BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
NGUYỄN QUANG ĐÔNG
§æi míi c«ng t¸c kiÓm tra, gi¸m s¸t
Cña Tæ CHøC C¥ Së §¶NG ë c¸C §¶NG Bé trêng sÜ quan qu©n ®éi GIAI §O¹N hiÖn nay
Chuyên ngành: Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước
Mã số:
931 02 02
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS. TS Phạm Xuân Mát
2. PGS. TS Phạm Đình Bộ
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên
cứu khoa học độc lập của riêng tác giả. Các tư liệu,
số liệu sử dụng trong luận án là trung thực, có nguồn
gốc rõ ràng, không trùng lặp với các công trình khoa
học đã nghiệm thu, công bố.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Quang Đông
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.
Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài có liên quan
đến đề tài luận án
1.2.
Các công trình nghiên cứu ở trong nước có liên quan
đến đề tài luận án
1.3.
Khái quát kết quả đạt được của các công trình nghiên
cứu đã công bố có liên quan đến đề tài và những vấn
đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết
Chương 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
ĐỔI MỚI CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT
CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Ở CÁC ĐẢNG BỘ
TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI
2.1.
Tổ chức cơ sở đảng và công tác kiểm tra, giám sát của
tổ chức cơ sở đảng ở các đảng bộ trường sĩ quan quân
đội
2.2.
Quan niệm, những vấn đề có tính nguyên tắc và tiêu chí
đánh giá đổi mới công tác kiểm tra, giám sát của tổ chức
cơ sở đảng ở các đảng bộ trường sĩ quan quân đội
Chương 3. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM
ĐỔI MỚI CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT
CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Ở CÁC ĐẢNG BỘ
TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI
3.1.
Thực trạng đổi mới công tác kiểm tra, giám sát của tổ
chức cơ sở đảng ở các đảng bộ trường sĩ quan quân đội
3.2.
Nguyên nhân của thực trạng và một số kinh nghiệm đổi
mới công tác kiểm tra, giám sát của tổ chức cơ sở đảng ở
5
10
10
17
28
31
31
54
72
72
101
các đảng bộ trường sĩ quan quân đội
Chương 4. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC ĐỔI MỚI
CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA TỔ
CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Ở CÁC ĐẢNG BỘ TRƯỜNG
SĨ QUAN QUÂN ĐỘI GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
4.1.
Những yếu tố tác động và yêu cầu tiếp tục đổi mới công
tác kiểm tra, giám sát của tổ chức cơ sở đảng ở các
đảng bộ trường sĩ quan quân đội giai đoạn hiện nay
4.2.
Giải pháp tiếp tục đổi mới công tác kiểm tra, giám sát
của tổ chức cơ sở đảng ở các đảng bộ trường sĩ quan
quân đội giai đoạn hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG
BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT
Chữ viết đầy đủ
Chữ viết tắt
113
113
121
160
162
163
177
1
Công chức quốc phòng
CCQP
2
Kiểm tra, giám sát
KT, GS
3
Quân nhân chuyên nghiệp
QNCN
4
Tổ chức cơ sở đảng
TCCSĐ
5
Trong sạch, vững mạnh
TSVM
6
Trường sĩ quan quân đội
TSQQĐ
7
Ủy ban kiểm tra
UBKT
8
Vững mạnh toàn diện
VMTD
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Công tác KT, GS có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động
lãnh đạo của Đảng. Thông qua KT, GS trực tiếp góp phần bảo đảm cho đường
lối, chủ trương của Đảng được xác định đúng và chấp hành triệt để, đồng thời
củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, khắc phục bệnh quan liêu, xa rời
quần chúng. Mặt khác, góp phần thiết thực vào giáo dục, rèn luyện đội ngũ
đảng viên; phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội
bộ, đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vi phạm kỷ luật Đảng, bảo đảm
cho Đảng luôn TSVM về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức.
Tổ chức cơ sở đảng ở các đảng bộ TSQQĐ là hạt nhân chính trị ở cơ sở;
nơi trực tiếp quản lý, giáo dục, rèn luyện và KT, GS đảng viên. Công tác KT,
GS của TCCSĐ ở các đảng bộ TSQQĐ giữ vị trí, vai trò hết sức quan trọng
trong xây dựng đảng bộ TSVM, xây dựng các trường sĩ quan VMTD. Để xây
dựng TCCSĐ ở các đảng bộ TSQQĐ thật sự TSVM về chính trị, tư tưởng, tổ
chức và đạo đức, có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao cần phải tiến hành
đồng bộ nhiều nội dung, giải pháp. Một trong những nội dung, giải pháp hết
sức quan trọng, đó là phải đổi mới công tác KT, GS của TCCSĐ nhằm đáp ứng
yêu cầu ngày càng cao của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và yêu cầu,
nhiệm vụ công tác KT, GS của Đảng trong tình hình mới.
