VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
MA PHÚC DỰ
NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN
CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
Ở TỈNH TUYÊN QUANG HIỆN NAY
Ngành
: Triết học
Chuyên ngành
: CNDVBC & CNDVLSD
Mã số
: 62 22 03 02
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2016
Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. Nguyễn Đình Tường
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học
viện họp tại Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam
Vào hồi….. giờ…..phút, ngày….. tháng….. năm 2016
Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia
và thư viện Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ là người triển khai những quan
điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước đến với
nhân dân, đồng thời cũng là người tổng kết, phản ánh những tâm tư
nguyện vọng của quần chúng nhân dân đến Đảng, đến Nhà nước. Như vậy
người cán bộ, đảng viên có vai trò rất quan trọng và to lớn - là cầu nối giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân và ngược lại.
Khi đánh giá về người cán bộ có rất nhiều tiêu chí cũng như phẩm
chất, như: trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng triển khai, xử lý các
nhiệm vụ được giao, tuổi tác và kinh nghiệm thực tiễn,… Một trong những
yêu cầu cũng như tiêu chuẩn đặc biệt nữa không thể thiếu của người cán
bộ, giúp cho cán bộ linh hoạt trong giải quyết các công việc được giao đó
là phải có năng lực tư duy lý luận.
Tư duy là một thuộc tính cơ bản của con người, tư duy nói chung và
tư duy lý luận nói riêng là cấp độ cao của quá trình nhận thức, phản ánh
những thuộc tính bản chất, tất nhiên, những mối liên hệ có tính quy luật
của khách thể nhận thức. Tư duy là sự phản ánh khái quát, chủ động, tích
cực và sáng tạo những mối quan hệ bản chất, những quy luật vận động của
mọi sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Kết quả của quá trình tư
duy sẽ đem lại cho chủ thể nhận thức những tri thức, sự hiểu biết sâu sắc,
toàn diện, đầy đủ, có tính hệ thống về đối tượng nhận thức. Khẳng định vai
trò của tư duy lý luận, Ăngghen đã cho rằng: “Một dân tộc muốn đứng
vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận”.
Công cuộc đổi mới của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng đang
diễn ra trong điều kiện hoàn cảnh mới. Thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa với mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng và
văn minh. Chúng ta đang đứng trước những thời cơ vận hội mới đồng thời
cũng đứng trước những khó khăn và thử thách mới. Cách mạng trên thế
giới có những bước thăng trầm, con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở nước
ta thường xuyên bị kẻ thù và các thế lực phản cách mạng chống phá trên
mọi phương diện, nhất là trên phương diện tư tưởng, văn hóa bằng các âm
mưu thủ đoạn khác nhau như: diễn biến hòa bình, xuyên tạc Chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bôi nhọ uy tín của Đảng, gây chia rẽ
kỳ thị dân tộc…
Để đánh giá, phân tích, kết luận, cảnh giác trước những âm mưu của
các thế lực thù địch và các sự kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội vô
cùng nhạy cảm, phức tạp này một cách khách quan, đội ngũ cán bộ, đảng
2
viên phải được trang bị một hệ thống lý luận hoàn chỉnh, khoa học, sắc bén
để chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Muốn được trang bị một hệ thống lý luận,
hoàn chỉnh, khoa học sắc bén đó họ phải nâng cao tầm nhận thức mới về lý
luận và hạt nhân của vấn đề này chính là nâng cao năng lực tư duy lý luận.
Tư duy lý luận với nền tảng nòng cốt là Triết học Mác - Lênin được
Đảng và Nhà nước ta vận dụng thực tiễn trong công cuộc đổi mới và đã
thu được những thắng lợi mang tính bước ngoặt. Tuy nhiên giữa lý luận và
thực tiễn có một khoảng cách khá xa, tình trạng giáo điều, sách vở, xa rời
quần chúng, lời nói không đi đôi với việc làm, tư tưởng không nhất quán
với hành động vẫn còn khá phổ biến. Do vậy, một số Nghị quyết, chủ
trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước khó đi vào cuộc
sống. Thậm chí có một số nơi, một số địa phương cán bộ còn hiểu và làm
sai lệch chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước dẫn đến
những hậu quả nghiêm trọng. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước cần phải
chú ý đến phát huy tiềm năng trí tuệ của con người Việt Nam, đẩy mạnh
công tác lý luận, đặc biệt là nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ
cán bộ, đảng viên.
Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía Bắc của Tổ quốc Việt Nam.
Trong những năm gần đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Đảng bộ
và nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang luôn quyết tâm phấn đấu xây
dựng và phát triển tỉnh nhà về mọi mặt, đã thu được nhiều kết quả quan trọng
trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và các vấn đề xã hội
khác. Có được những kết quả đó, một phần là sự quyết tâm của toàn tỉnh,
một phần khác là do năng lực hoạt động của đội ngũ cán bộ của tỉnh.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, trình độ nhận thức nói chung và năng
lực tư duy lý luận nói riêng của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở
tỉnh Tuyên Quang hiện nay (với đặc thù là tỉnh miền núi, đa phần là
người dân tộc thiểu số) còn nhiều hạn chế, tình trạng nghĩ và làm việc
theo thói quen, kinh nghiệm, giáo điều, trực quan, cảm tính vẫn đang là
lực cản trong bản thân đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số; khả năng
dự báo, đánh giá tình hình của một bộ phận cán bộ người dân tộc thiểu
số chưa cao, việc nắm bắt thông tin còn chưa nhạy bén, chưa kịp thời;
một bộ phận cán bộ người dân tộc thiểu số khi xử lý công việc vẫn còn
máy móc, nặng về kinh nghiệm, chưa tổng kết được kinh nghiệm thành
lý luận… Những hạn chế cơ bản nêu trên của đội ngũ cán bộ người dân
tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang cần được khắc phục nhằm đáp ứng yêu
cầu của thực tiễn đổi mới.
