản văn hóa trong quá trình hiện đại hóa: nghiên cứu trường hợp
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương (Phú Thọ), Hội Gióng (Hà Nội), Tháp bà Poh
13
Nagar (Khánh Hòa) và văn hóa cồng chiêng của người Lạch (Lâm Đồng)”, tác giả
Lê Hồng Lý và các cộng sự (2012) cho rằng, quan điểm bảo tồn có chọn lọc, xếp
hạng các di sản, quản lý, sân khấu hóa, sáng tạo truyền thống trong công tác bảo
tồn và phát huy di sản của các tác nhân bên ngoài chính là quá trình di sản hóa.
Quá trình này có thể làm suy giảm quyền quản lý, tổ chức, sáng tạo, hưởng lợi
của cộng đồng chủ thể di sản, thậm chí còn "ngoài lề hóa" cộng đồng chủ, tước
đoạt các quyền của chủ nhân văn hóa đối với di sản. Quá trình này hình thành
nên tâm lý trông chờ, ỷ lại, thờ ơ với chính di sản văn hóa vốn thuộc về cộng
đồng, bởi sau khi được tôn vinh, những di sản này đã trở thành “tài sản của quốc
gia” chứ không còn thuộc về người dân như trước.
Trong tham luận “Di sản hóa lễ hội truyền thống và tính thiêng trong nghi
lễ”, Phan Phương Anh đã có những nhìn nhận về tính thiêng trong lễ hội và quan
niệm di sản hóa văn hóa phi vật thể để làm cơ sở để phân tích về di sản hóa lễ hội
truyền thống ở Việt Nam. Theo tác giả, di sản hóa là quá trình đưa một loại hình
văn hóa thành một di sản qua hai giai đoạn lập hồ sơ đến lúc công nhận là di sản và
giai đoạn kể từ sau khi được công nhận là di sản. Trong lễ hội truyền thống ở Việt
Nam, nhân vật được thờ phụng là hiện thân của cái thiêng, do vậy mọi yếu tố liên
quan đến nhân vật - từ truyền thuyết, thần tích, lễ vật, người tham gia và quy trình lễ
hội đều chứa đựng yếu tố thiêng. Kết quả khảo sát thực tế tại lễ hội Gióng ở đến
Phù Đổng và lễ hội đền Hùng ở Phú Thọ của tác giả cho thấy, lễ hội Gióng giữ
được tính nguyên thức nhờ có Sổ hội lễ truyền từ đời này sang đời khác, do vậy
tính thiêng là cái được cả cộng đồng quy định nhưng lễ hội đền Hùng lại bị hành
chính hóa mạnh mẽ, chẳng hạn, thành phần trung tâm dâng hương là các lãnh
đạo Đảng và nhà nước và các cơ quan trung ương; chủ lễ là một đồng chí lãnh
đạo Đảng và nhà nước cao cấp; toàn bộ chương trình lễ hội được lên kịch bản và
quy định chặt chẽ còn người dân bị loại trừ ra khỏi lễ hội,... Như vậy, tính thiêng
của lễ hội đã bị can thiệp và không còn được đảm bảo, và đây là biểu hiện của
quá trình di sản hóa.
14
- Xem thêm -