Nhận thức đúng tầm quan trọng của công tác KT, GS và sự cần thiết đổi
mới công tác KT, GS của TCCSĐ ở các đảng bộ TSQQĐ, những năm qua các
đảng ủy, ban thường vụ đảng ủy, UBKT đảng ủy trường sĩ quan và phần lớn
các đảng ủy, UBKT đảng ủy cơ sở, chi bộ đã luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo,
tổ chức thực hiện việc đổi mới công tác KT, GS của TCCSĐ, do đó đã trực tiếp
góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác KT, GS và nâng cao năng
lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu của TCCSĐ, nâng cao chất lượng đội ngũ
6
đảng viên, xây dựng TCCSĐ ở các đảng bộ trường sĩ quan TSVM, lãnh đạo
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giáo dục - đào tạo, nghiên cứu khoa học và công
tác xây dựng đảng bộ trong tình hình mới.
Tuy nhiên, trước yêu cầu nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình
hình mới, công tác KT, GS của TCCSĐ ở các đảng bộ TSQQĐ còn bộc lộ
những hạn chế, bất cập, biểu hiện cả ở nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể,
lực lượng tiến hành và kết quả đạt được trong công tác KT, GS của TCCSĐ.
Vấn đề xuyên suốt nhất là tư duy chậm đổi mới, nhận thức chưa sâu sắc, nội
dung, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo chưa chặt chẽ, tổ chức thực hiện thiếu sáng
tạo, vừa có biểu hiện giáo điều, máy móc, tư duy theo đường mòn lối cũ, vừa
có biểu hiện giản đơn, phiến diện, nặng về hình thức, đối phó nên chất lượng,
hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, cần phải tiếp tục đổi mới
mạnh mẽ dựa trên cơ sở khoa học vững chắc.
Những năm tới, tình hình thế giới, khu vực sẽ còn nhiều diến biến mau
lẹ, khó lường. Trong nước, “tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận
cán bộ, đảng viên, ...và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp”
[48, tr.74]. Nhiệm vụ của cách mạng, của quân đội, của các TSQQĐ và công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đặt ra yêu cầu ngày càng cao, đòi hỏi cấp uỷ, tổ
chức đảng các cấp ở các đảng bộ TSQQĐ phải không ngừng nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu, nâng cao chất lượng đảng viên. Đặc biệt, quán triệt,
triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn
Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đang đặt ra yêu
cầu cao cho công tác KT, GS của Đảng, của các TCCSĐ trong toàn Đảng; đòi
hỏi khách quan phải tiếp tục đổi mới công tác KT, GS, thiết thực góp phần xây
dựng Đảng, xây dựng các TCCSĐ TSVM, không ngừng nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ mới.
7
Vì vậy, nghiên cứu sinh chọn vấn đề: Đổi mới công tác kiểm tra, giám sát
của tổ chức cơ sở đảng ở các đảng bộ trường sĩ quan quân đội giai đoạn hiện
nay làm đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà
nước là vấn đề cơ bản, cấp thiết, có ý nghĩa lý luận, thực tiễn sâu sắc.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất giải pháp tiếp tục đổi
mới công tác KT, GS của TCCSĐ ở các đảng bộ TSQQĐ giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án.
Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn đổi mới công tác KT, GS của
TCCSĐ ở các đảng bộ TSQQĐ.
Đánh giá đúng thực trạng, rút ra một số kinh nghiệm đổi mới công tác
KT, GS của TCCSĐ ở các đảng bộ TSQQĐ.
Xác định yêu cầu và đề xuất giải pháp tiếp tục đổi mới công tác KT, GS
của TCCSĐ ở các đảng bộ TSQQĐ giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đổi mới công tác KT, GS của TCCSĐ ở các đảng bộ TSQQĐ.
Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác KT, GS và đổi
mới công tác KT, GS của TCCSĐ ở các đảng bộ TSQQĐ giai đoạn hiện nay.
Phạm vi khảo sát: Trường Sĩ quan Lục quân 1, Trường sĩ quan Lục quân 2,
Trường Sĩ quan Chính trị, Trường Sĩ quan Pháo binh, Trường Sĩ quan Phòng
hóa, Trường Sĩ quan Đặc công, Trường Sĩ quan Công binh. Các tư liệu, số liệu
phục vụ cho luận án được giới hạn chủ yếu từ năm 2011 đến nay.
8
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng, chỉnh đốn
Đảng; về công tác KT, GS, kỷ luật đảng; các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về xây dựng TCCSĐ
TSVM, nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu của TCCSĐ và
nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.
Cơ sở thực tiễn
Hiện thực công tác KT, GS của TCCSĐ và hoạt động đổi mới công tác
KT, GS của TCCSĐ ở các đảng bộ TSQQĐ. Các nghị quyết, chỉ thị, quy chế,
quy định của Quân ủy Trung ương, UBKT Quân ủy Trung ương; của các đảng
ủy, ban thường vụ đảng ủy, UBKT đảng ủy TSQQĐ; các báo cáo tổng kết công
tác xây dựng Đảng, công tác KT, GS của cấp ủy, tổ chức đảng, UBKT các cấp
trong Đảng bộ Quân đội và ở các đảng bộ trường sĩ quan.