Từ kinh nghiệm và thực tiễn công tác tại địa phương, bản thân cũng
là một cán bộ người dân tộc thiểu số và với mong muốn góp một phần
3
tiếng nói tâm huyết từ cơ sở với công tác cán bộ ở địa phương Tuyên
Quang trong giai đoạn hiện nay, tôi chọn hướng nghiên cứu, cũng như đề
tài: “Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc
thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay” làm đề tài Luận án Tiến sĩ Triết
học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về nâng cao năng lực tư duy lý
luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay; thực
trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở
tỉnh Tuyên Quang; đưa ra những quan điểm, giải pháp cơ bản nâng cao
năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh
Tuyên Quang hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ được phạm trù năng lực tư duy lý luận, những yếu tố ảnh
hưởng tới năng lực tư duy lý luận cũng như vai trò của năng lực tư duy lý
luận đối với đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang
trong giai đoạn hiện nay.
- Phân tích thực trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay, nguyên nhân của
thực trạng và những vấn đề đặt ra từ thực trạng đó.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng
lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên
Quang hiện nay.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
3.1. Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của Chủ nghĩa duy
vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhất là lý luận nhận thức và
lôgic học mác - xít. Luận án cũng dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh, vận
dụng các Nghị quyết của Đảng ta về công tác cán bộ và vai trò của tư duy
lý luận trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài kế thừa kết quả của những công trình khoa học đã được công
bố trong những năm gần đây ở nước ta có liên quan đến đề tài. Sử dụng
các tài liệu, số liệu của cấp ủy Đảng, chính quyền từ tỉnh đến các xã qua
tổng hợp, thống kê, báo cáo tổng kết hàng năm.
- Để tiến hành nghiên cứu, đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp
như: phân tích, tổng hợp, lôgic, lịch sử, thống kê…
4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Luận án tập trung nghiên cứu thực trạng năng lực tư duy lý luận của
đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay và
những vấn đề mang tính phương pháp cần thiết để nâng cao năng lực tư
duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang
hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang trong
những năm gần đây. Các tư liệu, số liệu phục vụ cho nghiên cứu chủ yếu
từ năm 2010 đến nay.
5. Đóng góp của Luận án
- Làm sáng tỏ thêm về các phạm trù tư duy, tư duy lý luận, năng lực tư
duy lý luận; làm rõ được thực chất của việc nâng cao năng lực tư duy lý luận
cho đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang.
- Làm sáng tỏ được biểu hiện đặc thù về năng lực tư duy lý luận của
đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang.
- Chỉ ra được thực trạng và từ đó đưa ra quan điểm, giải pháp góp
phần nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc
thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang.
6. Ý nghĩa của Luận án
- Kết quả nghiên cứu của Luận án góp phần làm sáng tỏ thực trạng,
cung cấp giải pháp nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán
bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng,
hoạch định chiến lược, tổ chức đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số.
- Luận án có thể được dùng làm tài liệu trong nghiên cứu, giảng dạy
các vấn đề có liên quan.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
Luận án gồm 4 chương với 10 tiết.
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Đề tài nghiên cứu chung về vấn đề tư duy, tư duy lý luận và năng lực
tư duy lý luận
Có nhiều công trình khoa học nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề
về nguồn gốc, bản chất, đặc điểm, lịch sử hình thành của tư duy và tư duy
biện chứng duy vật; mối quan hệ giữa nội dung và phương pháp, trình độ
và năng lực của tư duy, các nguyên tắc và quy luật của tư duy và tư duy
biện chứng duy vật; mối quan hệ giữa tư duy hình thức và tư duy biện
chứng, tư duy lý luận và năng lực tư duy lý luận, tiêu biểu như: Nguyễn
Ngọc Long, “Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi mới tư duy” (Tạp
chí Cộng sản, số 10/1987); Nguyễn Văn Linh “Đổi mới tư duy và phong
cách tư duy”, (Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987); Nguyễn Bá Dương, “Về đặc
trưng của tư duy biện chứng duy vật” (Tạp chí Triết học số 5/1991); Trần
Đình Thoả, “Một số vấn đề tư duy biện chứng mác xít” (Tạp chí Triết học
số 2/2002); Nguyễn Mạnh Cương, “Về bản chất tư duy” (Tạp chí Triết
học số 1/2004); “Nửa thế kỷ nghiên cứu và giảng dạy Triết học ở Việt
Nam” do Nguyễn Trọng Chuẩn chủ biên (HN,2004); PGS.TS. Tô Huy
Rứa, GS.TS. Hoàng Chí Bảo, PGS.TS. Trần Khắc Viện, PGS.TS. Lê Ngọc
Tòng, “Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ 1986 đến nay”, (Nxb
Chính trị Quốc gia, HN, 2006); Lê Văn Quang, “Vai trò của Triết học
Mác-Lênin trong đổi mới tư duy lý luận ở Việt Nam hiện nay” (Tạp chí
Triết học số 8 (183), 2006); Nguyễn Ngọc Hà (2011), “Đặc điểm tư duy và
lối sống của con người Việt Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra trước
yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế” (Đề tài khoa học cấp Nhà nước);
Nguyễn Trọng Phúc, “Hồ Chí Minh từ hoạt động thực tiễn đến tư duy lý
luận” (, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2011)…
Sau khi nghiên cứu các công trình, rút ra một số kết luận:
Một là, khẳng định được tư duy là sản phẩm cao nhất của một dạng
vật chất được tổ chức một cách đặc biệt là bộ não của con người, là quá
trình phản ánh tích cực thế giới khách quan trong các khái niệm, phán
đoán, suy lý; khẳng định nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách
quan bởi bộ óc con người, là quá trình tạo thành tri thức trong bộ óc con
người về hiện thực khách quan; thấy được mối quan hệ giữa tư duy với
nhận thức; phân biệt được tư duy với nhận thức…
Hai là, từ việc tiếp cận lịch sử hình thành, phát triển của tư duy biện
chứng, so sánh tư duy biện chứng với các hình thức tư duy khác; phân loại
6
tư duy, phân tích đặc trưng của tư duy kinh nghiệm, từ đó đi đến xác định
khái niệm tư duy lý luận và phân tích làm rõ những đặc trưng cơ bản của
tư duy lý luận.
Ba là, khẳng định được vai trò của tư duy, tư duy lý luận, năng lực tư
duy lý luận đối với hoạt động của con người trong hoạt động thực tiễn, cải
tạo tự nhiên, cải tạo xã hội trước yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế.
Bốn là, các công trình nghiên cứu trên phân tích, đánh giá những
thành tựu nổi bật và chỉ rõ những hạn chế trong đổi mới tư duy lý luận của
Đảng; khẳng định việc đổi mới tư duy nói chung, đổi mới tư duy lý luận
nói riêng là một yêu cầu mang tính tất yếu trong quá trình phát triển của
thời đại, trong thời kỳ đổi mới của đất nước.
Năm là, khẳng định triết học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn
giữ được tính khoa học và đúng đắn, giúp cho Đảng Cộng sản và nhân dân
Việt Nam nhận thức đúng các vấn đề của thời đại; đồng thời, là cơ sở lý
luận và phương pháp để tư duy đúng đắn về con đường phát triển của cách
mạng Việt Nam.
1.2. Đề tài nghiên cứu về người dân tộc thiểu số, cán bộ người dân tộc
thiểu số
Có nhiều đề tài nghiên cứu về người dân tộc thiểu số và cán bộ người
dân tộc thiểu số cả ở nước ngoài và ở trong nước, tuy nhiên chỉ điểm qua
một số đề tài ở trong nước có liên quan đến Luận án, như: Nguyễn Phú
Trọng - Trần Xuân Sầm, “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”,
(Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2001); Bế Trường Thành, Phan Hữu Dật, Lê
Ngọc Thắng, “Vấn đề dân tộc và định hướng xây dựng chính sách dân tộc
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (, Nxb Chính trị Quốc gia,
HN, 2002); Lê Ngọc Thắng, “Chính sách dân tộc trong chiến lược Đại
đoàn kết toàn dân của Đảng ta”, ( Tạp chí Cộng sản, số 14, 2002); Luận
án Tiến sĩ Triết học của Trịnh Quang Cảnh (2002): “Trí thức người dân
tộc thiểu số ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới” (chủ yếu ở vùng dân tộc
thiểu số phía Bắc); Lê Phương Thảo, PGS.TS.Nguyễn Cúc và TS.Doãn
Hùng đồng chủ biên, “Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc Việt Nam trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa - Luận cứ và giải pháp”
(Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2006); Luận án Tiến sĩ Triết học của Lê
Quang Trung (2008): “Phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở vùng dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc nước ta hiện nay”; Lô Quốc
Toản Cuốn sách “Phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền
núi phía Bắc nước ta hiện nay” (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010);
7
Trương Thị Thu Hà, Luận văn thạc sỹ Triết học, 2010: “Vấn đề phát huy
nguồn nhân lực trẻ các dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay”…
Sau khi nghiên cứu rút ra kết luận:
Một là, các công trình nghiên cứu đều khẳng định vùng đồng bào các
dân tộc thiểu số có vị trí chiến lược quan trọng trong phát triển kinh tế, xã
hội, quốc phòng, an ninh của đất nước. Hiện nay vùng đồng bào các dân tộc
thiểu số sinh sống là vùng còn nhiều lạc hậu, khó khăn nhất trong cả nước,
cần được quan tâm, tạo điều kiện phát triển hơn cả nhằm đảm bảo sự cân
bằng giữa các vùng miền, đảm bảo cho đất nước phát triển toàn diện.
Hai là, đã khẳng định, đội ngũ cán bộ vùng dân tộc thiểu số có vai
trò vô cùng to lớn, là nhân tố có tính chất quyết định để thực hiện sự bình
đẳng, đoàn kết dân tộc, thực hiện sự tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát
triển trong cộng đồng các dân tộc trên đất nước Việt Nam. Chính vì thế
cần xây dựng được một đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số vững mạnh về
năng lực chuyên môn, phẩm chất chính trị, có trình độ tư duy lý luận...
Ba là, Chỉ ra những giải pháp trọng yếu nhằm đẩy mạnh phát triển
kinh tế - xã hội đối với vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng
đông đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống; trong đó đặc biệt chú ý đến
các giải pháp, chính sách đối với cán bộ là người dân tộc thiểu số.