Tư liệu, số liệu điều tra, khảo sát thực trạng công tác KT, GS và đổi mới
công tác KT, GS của TCCSĐ ở các đảng bộ TSQQĐ; đồng thời kế thừa có
chọn lọc kết quả nghiên cứu của một số công trình khoa học có liên quan.
Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, đề tài
sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và
liên ngành, chú trọng các phương pháp: Kết hợp lôgíc với lịch sử; phân tích và
tổng hợp; thống kê và so sánh; tổng kết thực tiễn; điều tra xã hội học và
phương pháp chuyên gia.
5. Những đóng góp mới của luận án
Xây dựng quan niệm và làm rõ những nội dung cơ bản về đổi mới công
tác KT, GS của TCCSĐ ở các đảng bộ TSQQĐ.
9
Khái quát một số kinh nghiệm đổi mới công tác KT, GS của TCCSĐ ở
các đảng bộ TSQQĐ.
Đề xuất một số biện pháp cụ thể, thiết thực, khả thi tiếp tục đổi mới công
tác KT, GS của TCCSĐ ở các đảng bộ TSQQĐ giai đoạn hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sâu sắc thêm lý luận, thực
tiễn về TCCSĐ, công tác KT, GS của TCCSĐ và đổi mới công tác KT, GS của
TCCSĐ ở các đảng bộ TSQQĐ.
Cung cấp thêm luận cứ khoa học giúp cấp ủy, tổ chức đảng, UBKT các
cấp tham khảo trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện đổi mới công tác KT,
GS của TCCSĐ trong Đảng bộ Quân đội nói chung, của TCCSĐ ở các đảng bộ
TSQQĐ nói riêng.
Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng
dạy và học tập môn công tác đảng, công tác chính trị ở các học viện, nhà
trường Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Gồm: Mở đầu; 4 chương; kết luận; danh mục các công trình của tác giả đã
công bố có liên quan đến đề tài luận án; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
10
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH
NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài có liên quan đến đề tài
luận án
1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về xây dựng Đảng, xây dựng tổ chức
cơ sở đảng và công tác đảng, công tác chính trị trong lực lượng vũ trang
I.S. Métnhicốp (1974), “Công tác đảng trong các lực lượng vũ trang xôviết” [98]; nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô nói chung,
vai trò của tổ chức cơ sở đảng nói riêng đối với sự phát triển của xã hội, các tác
giả khẳng định: “Một trong những quy luật quan trọng nhất giai đoạn hiện nay
của việc phát triển xã hội là nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng... Quy luật đó
được biến thành công việc thực tế bằng cách hoàn chỉnh sự hoạt động của các
tổ chức đảng cơ sở - các tổ chức này là cơ sở của Đảng” [98, tr.26]. Để nâng
cao vai trò lãnh đạo của Đảng, các tác giả cho rằng: Kiểm tra đảng là vấn đề
thuộc về nguyên tắc lãnh đạo, đồng thời chỉ rõ: “Việc kiểm tra thực hiện những
công việc nếu làm tốt thì đó là một trong những nguyên tắc thử thách cơ bản
của sự lãnh đạo của Đảng. Cần phải kiểm tra con người và kiểm tra công việc
thực hiện nhiệm vụ trên thực tế” [98, tr.31]; “Công tác kiểm tra việc thi hành là
biện pháp có hiệu lực để thúc đẩy hơn nữa tính tích cực của đảng viên…, là
biện pháp ngăn ngừa những thiếu sót và khắc phục những thiếu sót. Kiểm tra
việc thi hành còn có tác dụng giáo dục cán bộ đảng, giáo dục đảng viên” [98,
tr.32]; “Hiệu quả của công tác kiểm tra đảng chỉ đạt được bằng cách thực hiện
sự kiểm tra từ trên xuống tức là từ phía các cơ quan cấp trên và kiểm tra từ
dưới lên tức là từ phía quần chúng của Đảng. Việc kiểm tra như thế phải được
tiến hành công khai trong Đảng” [98, tr.32].
A.A. Grêscô (1974), “Các lực lượng vũ trang của Nhà nước xô-viết”
[77]. Đây là công trình khoa học có giá trị lý luận và thực tiễn cao về xây dựng
quân đội và hạm đội của Nhà nước xô-viết. Cùng với việc khẳng định vai trò to
lớn của đội ngũ sĩ quan Hồng quân Liên Xô trong lực lượng vũ trang, tác giả
11
còn khẳng định vai trò to lớn của TCCSĐ trong quân đội và hạm đội: “Vai trò
quan trọng bậc nhất trong việc giải quyết những nhiệm vụ đứng trước những
người cộng sản trong quân đội và hạm đội, là thuộc về các tổ chức cơ sở của
Đảng [77, tr.489]. Các tổ chức cơ sở của Đảng tiến hành công tác hàng ngày
với những người cộng sản, với toàn bộ binh sĩ là người trực tiếp điều khiển vũ
khí và kỹ thuật quân sự, giải quyết những nhiệm vụ quan trọng khác để không
ngừng củng cố sự sẵn sàng chiến đấu của quân đội.
A.A. Êpisép (1978), “Một số vấn đề công tác đảng - công tác chính trị
trong các lực lượng vũ trang Liên Xô” [76], khẳng định vị trí, vai trò của tổ
chức cơ sở đảng trong Đảng Cộng sản Liên Xô: “Các tổ chức cơ sở của Đảng
là nền tảng của Đảng Cộng sản Liên Xô. Thông qua các tổ chức cơ sở của
mình, Đảng gây ảnh hưởng đối với đông đảo quần chúng lao động, thực hiện
đường lối và nghị quyết của Đảng trong tất cả các lĩnh vực xây dựng chủ nghĩa
cộng sản” [76, tr.198]. Tác giả khẳng định, ý nghĩa, tầm quan trọng của công
tác kiểm tra: “Sau khi nhiệm vụ được xác định và chỉ thị được phát ra thì điều
chủ yếu là phải đảm bảo chấp hành các nhiệm vụ và chỉ thị ấy. Muốn vậy, điều
quan trọng là phải… thực hiện sự kiểm tra có hiệu lực. Sự kiểm tra được tổ
chức tốt đối với việc thực hiện các nghị quyết của Đảng” [76, tr.149]; “Việc
kiểm tra chấp hành được tổ chức tốt…, sẽ giúp cho cán bộ chỉ huy đạt được
thành công đáng kể, tránh được những sai sót, tránh cường điệu những kết quả
đạt được, giáo dục cho họ tính yêu cầu cao đối với bản thân và đối với người
khác, tăng cường kỷ luật đảng và kỷ luật quân sự” [76, tr.150]. Tác giả cho
rằng: “Công tác kiểm tra không thể có hiệu lực nếu không tiến hành phê bình
và tự phê bình đúng nguyên tắc. Đảng dạy rằng cần thiết phải chú ý và tôn
trọng hơn nữa các ý kiến và đề nghị của các đảng viên, tạo điều kiện để phê
bình và tự phê bình không bị cản trở” [76, tr.151].
Nhiệm Khắc Lễ (1995), “Công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn hiện
nay” [93], khẳng định: “Tổ chức cơ sở của Đảng là nền tảng của toàn bộ công
tác và sức chiến đấu của Đảng mà Đảng dựa vào để sinh tồn và phát triển” [93,
tr.193]. Muốn xây dựng Đảng vững mạnh phải coi trọng xây dựng TCCSĐ
12
vững mạnh. Theo tác giả, để xây dựng TCCSĐ vững mạnh, phải xây dựng đội
ngũ cán bộ “có đức, có tài”, một giải pháp quan trọng là “Tăng cường công tác
khảo sát và kiểm tra kỷ luật cán bộ” [93, tr. 311]. Trong khảo sát và kiểm tra
kỷ luật cán bộ cần kiên trì thực hiện 4 nguyên tắc: 1) Kiên trì nguyên tắc bình
đẳng. Nghĩa là, người được khảo sát kiểm tra và người khảo sát kiểm tra phải
được bình đẳng về nhân cách. 2) Kiên trì nguyên tắc công khai. Quá trình khảo
sát kiểm tra cần phải công khai kết quả khảo sát và kết quả xử lý, ngoài sự liên
quan đến cơ mật của Đảng, Nhà nước. 3) Kiên trì nguyên tắc quần chúng.
Kiểm tra kỷ luật không thể do một số người hoặc cấp trên tùy ý quyết định mà
phải do đông đảo đảng viên và quần chúng dựa vào hiệu quả thực tế công tác,
giữ gìn kỷ luật để quyết định. 4) Kiên trì nguyên tắc thực sự cầu thị. Thực sự
cầu thị là nguyên tắc cơ bản của mọi hoạt động của Đảng. Chỉ có dựa vào kỷ
luật của Đảng làm chuẩn mực mới có thể đánh giá công bằng nhất.
Ngô Tu Nghệ, Lý Luyện Trung (1999), “Kiên trì và hoàn thiện sự lãnh
đạo của Đảng” [104], đã chỉ ra một trong những biện pháp quan trọng để xây
dựng tổ chức cơ sở đảng, đó là phải tăng cường quản lý, giáo dục, nâng cao tố
chất đảng viên. Để quản lý, giáo dục, nâng cao tố chất đảng viên có hiệu quả,
phải tăng cường sự giám sát trong Đảng, tăng cường cải thiện công tác quản lý,
giáo dục đảng viên, đề ra tiêu chuẩn cho đảng viên một cách nghiêm khắc,
không được hạ thấp tiêu chuẩn, vừa tăng cường dân chủ trong Đảng, vừa nhấn
mạnh kỷ luật; việc giáo dục tư tưởng phải nắm thật chắc tình hình, phải ngăn
chặn và khắc phục hiện tượng yếu kém, rời rạc, phải tăng cường sự giám sát
trong Đảng và xây dựng chế độ giám sát hoàn chỉnh.