1.3. Đề tài nghiên cứu về thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực tư
duy lý luận của đội ngũ cán bộ, đảng viên
Đã có nhiều đề tài nghiên cứu về thực trạng và giải pháp nâng cao
năng lực tư duy lý luận gắn với các đối tượng cụ thể là cán bộ, đảng viên,
học viên, sinh viên, lực lượng vũ trang, cán bộ quản lý các cấp. Sau đây là
một số công trình tiêu biểu: Hồ Bá Thâm, “Nâng cao năng lực tư duy của
đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện nay” (Luận án tiến sĩ Triết
học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1994); Nguyễn
Đình Trãi, “Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng viên lý
luận Mác-Lênin ở các trường chính trị tỉnh” (Luận án tiến sĩ Triết học,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2001); Trần
Thành, “Tư duy lý luận với hoạt động của người cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo
thực tiễn” (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003); Dương Minh
Đức, “Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh
vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay” (Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2006); Nguyễn Đức
Quyền, “Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt ở
tỉnh Lạng Sơn” (Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Khoa học xã hội, Hà
Nội, 2010)…
8
Đây là những công trình nghiên cứu tương đối gần với đề tài nghiên
cứu của Luận án, giúp cho tác giả Luận án nắm được phương pháp luận
trong nghiên cứu, mổ xẻ, phân tích vấn đề để làm rõ được vấn đề cần
nghiên cứu và thực hiện được mục đích nghiên cứu. Cụ thể trên các
phương diện sau:
Một là, vấn đề nâng cao năng lực tư duy lý luận của các chủ thể, đối
tượng cụ thể là người cán bộ, đảng viên, giảng viên, người cán bộ quản lý
các cấp... công tác trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Hai là, đánh giá thực trạng năng lực tư duy lý luận của các đối tượng
cụ thể (cán bộ, đảng viên, giảng viên) gắn với từng lĩnh vực công tác, đặc
thù vùng miền của các đối tượng, từ đó đề xuất một số giải pháp để nâng
cao năng lực tư duy lý luận cho các đối tượng đó.
Ba là, việc đề xuất một số quan điểm cũng như giải pháp nâng cao năng
lực tư duy lý luận phải trên cơ sở gắn với đối tượng cụ thể, điều kiện cụ thể,
cũng như với các yếu tố đặc thù khác của từng địa phương, đơn vị.
1.4. Một số vấn đề cần tiếp tục giải quyết trong luận án
Có thể nhận định, nghiên cứu về tư duy nói chung và tư duy lý luận
nói riêng không phải là một nội dung mới. Qua việc tiếp cận với các
nghiên cứu đã được lược khảo trên tôi thấy rằng các công trình nghiên cứu
trên tạo thành một bức tranh sinh động, phong phú về mảng nghiên cứu tư
duy lý luận. Các công trình nghiên cứu đã giúp tôi có tiếp cận các tri thức
chung về tư duy, tư duy lý luận, năng lực tư duy lý luận; các vấn đề thực
tiễn của các địa phương trong cả nước; những vấn đề về dân tộc và chính
sách dân tộc của Đảng, Nhà nước;... Đặc biệt hơn là phương pháp trong
việc đánh giá, nhìn nhận vấn đề, đóng vai trò tiền đề, là phương pháp luận
để tác giả thực hiện đề tài của mình. Tuy nhiên tôi thấy rằng, các công
trình nghiên cứu trên và công trình nghiên cứu của chúng tôi có những
điểm khác biệt cần có hướng nghiên cứu mới.
Một là, Luận án sẽ khái quát và bổ sung rõ thêm vấn đề tư duy, tư
duy lý luận trong mối quan hệ với vấn đề nhận thức luận.
Hai là, Luận án làm rõ hơn khái niệm “năng lực tư duy lý luận” và
quan trọng nhất là phải giải quyết được “thực chất của việc nâng cao năng
lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở Việt Nam
hiện nay” là gì.
Ba là, Trên cơ sở thực trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ
cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang, luận án đưa ra một số
quan điểm và đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực tư duy lý luận
9
của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay
sát với những điều kiện cụ thể về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của
tỉnh Tuyên Quang.
Kết luận chương 1
Qua tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài có thể thấy
hầu hết các công trình trên đã nghiên cứu được các vấn đề chung về tư duy,
tư duy biện chứng, tư duy lý luận trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh; khẳng định được vai trò của tư duy, tư duy lý luận,
năng lực tư duy lý luận đối với hoạt động của con người trong hoạt động
thực tiễn, cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội trước yêu cầu đổi mới và hội nhập
quốc tế; khẳng định vùng đồng bào các dân tộc thiểu số có vị trí chiến lược
quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước;
khẳng định đội ngũ cán bộ vùng dân tộc thiểu số có vai trò vô cùng to lớn, là
nhân tố có tính chất quyết định để thực hiện sự bình đẳng, đoàn kết dân tộc,
thực hiện sự tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển trong cộng đồng các dân
tộc trên đất nước Việt Nam…
Việc đổi mới tư duy lý luận gắn với việc nâng cao năng lực tư duy lý
luận của các chủ thể, đối tượng cụ thể là người cán bộ, đảng viên, giảng
viên, người cán bộ quản lý các cấp... công tác trong nhiều lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội. Chính vì vậy, việc đánh giá thực trạng năng lực
tư duy lý luận của các đối tượng cụ thể phải gắn với từng lĩnh vực công
tác, đặc thù vùng miền của các đối tượng cụ thể là một việc rất quan trọng,
từ đó đề xuất một số giải pháp thiết thực để nâng cao năng lực tư duy lý
luận cho các đối tượng đó.
Chương 2
NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆC NÂNG
CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Tư duy lý luận và năng lực tư duy lý luận
2.1.1. Tư duy lý luận
* Tư duy
Tư duy là trình độ cao của quá trình nhận thức nảy sinh trên cơ sở
nhận thức cảm tính. Đó là trình độ phản ánh khái quát hóa, trừu tượng hóa,
mang tính tích cực sáng tạo, hướng sâu vào nhận thức bản chất, quy luật
vận động và phát triển của thế giới khách quan.
10
* Tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận
Tư duy kinh nghiệm là tri thức do con người thu được qua thực tiễn
sản xuất, đấu tranh xã hội, tiếp nhận trực tiếp từ quan sát sự vật, hiện
tượng cụ thể, khách quan, nhưng rời rạc, bề ngoài, riêng lẻ, cục bộ, chưa
sâu sắc, chưa đi sâu, khái quát về bản chất, tất yếu bên trong vốn có của sự
vật, hiện tượng.
Tư duy lý luận, xét về bản chất là quá trình sáng tạo lại hiện thực
khách quan dưới dạng tinh thần, theo con đường từu tượng hóa, khái quát
hóa, đi sâu vào nhận thức những mối quan hệ nội tại, bản chất, quy luật
của sự vật và hiện tượng.
2.1.2. Năng lực tư duy lý luận
Có thể hiểu: Năng lực tư duy lý luận là tổng hợp các phẩm chất trí tuệ
của chủ thể nhất định, đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức đúng đắn bản
chất, quy luật của sự vật, hiện tượng, quá trình ở trình độ lý luận nhanh,
nhạy bén, sáng tạo và có những dự báo, đề xuất thiết thực góp phần nâng
cao hiệu quả hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
2.2. Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số và thực chất, vai trò việc
nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc
thiểu số ở Việt Nam hiện nay
2.2.1. Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số và một số vấn đề về đội ngũ
cán bộ người dân tộc thiểu số
* Khái niệm “cán bộ”:
Theo quan niệm của Đảng ta hiện nay, “cán bộ” được hiểu là những
người công tác trong một tổ chức xác định của Hệ thống chính trị, bao
gồm: bộ máy của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị; có năng lực chuyên môn và trình độ công tác nhất định phù hợp
với vị trí và nhiệm vụ được giao; có trách nhiệm và nghĩa vụ tuyệt đối
trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân; tận tụy phục vụ nhân dân,
sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì lợi ích của Đảng và dân tộc.
* Khái niệm “cán bộ dân tộc thiểu số”
Có thể hiểu về khái niệm “cán bộ dân tộc thiểu số”: Cán bộ dân tộc
thiểu số là những người có thành phần xuất thân từ các dân tộc thiểu số
công tác trong một tổ chức xác định của Hệ thống chính trị, bao gồm: bộ
máy của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị; có
năng lực chuyên môn và trình độ công tác nhất định phù hợp với vị trí và
nhiệm vụ được giao; có trách nhiệm và nghĩa vụ tuyệt đối trung thành với
Đảng, Tổ quốc và nhân dân; tận tụy phục vụ nhân dân, sẵn sàng chiến
đấu, hy sinh vì lợi ích của Đảng và dân tộc.
11
* Một số vấn đề về đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số hiện nay:
- Về cơ cấu cán bộ, ở không ít địa phương, đội ngũ cán bộ người dân
tộc thiểu số chiếm gần 50%, trong khi các dân tộc thiểu số trong toàn tỉnh
chiếm trên 70 %.
- Về năng lực, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số được hình thành
và phát triển cùng với quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam, từ đấu
tranh giành độc lập đến xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số hiện nay, chủ yếu trưởng
thành qua cuộc kháng chiến chống Mỹ và xây dựng Chủ nghĩa xã hội
trong thời kỳ bao cấp trước đây và những năm đổi mới vừa qua, họ có bản
lĩnh chính trị vững vàng, trung thành và tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh
đạo của Đảng, không dao động trước những âm mưu diễn biến hòa bình
của các thế lực thù địch, trước những biến động phức tạp của tình hình
trong nước và quốc tế.
- Đại đa số cán bộ người dân tộc thiểu số có đạo đức trong sáng, lối
sống lành mạnh, gần gũi với đồng chí, đồng nghiệp, tận tụy hết lòng với
công việc; phát huy phẩm chất cách mạng của người cán bộ đảng viên;
trung thực, thật thà và thắng thắn đấu tranh chống tiêu cực.
- Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số hiện nay được đào tạo từ
nhiều nguồn và bằng nhiều phương thức khác nhau.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân tộc thiểu số tuy đã
được đẩy mạnh nhưng hiệu quả còn thấp, chất lượng chưa cao.
2.2.2. Thực chất, vai trò việc nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội
ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay
Thực chất của việc nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán
bộ người dân tộc thiểu số hiện nay là làm cho đội ngũ này trở thành động
lực để thực hiện các mục tiêu đã đặt ra; là nâng cao các phẩm chất trí tuệ
(tri thức, văn hóa, năng lực tư duy biện chứng, tư duy khoa học, tư duy
sáng tạo…) nhanh, nhạy, đúng đắn và sáng tạo đối với hiện thực, từ đó
hình thành bản lĩnh chính trị, năng lực thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của người cán bộ dân tộc
thiểu số.
Vai trò việc nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay thể hiện ở các nội dung sau:
12
- Việc nâng cao năng lực tư duy lý luận là tiền đề quan trọng giúp
đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số nhận thức sâu sắc về bản chất cách
mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
nhận thức đúng đắn những quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước và tiếp thu những tri thức khoa học khác, kiên
định, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động.