Trương Thụ Quân (2013), “Không ngừng nâng cao trình độ quản lý
đảng xây dựng đảng theo yêu cầu khoa học hóa công tác xây dựng Đảng”
[118], đã chỉ ra các biện pháp cơ bản để nâng cao chất lượng công tác quản lý
đảng viên. Một trong những biện pháp quan trọng, được tác giả chỉ ra là phải
giám sát nghiêm khắc, nghiêm túc chấp hành và hoàn thiện các chế độ, xây
dựng cơ chế công tác phòng ngừa, kịp thời phát hiện và nghiêm túc uốn nắn.
Nghiêm túc thực hiện các quyền dân chủ, như quyền được biết thông tin, quyền
13
giám sát mà Điều lệ Đảng trao cho đảng viên, khiến cho đảng viên thực sự phát
huy vai trò chủ thể trong sinh hoạt đảng và hoàn thiện các chế độ giám sát dân
chủ; tăng cường giám sát của cấp trên và giám sát nội bộ tổ chức đảng; tăng
cường giám sát của quần chúng và giám sát của dư luận.
Tạng Thắng Nghiệp (2013), “Tăng cường xây dựng kỷ luật, giữ gìn sự
đoàn kết, thống nhất của Đảng” [108], cho rằng muốn giữ nghiêm kỷ luật
đảng, một biện pháp quan trọng là tăng cường KT, GS tình hình chấp hành kỷ
luật. Theo đó, cơ quan kiểm tra các cấp phải phát huy đầy đủ vai trò, chức
năng, phối hợp với đảng ủy và chính quyền làm tốt việc KT, GS tình hình chấp
hành kỷ luật, kịp thời phát hiện và kiên quyết uốn nắn mọi vấn đề có tính manh
nha, tính khuynh hướng liên quan đến vi phạm kỷ luật đảng. Phải tập hợp các
nguồn lực giám sát để hình thành nên hợp lực giám sát, mở rộng kênh giám sát,
xây dựng sân chơi giám sát, dùng các hình thức, chế độ để tập hợp một cách
hữu cơ các loại hình giám sát với nhau như giám sát trong Đảng, giám sát của
đại hội đại biểu nhân dân, giám sát hành chính, giám sát dân chủ, giám sát tư
pháp, giám sát của quần chúng và giám sát của dư luận.
Lưu Kỳ Bảo (2013), “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh trong tình
hình mới - Kinh nghiệm Việt Nam, kinh nghiệm Trung Quốc” [9], đã rút ra 6
kinh nghiệm chủ yếu về xây dựng tác phong đảng liêm chính của Đảng Cộng
sản Trung Quốc. Một trong những kinh nghiệm ấy được tác giả đề cập, đó là:
Kiên trì nắm chắc giám sát và ràng buộc, đem quyền lực nhốt vào trong chiếc
lồng chế độ. Tác giả cho rằng, Trung Quốc đã chú trọng vấn đề công khai về
quyền lực, công khai công việc của Đảng, của chính quyền và công khai tư
pháp. Đồng thời, luôn “tăng cường giám sát trong Đảng, giám sát dân chủ,
giám sát pháp luật, giám sát của dư luận, để nhân dân giám sát quyền lực, để
quyền lực được vận hành dưới ánh sáng mặt trời” [9, tr.31].
1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ
luật đảng và nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng
Chương Tư Nghị (2006), “Giáo trình công tác đảng, công tác chính trị
của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc” [105], đã nhấn mạnh vị trí, vai
trò của công tác kiểm tra, kỷ luật đảng: “Công tác kiểm tra, kỷ luật đảng là
14
nhiệm vụ quan trọng của Đảng, là nội dung quan trọng của công tác chính trị
quân đội..., việc thực hiện kỷ luật đảng nghiêm minh, tăng cường công tác
kiểm tra kỷ luật của Đảng có ý nghĩa quan trọng, bảo đảm cho công cuộc cải
cách tiến hành được thuận lợi” [105, tr.272]. Các tác giả cho rằng, để hoàn
thành nhiệm vụ kiểm tra, kỷ luật của Đảng, cần phải: Tăng cường giáo dục kỷ
luật đảng; quán triệt vững chắc đường lối, phương châm, chính sách của
Đảng; quán triệt nguyên tắc mọi người cùng bình đẳng trước kỷ luật đảng;
nghiêm túc chấp hành kỷ luật đảng. Trong xây dựng đội ngũ đảng viên, “phải
làm tốt công tác kiểm tra kỷ luật đảng” [105, tr.382], nhất là ở chi bộ đảng đại
đội: “Chi bộ đảng đại đội phải dưới sự lãnh đạo của đảng cấp trên và ủy ban
kiểm tra kỷ luật đảng, tăng cường công tác kiểm tra kỷ luật đảng. Trên cơ sở
tiến hành giáo dục kỷ luật đảng đối với đảng viên, thường xuyên kiểm tra
đảng viên chấp hành kỷ luật đảng” [105, tr.383].