- Việc nâng cao năng lực tư duy lý luận giúp đội ngũ cán bộ người
dân tộc thiểu số không chỉ tự nhận thức đúng đắn những vấn đề đã, đang
diễn ra đồng thời biết vận dụng sáng tạo lý luận trong việc đề ra những
hoạt động thực tiễn tiếp theo.
- Việc nâng cao năng lực tư duy lý luận giúp đội ngũ cán bộ người
dân tộc thiểu số phát huy được năng lực xử lý thông tin, trên cơ sở đó đưa
ra được các quyết định đúng đắn, chính xác, kịp thời, phù hợp với tình
hình thực tiễn.
- Việc nâng cao năng lực tư duy lý luận giúp đội ngũ cán bộ người
dân tộc thiểu số nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn.
- Việc nâng cao năng lực tư duy lý luận giúp đội ngũ cán bộ người
dân tộc thiểu số nâng cao năng lực phê phán, đấu tranh với những cái sai,
cái lạc hậu, bảo thủ
- Việc nâng cao năng lực tư duy lý luận giúp đội ngũ cán bộ người
dân tộc thiểu số nâng cao năng lực tổ chức, động viên, giáo dục, thuyết
phục, tập hợp cán bộ, quần chúng nhân dân để tạo thành phong trào cách
mạng sâu rộng.
- Việc nâng cao năng lực tư duy lý luận giúp đội ngũ cán bộ người
dân tộc thiểu số nâng cao tinh thần lạc quan vượt qua mọi gian khổ, thử
thách, khó khăn trong quá trình nghiên cứu lý luận, hoạt động thực tiễn.
Kết luận chương 2
Tư duy là trình độ cao của quá trình nhận thức nảy sinh trên cơ sở
nhận thức cảm tính. Đó là trình độ phản ánh khái quát hóa, trừu tượng hóa,
mang tính tích cực sáng tạo, hướng sâu vào nhận thức bản chất, quy luật
vận động và phát triển của thế giới khách quan. Tư duy là quá trình suy
nghĩ, tìm tòi, vận dụng kết hợp các khái niệm, phạm trù theo các nguyên
tắc, quy luật lôgíc hình thức và lôgíc biện chứng nhằm đạt đến chân lý. Tư
duy là quá trình sáng tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần, là sự tìm tòi đề
13
xuất những nhận thức mới và không ngừng bổ sung phát triển các nhận
thức đó trên cơ sở hoạt động thực tiễn của con người. Ở trình độ tư duy, sự
vật được phản ánh khái quát trong các hình thức khái niệm, phán đoán, suy
lý. Tư duy luôn gắn liền với ngôn ngữ, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư
duy, tư duy phải được diễn đạt thành ngôn ngữ bởi vì đó là hiện thực trực
tiếp của tư tưởng, là phương tiện để diễn đạt kết quả của sự nhận thức, để
lưu giữ và tiếp tục phát triển kết quả của nhận thức đó.
Năng lực tư duy lý luận là phạm trù dùng để chỉ những mặt của quá
trình hoạt động thống nhất của tư duy. Năng lực tư duy lý luận là tổng hợp
các phẩm chất trí tuệ của chủ thể đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức (ở
trình độ lý luận) nhanh, nhạy, đúng đắn và sáng tạo đối với hiện thực, nhờ
vậy, có những đề xuất sắc bén góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thực
tiễn của con người.
Hiện nay, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số đã được hình thành
ở khắp mọi miền của Tổ quốc. Họ có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung
thành và tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, không dao động
trước những âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch, trước
những biến động phức tạp của tình hình trong nước và quốc tế; có đạo đức
trong sáng, lối sống lành mạnh, gần gũi với đồng chí, đồng nghiệp, tận tụy
hết lòng với công việc, cố gắng vươn lên nắm bắt những yêu cầu mới đặt
ra trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế mở cửa và hội nhập.
Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận cán bộ người dân tộc thiểu số có nhiều
hạn chế trong quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn, đặc biệt là hạn chế
về năng lực vận động quần chúng. Những hạn chế đó là biểu hiện hạn chế về
năng lực tư duy lý luận. Để phát huy được những mặt mạnh, hạn chế những
yếu kém, việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ người
dân tộc thiểu số hiện nay là điều vô cùng cần thiết.
Thực chất của việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán
bộ người dân tộc thiểu số hiện nay chính là làm cho đội ngũ này trở thành
động lực để thực hiện các mục tiêu đã đặt ra; là nâng cao các phẩm chất trí
tuệ (tri thức, văn hóa, năng lực tư duy biện chứng, tư duy khoa học, tư duy
sáng tạo…) nhanh, nhạy, đúng đắn và sáng tạo đối với hiện thực, từ đó
hình thành bản lĩnh chính trị, năng lực thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của người cán bộ dân tộc
thiểu số.
14
Chương 3
THỰC TRẠNG NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN
CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘNGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
Ở TỈNH TUYÊN QUANG HIỆN NAY
3.1. Khái quát về người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang và một
số đặc điểm cơ bản của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh
Tuyên Quang hiện nay
3.1.1. Khái quát về người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang
Về dân số và cư trú
Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, có vị trí địa
lý từ 21o30’ đến 22o41’ độ vĩ Bắc, từ 104o50’ đến 105o35’ độ kinh Đông.