Phuthắc Phítthanuson (2003), “Công tác kiểm tra của Đảng nhân dân
cách mạng Lào trong giai đoạn hiện nay” [112], đã tập trung phân tích, đánh
giá thực trạng chất lượng công tác kiểm tra của Đảng nhân dân cách mạng Lào;
chỉ rõ những ưu điểm, hạn chế, khuyết điểm, nguyên nhân, rút ra những kinh
nghiệm và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác kiểm tra của Đảng nhân dân cách mạng Lào trong giai đoạn hiện
nay, gồm: Một là, tăng cường trách nhiệm của các cấp ủy đảng đối với việc chỉ
đạo, lãnh đạo công tác kiểm tra. Hai là, kiện toàn bộ máy UBKT và đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kiểm tra của Đảng. Ba là, thực hiện đúng việc dân
chủ hóa, công khai hóa công tác kiểm tra. Bốn là, nắm vững và thực hiện tốt tư
tưởng chỉ đạo, lựa chọn và kết hợp các hình thức kiểm tra, phát huy sức mạnh
tổng hợp của các ban, ngành trong công tác kiểm tra.
Khămphăn Milavông (2005), “Xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra của
Đảng (cấp tỉnh) ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào hiện nay” [99], đã
đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng công tác xây dựng đội ngũ
cán bộ kiểm tra Đảng và Nhà nước Lào, đồng thời chỉ ra nguyên nhân, rút ra
những kinh nghiệm và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra của Đảng đoạn hiện nay:
15
Một là, cần cụ thể hóa tiêu chuẩn chức danh cán bộ kiểm tra của Đảng cấp
tỉnh. Hai là, đổi mới công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
kiểm tra của Đảng cấp tỉnh. Ba là, đổi mới đánh giá, tuyển chọn, sử dụng đội
ngũ cán bộ kiểm tra của Đảng cấp tỉnh. Bốn là, đổi mới chính sách, chế độ đãi
ngộ, đội ngũ cán bộ kiểm tra của Đảng cấp tỉnh; đổi mới công tác quản lý và
bảo vệ đội ngũ cán bộ kiểm tra của Đảng cấp tỉnh. Năm là, củng cố bộ máy cơ
quan kiểm tra của Đảng cấp tỉnh. Sáu là, tăng cường phối hợp giữa các ngành,
các cấp có liên quan trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra của Đảng cấp
tỉnh; Bảy là, tăng cường sự lãnh đạo và kiểm tra của cấp trên đối với việc xây
dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra của Đảng cấp tỉnh.
Chănsy Sensômphu (2011), “Chất lượng công tác kiểm tra của Ủy ban
kiểm tra Đảng và Nhà nước cấp tỉnh ở các tỉnh phía Bắc nước Cộng hoà dân
chủ nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay” [123], đã đưa ra quan niệm và
xây dựng 2 nhóm tiêu chí đánh giá chất lượng công tác kiểm tra của UBKT
Đảng và Nhà nước cấp tỉnh ở các tỉnh phía Bắc nước Cộng hoà dân chủ nhân
dân Lào. Tác giả đã đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng công tác
kiểm tra của UBKT Đảng và Nhà nước cấp tỉnh ở các tỉnh phía Bắc nước Cộng
hoà dân chủ nhân dân Lào; chỉ rõ nguyên nhân, rút ra những kinh nghiệm và đề
xuất năm giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm tra của UBKT
Đảng và Nhà nước cấp tỉnh ở các tỉnh phía Bắc nước Cộng hoà dân chủ nhân
dân Lào trong giai đoạn hiện nay, gồm: Một là, đổi mới về nhận thức và tăng
cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các tỉnh uỷ ở các tỉnh phía Bắc Lào. Hai là,
phát huy vai trò của UBKT Đảng và Nhà nước các cấp, xây dựng đội ngũ cán
bộ kiểm tra vững mạnh; nâng cao vai trò, tính tích cực của quần chúng. Ba là,
nắm vững, thực hiện tốt phương pháp, nguyên tắc, hình thức kiểm tra, thực
hiện dân chủ hoá, công khai hoá công tác kiểm tra. Bốn là, chủ động phối hợp
với các ngành có liên quan để tiến hành hoạt động kiểm tra. Xây dựng và thực
hiện tốt chế độ, chính sách khen thưởng, đãi ngộ đối với cán bộ kiểm tra. Năm
là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế, pháp luật làm cơ sở chuẩn mực cho
kiểm tra, đánh giá cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng.
16
Đaobualapha Bavôngphết (2016), “Đảng Nhân dân cách mạng Lào đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm tra” [10], cho rằng, trước yêu cầu mới của công tác
xây dựng Đảng, phải quan tâm hơn nữa việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm
tra. Phải tiêu chuẩn hóa cán bộ kiểm tra và đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn.