Diện tích tự nhiên của tỉnh Tuyên Quang là 5.780km2, trong đó vùng cao
chiếm 53% diện tích. Toàn tỉnh gồm có 6 huyện và 1 thành phố, với 141 xã,
phường, thị trấn; 2.096 thôn, bản, tổ nhân dân, trong đó có 761 thôn, bản đặc
biệt khó khăn, 32 xã vùng cao, 2 xã vùng sâu, vùng xa; dân số toàn tỉnh
746.669 người (năm 2013), thành thị 98.693 người, nông thôn 647.796
người; có 61 xã đặc biệt khó khăn, xã an toàn khu và 245 thôn, bản đặc biệt
khó khăn ở các xã khu vực I và khu vực II thuộc điện đầu tư Chương trình
135. Tỉnh có 22 dân tộc, trong đó dân tộc kinh chiếm 46,27%, dân tộc Tày
chiếm 25,56%, dân tộc Dao chiếm 12,39%, dân tộc Sán Cháy 8,45%, còn lại
là các dân tộc khác.
Đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang sinh sống xen kẽ với
các dân tộc khác, chủ yếu ở các xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng núi,
giao thông đi lại khó khăn; nhà ở chủ yếu làm bằng gỗ; mỗi dân tộc có
những đặc điểm riêng về phong tục, tập quán. Từng môi trường sinh sống
đó đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển sản xuất, ổn định đời sống
cũng như phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội trong đồng bào.
Về kinh tế và đời sống
Kinh tế của đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang còn nhiều
khó khăn, sống chủ yếu dựa vào nương rẫy; chăn nuôi và ngành nghề thủ
công kém phát triển, trình độ canh tác còn lạc hậu, năng suất lao động thấp,
sản xuất mang nặng tính tự cấp tự túc, phụ thuộc vào thiên nhiên. Những
năm qua cơ sở hạ tầng được đầu tư; hệ thống chính trị được củng cố; trình độ
đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số được nâng lên; bộ mặt nông thôn miền
núi có nhiều đổi mới; đời sống vật chất và tinh thần đồng bào các dân tộc
thiểu số ngày càng được cải thiện; an ninh chính trị được duy trì và giữ vững.
Về văn hóa - xã hội
15
Trình độ dân trí của đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang
còn thấp và không đồng đều, tỷ lệ người không biết chữ vẫn còn, nhưng đa
số người dân tộc thiểu số biết nói tiếng phổ thong; đa số học sinh dân tộc
thiểu số chỉ học hết cấp I hoặc cấp II là bỏ học, số theo học ở các trường
Trung học phổ thông, các trường Đại học, Cao đẳng chiếm tỷ lệ rất ít.
Các dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang có ngôn ngữ riêng; có kho
tàng văn học nghệ thuật phong phú, nhiều thể loại. Đặc biệt hát Then, hát
Lượn, Sình ca, Páo dung, tiếng khèn, tiếng sáo, đàn môi, kèn lá được
người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang sử dụng trong cuộc sống
thường ngày.
3.1.2. Một số đặc điểm cơ bản của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số
ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay
Có thể hiểu đội ngũ Cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên
Quang hiện nay là những người công tác trong các tổ chức Đảng, Chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội ở 3 cấp (gồm
cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã) có thành phần xuất thân từ các dân tộc thiểu
số; có năng lực chuyên môn và trình độ công tác nhất định phù hợp với vị
trí và nhiệm vụ được giao; có trách nhiệm và nghĩa vụ tuyệt đối trung thành
với Đảng, Tổ quốc và nhân dân; tận tụy phục vụ nhân dân, sẵn sàng chiến
đấu, hy sinh vì lợi ích của Đảng và dân tộc.
Có thể khái quát những đặc điểm cơ bản về đội ngũ cán bộ người dân
tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay như sau:
- Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện
nay công tác ở các cấp trong tỉnh (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã), nhiều cán
bộ người dân tộc thiểu số đảm nhận những vị trí công tác trọng yếu trong
hệ thống chính trị của tỉnh.
- Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện
nay đa số đều được đào tạo, có năng lực và trình độ công tác cơ bản đáp
ứng yêu cầu của nhiệm vụ được giao.
- Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện
nay hầu hết đều am hiểu phong tục tập quán của các dân tộc và có khả
năng sử dụng ngôn ngữ của dân tộc mình.
- Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang đều
thấm nhuần truyền thống cách mạng của quê hương.
3.2. Đánh giá năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân
tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay
3.2.1. Ưu điểm năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc
thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay
16
Một là, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang có
bản lĩnh chính trị vững vàng, nắm bắt được bản chất cách mạng, khoa học
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Do đó, dễ dàng vận
dụng được vào thực tiễn công tác của mình góp phần quan trọng trong quá
trình phát triển của tỉnh Tuyên Quang
Hai là, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang đã
vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng, từ đó đưa ra được các chủ
trương phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với điều kiện địa phương.
Ba là, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số hiện nay hầu hết đều có
thế mạnh về kinh nghiệm thực tiễn
Bốn là, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số từng bước đấu tranh,
phê phán những cái sai, đẩy lùi cái lạc hậu, bảo thủ; bảo vệ cái đúng, cái
tiến bộ
Năm là, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số luôn xác định được
khó khăn, thử thách, từng bước nâng cao năng lực tổ chức, động viên, giáo
dục, thuyết phục, tập hợp cán bộ, quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi
sự nghiệp cách mạng của tỉnh
Nguyên nhân của những ưu điểm năng lực tư duy lý luận
Trước hết, đó là sự nỗ lực, tự giác phấn đấu, khắc phục mọi khó
khăn trong học tập và rèn luyện của bản thân đội ngũ cán bộ người dân tộc
thiểu số.