Tiêu chuẩn chủ nhiệm, phó chủ nhiệm UBKT: Trung thành với đất nước, lập
trường chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng, trung thực, công minh.
Kiên quyết bảo vệ đường lối, chính sách, Điều lệ Đảng và pháp luật Nhà nước.
Có trình độ kiến thức và năng lực; đã được bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ
kiểm tra. Tinh thần trách nhiệm cao, dũng cảm, kiên quyết và khôn khéo trong
thực hiện công việc. Trong sạch, công bằng và liêm khiết. Có tầm nhìn xa, kinh
nghiệm thực tiễn. Không vi phạm pháp luật. Sức khỏe tốt. Tiêu chuẩn cán bộ
kiểm tra: đạo đức tốt, trung thực. Có trình độ kiến thức và năng lực. Ý thức tổ
chức, trách nhiệm cao. Liêm khiết, không nhân nhượng, kiên quyết phòng,
chống mọi hình thức lợi dụng, tham ô, nhận hối lộ, cửa quyền.
Savát Chănthaprixay (2017), “Nâng cao chất lượng kiểm tra, giám sát
của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào” [15], đề xuất năm giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng công tác KT, GS, kỷ luật của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào
trong giai đoạn hiện nay: Một là, nâng cao trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của
các cấp uỷ đảng tiến hành KT, GS và giải quyết những biểu hiện tiêu cực nảy
sinh trong đơn vị, địa phương mình. Hai là, UBKT các cấp và cán bộ làm công
tác kiểm tra phải được xây dựng, củng cố ngang tầm với nhiệm vụ chính trị của
Đảng và tính khoa học của công tác kiểm tra. Ba là, cấp uỷ đảng và UBKT các
cấp phải tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên, các tổ chức đảng, chính
quyền và các tổ chức quần chúng nhận thức đúng về công tác kiểm tra. Bốn là,
UBKT các cấp phải chủ động xác định được phương hướng, nhiệm vụ, các
chương trình, kế hoạch có trọng tâm, trọng điểm trên cơ sở cụ thể hoá các quan
điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Năm là, khi tiến hành KT,
GS, cán bộ kiểm tra phải chấp hành nghiêm chỉnh các nguyên tắc, quy định,
quy tắc, phương pháp, chế độ làm việc.
17
Đaobualapha Bavôngphết (2018), “Nguyên tắc kiểm tra của Đảng Nhân
dân cách mạng Lào - Thực trạng và những vấn đề đặt ra” [11], cho rằng trong
công tác kiểm tra, cần quán triệt, thực hiện các nguyên tắc: Tính đảng, tính
quần chúng, tính chính xác và khách quan, tính công khai, tính hiệu quả. Trong
tình hình mới, cần tiếp tục quán triệt, thực hiện tốt các nguyên tắc kiểm tra.
Muốn vậy: Phải tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức về công tác kiểm tra;
cấp ủy, ban kiểm tra cấp trên cần tăng cường kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ
kiểm tra của cấp ủy và ban kiểm tra cấp dưới theo quy định của Điều lệ Đảng;
ban kiểm tra các cấp cần tăng cường hơn nữa việc giám sát đối với đoàn kiểm
tra trong tiến hành các cuộc kiểm tra để chấn chỉnh kịp thời những vi phạm,
nhất là vi phạm nguyên tắc kiểm tra của Đảng.
1.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước có liên quan đến đề tài
luận án
1.2.1. Nhóm công trình nghiên cứu về công tác kiểm tra, giám sát và
kỷ luật của Đảng
Mai Thế Dương (2016), “Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của
Đảng qua 30 năm đổi mới” [32], đã đánh giá thực trạng thực hiện nhiệm vụ
KT, GS, kỷ luật đảng qua 30 năm đổi mới; rút ra bài học kinh nghiệm quan
trọng, đó là: Thường xuyên nắm vững quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta về công tác KT, GS, kỷ luật đảng; thực
hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của UBKT các cấp được quy định
trong Điều lệ Đảng; nắm vững và thực hiện tốt phương pháp cơ bản của công
tác KT, GS; luôn quan tâm xây dựng cơ quan UBKT và đội ngũ cán bộ kiểm
tra có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu công tác KT, GS. Các tác giả đã
đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác KT, GS, kỷ
luật đảng thời gian tới, đó là: Nâng cao nhận thức về công tác KT, GS, kỷ luật
đảng; đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy đảng đối với công tác KT, GS
và thi hành kỷ luật đảng; đổi mới phương thức KT, GS; đổi mới nội dung KT,
GS; đổi mới cơ chế bầu cử UBKT và mô hình tổ chức bộ máy cơ quan UBKT
các cấp; xây dựng và hoàn thiện các quy trình lãnh đạo và thực hiện công tác
18
KT, GS, thi hành kỷ luật đảng và giải quyết khiếu nại, tố cáo; xây dựng đội ngũ
cán bộ ngành Kiểm tra Đảng có phẩm chất, đủ năng lực thực hiện tốt nhiệm vụ
được giao đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
Hà Quốc Trị (2018), “Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với phòng,
chống lãng phí ở nước ta hiện nay - những vấn đề đặt ra và giải pháp” [149],
đã phân tích thực trạng, rút ra những kinh nghiệm và đề xuất sáu giải pháp tăng
cường công tác KT, GS của Đảng với phòng, chống lãng phí giai đoạn hiện
nay: Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm về vị trí, vai trò của công tác KT,
GS của Đảng đối với lãnh đạo, chỉ đạo đấu tranh phòng, chống lãng phí; Hai
là, xây dựng, hoàn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước để
chấp hành và KT, GS, xử lý vi phạm lãng phí; Ba là, tăng cường hoạt động
KT, GS của Đảng đối với phát hiện, ngăn chặn, chống lãng phí; Bốn là, kiện
toàn tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng cán bộ ngành Kiểm tra Đảng trong
phòng, chống lãng phí; Năm là, tăng cường KT, GS tổ chức đảng và cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp Trung ương trong phòng, chống lãng phí; Sáu là, phát
huy vai trò các tổ chức trong hệ thống chính trị và Nhân dân tham gia KT, GS
đấu tranh phòng, chống lãng phí.
Mai Thế Dương (2016), “Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng
góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong giai
đoạn cách mạng mới” [33], nhấn mạnh: Công tác KT, GS và kỷ luật của Đảng
đã góp phần quan trọng bảo vệ đường lối, quan điểm, các nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của Đảng; phát huy dân chủ, ngăn ngừa các nguy cơ của Đảng
cầm quyền, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, xây dựng đội ngũ cán bộ,
đảng viên; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, tăng cường sức mạnh
đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Tác giả đã đề xuất năm nhiệm vụ, giải pháp
nâng cao chất lượng công tác KT, GS: Một là, tiếp tục khẳng định KT, GS là
những chức năng, phương thức lãnh đạo của Đảng, một bộ phận quan trọng
trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng, trước hết là của cấp ủy và trách nhiệm
của người đứng đầu cấp ủy. Hai là, đổi mới, tăng cường công tác KT, GS đảm
bảo có chất lượng, hiệu lực, hiệu quả. Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo đối với
19
cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới, đảng viên thực hiện công tác KT, GS. Chỉ đạo
UBKT nâng cao chất lượng tham mưu và tổ chức thực hiện nhiệm vụ KT, GS.
Ba là, kết hợp KT, GS trong Đảng với phát huy trách nhiệm KT, GS, phản biện
của nhân dân, của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và các cơ
quan thông tin đại chúng đối với tổ chức đảng và đảng viên. Bốn là, phát huy
vai trò của UBKT trong việc tham mưu, tổ chức thực hiện và phối hợp với các
cơ quan, tổ chức có liên quan trong thực hiện nhiệm vụ KT, GS. Năm là, nâng
cao chất lượng nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về công tác KT, GS, kỷ
luật đảng. Tăng cường nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm về công tác KT, GS,
kỷ luật đảng ở trong nước và ở ngoài nước.
Đỗ Hùng Cường (2017), “Công tác kiểm tra, giám sát ở các tổ chức cơ
sở đảng” [24], khẳng định: Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, là hạt
nhân lãnh đạo của Đảng ở cơ sở. Để xây dựng tổ chức cơ sở đảng TSVM, một
trong những biện pháp cần thiết là phải chú trọng phòng ngừa đảng viên vi
phạm kỷ luật, mà trước hết và chủ yếu là chủ động phòng ngừa ngay từ chi bộ,
đảng bộ cơ sở. Thông qua việc theo dõi, giám sát, nắm tình hình đảng viên ở
nơi công tác và cả nơi cư trú, thông qua sinh hoạt tự phê bình và phê bình ở chi
bộ. Theo tác giả, để thực hiện tốt công tác KT, GS ở cơ sở, các tổ chức đảng
cần nắm vững Quy định số 30-QĐ/TW, ngày 26/7/2016 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng “Quy định thi hành Chương VII và Chương VIII Điều lệ
Đảng về công tác KT, GS, kỷ luật của Đảng”. Cụ thể là, nắm vững chủ thể, đối
tượng, nội dung, hình thức, phương pháp KT, GS ở cơ sở.
Tô Quang Thu (2018), “Công tác kiểm tra, giám sát góp phần thực hiện
thắng lợi Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn
Đảng” [142], khẳng định: Công tác KT, GS, kỷ luật đảng đã góp phần quan
trọng vào thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn cách mạng;
đổi mới và nâng cao phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, xây dựng
Đảng TSVM về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Tuy nhiên, tác giả cũng
chỉ ra: Chất lượng, hiệu quả công tác KT, GS và xử lý vi phạm chưa cao, chưa
đồng đều, dẫn đến chưa đủ sức góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng
- Xem thêm -