Thứ hai, do có chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước đối với
người dân tộc thiểu số cũng như sự vận dụng linh hoạt các chủ trương đó
vào điều kiện cụ thể của tỉnh Tuyên Quang - một tỉnh có đông đồng bào
dân tộc thiểu số sinh sống.
Thứ ba, do Đảng bộ, chính quyền các cấp tỉnh Tuyên Quang thường
xuyên quan tâm và xác định đúng đắn tầm quan trọng của công tác dân tộc,
vai trò của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số trong hệ thống chính trị.
Thứ tư, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên
Quang luôn phát huy được tinh thần đoàn kết, truyền thống quê hương cách
mạng từ đó tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ được phấn đấu, cống hiến cho
sự nghiệp cách mạng của tỉnh.
3.2.2. Hạn chế năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc
thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay
Một là, vẫn còn một bộ phận cán bộ người dân tộc thiểu số chưa
vượt qua được tư tưởng nặng về tập quán truyền thống
17
Hai là, một bộ phận cán bộ người dân tộc thiểu số khi xử lý công
việc vẫn còn máy móc, nặng về kinh nghiệm, chưa tổng kết được kinh
nghiệm thành lý luận
Ba là, khả năng dự báo, đánh giá tình hình của một bộ phận cán bộ
người dân tộc thiểu số chưa cao, việc nắm bắt thông tin còn chưa nhạy
bén, chưa kịp thời
Nguyên nhân của những hạn chế về năng lực tư duy lý luận
Những hạn chế về năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người
dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang xuất phát từ những nguyên nhân
chính sau đây:
Một là, do là tỉnh miền núi với những điều kiện khó khăn về điều
kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội, môi trường sống, sinh hoạt và làm
việc, trình độ dân trí thấp đã ảnh hưởng đến sự phát triển và nâng cao năng
lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số.
Hai là, trình độ học vấn, trình độ lý luận, chuyên môn, nghiệp vụ
còn hạn chế, đặc biệt là ý thức tự học tập, rèn luyện nâng cao trình độ về
mọi mặt của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số còn hạn chế đã ảnh
hưởng rất lớn đến năng lực tư duy lý luận của họ.
Ba là, những hạn chế, bất cập trong công tác quy hoạch, bố trí, sử
dụng, luân chuyển cán bộ người dân tộc thiểu số đã dẫn đến những hạn chế
nhất định trong việc nâng cao năng lực tư duy lý luận của cán bộ người
dân tộc thiểu số.
Bốn là, cơ chế, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ người dân tộc
thiểu số, đặc biệt trong việc cử cán bộ đi đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ
còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế.
Kết luận chương 3
Năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số
ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay có nhiều ưu điểm tích cực đó là có bản
lĩnh chính trị vững vàng, nắm bắt được bản chất cách mạng, khoa học
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; có thế mạnh về kinh
nghiệm thực tiễn, vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng vào
thực tiễn của tỉnh, đưa ra được các chủ trương phát triển kinh tế - xã hội
phù hợp với điều kiện địa phương; từng bước đấu tranh, phê phán những
cái sai, đẩy lùi cái lạc hậu, bảo thủ; bảo vệ cái đúng, cái tiến bộ; luôn
vượt qua khó khăn, thử thách, từng bước nâng cao năng lực tổ chức,
động viên, giáo dục, thuyết phục, tập hợp cán bộ, quần chúng nhân dân
thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng của tỉnh. Tuy nhiên, đội ngũ
cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang vẫn còn biểu hiện một
18
số hạn chế, yếu kém nhất định như vẫn còn một bộ phận cán bộ người
dân tộc thiểu số có tư tưởng nặng về tập quán truyền thống; khi xử lý
công việc vẫn còn máy móc, nặng về kinh nghiệm, chưa tổng kết được
kinh nghiệm thành lý luận; khả năng dự báo, đánh giá tình hình của một
bộ phận cán bộ người dân tộc thiểu số chưa cao, việc nắm bắt thông tin
còn chưa nhạy bén, chưa kịp thời.
Nguyên nhân tạo nên ưu điểm và hạn chế về năng lực tư duy lý luận
của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay
xuất phát từ nhiều yếu tố, trong đó có những nguyên nhân mang tính phổ
biến mà đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay đều tồn tại, nhưng cũng có
những nguyên nhân xuất phát từ một tỉnh miền núi có nhiều đồng bào
người dân tộc thiểu số sinh sống. Chính vì vậy, yêu cầu của sự nghiệp đổi
mới đất nước nói chung, đổi mới tư duy nói riêng đang đặt ra yêu cầu cho
đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang phải phát huy
được những ưu điểm, tích cực và khắc phục được những yếu kém, hạn chế
trong năng lực tư duy lý luận. Có như thế đội ngũ cán bộ người dân tộc
thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang mới đáp ứng được những yêu cầu, nhiệm vụ
trong giai đoạn hiện nay.
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN
NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
Ở TỈNH TUYÊN QUANG HIỆN NAY
4.1. Quan điểm về nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán
bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay
Một số quan điểm cơ bản mang tính định hướng trong quá trình
nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số
ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay.
Một là, cần có những quan niệm đúng về thực chất việc nâng cao
năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số. Ở một
số ít người hiện tại chỉ xem quá trình này như là kết quả tác động một
chiều từ phía Nhà nước mà không thấy được nó còn là kết quả của quá
trình “phát triển nội tại”, quá trình phát huy hết khả năng, năng lực của đội
ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số.
Hai là, nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người
dân tộc thiểu số phải gắn liền với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng
cao dân trí cho cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh
- Xem thêm -