Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận án đổi mới công tác tuyên truyền của đảng đáp ứng yêu cầu hội nhâ...

Tài liệu Luận án đổi mới công tác tuyên truyền của đảng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ở việt nam hiện nay

.PDF
159
44
53

Mô tả:

Häc viÖn chÝnh trÞ quèc gia Hå chÝ minh LÊ MAI TRANG §æi Míi C¤NG T¸c TUY£N TruyÒn Cña §¶ng §¸p øng Y£U CÇu Héi NhËp Quèc TÕ ë ViÖt NAM HiÖn NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC Mã số: 62 31 20 01 Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. LÊ MINH QUÂN 2. TS. ĐOÀN TRƯỜNG THỤ HÀ NỘI - 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Lê Mai Trang Lê Mai Trang MỤC LỤC Trang 1 MỞ ĐẦU Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước 7 7 13 Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN CỦA ĐẢNG TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ 2.1. Những vấn đề lý luận về tuyên truyền và công tác tuyên truyền của Đảng 2.2. Những vấn đề lý luận về hội nhập quốc tế và yêu cầu của hội nhập quốc tế đối với công tác tuyên truyền của Đảng 20 20 34 Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN CỦA ĐẢNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. Thực trạng công tác tuyên truyền của Đảng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay 3.2. Vấn đề đặt ra đối với công tác tuyên truyền của Đảng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay 58 58 97 Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN CỦA ĐẢNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 4.1. Phương hướng đổi mới công tác tuyên truyền của Đảng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế 4.2. Giải pháp về đổi mới công tác tuyên truyền đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay KẾT LUẬN DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ Đà CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 102 102 103 140 145 146 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ANQP : An ninh quốc phòng CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNXH : Chủ nghĩa xã hội CTTT : Công tác tuyên truyền CU : Liên minh thuế quan FTA : Khu vực mậu dịch tự do HNQT : Hội nhập quốc tế NXB : Nhà xuất bản PTA : Thỏa thuận thương mại ưu đãi WTO : Tổ chức Thương mại thế giới XHCN : Xã hội chủ nghĩa 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công tác tuyên truyền (CTTT), từ góc độ của khoa học chính trị, nhất là chính trị học, là hình thức hoạt động quan trọng và cần thiết của một đảng chính trị nhằm thực hiện nhiệm vụ giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước. Đó là do CTTT - một bộ phận cấu thành quan trọng của công tác tư tưởng - có nhiệm vụ truyền bá hệ tư tưởng và đường lối cách mạng trong quần chúng; xây dựng thế giới quan, niềm tin chính trị, tập hợp và cổ vũ quần chúng hoạt động cách mạng. Vai trò của CTTT là làm cho lý luận thâm nhập sâu vào quần chúng, tạo nên sự thống nhất giữa tư tưởng và hành động và thông qua đó biến lý luận thành thực tiễn. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, CTTT của Đảng không chỉ phương thức truyền bá hệ tư tưởng chính trị, làm cho hệ tư tưởng của giai cấp công nhân trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội; mà còn trở thành phương thức cầm quyền của Đảng - tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Hơn nữa, CTTT của Đảng còn trở thành một nội dung, một mắt khâu quan trọng của chu trình chính sách công - từ nghị trình chính sách đến quyết định, thực thi và đánh giá chính sách. Trong sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam (sau đây gọi tắt là Đảng) và dân tộc ta, CTTT trở thành công tác cách mạng và là công tác cách mạng đầu tiên của của Đảng. CTTT có vai trò hết sức to lớn trong việc truyền bá, phổ biến hệ tư tưởng cách mạng trong xã hội, trước hết là trong các lực lượng xã hội tiên tiến, khơi dậy tinh thần yêu nước, tính sáng tạo của quần chúng, động viên lực lượng quần chúng tham gia sự nghiệp cách mạng. CTTTcủa Đảng đã cổ vũ toàn dân tộc theo Đảng, làm nên Cách mạng Tháng Tám, lập nên Nhà nước dân chủ cộng hòa, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. 2 Sau khi giành được chính quyền và trở thành đảng cầm quyền, CTTT trở thành một trong những phương thức cầm quyền của Đảng, đóng góp to lớn vào việc xây dựng chính quyền và các đoàn thể nhân dân đáp ứng các yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng. Trong thời kỳ đổi mới, CTTT của Đảng đã có nhiều đổi mới, ngày càng trở thành bộ phận quan trọng trong công tác tư tưởng của Đảng nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, góp phần vào việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) và hội nhập quốc tế (HNQT). Trong mối quan hệ giữa CTTT của Đảng và HNQT, với tính cách là trường hợp nghiên cứu hay đối tượng nghiên cứu của luận án này, có thể thấy CTTT của Đảng đã có những đóng góp quan trọng vào quá trình và HNQT ở nước ta. CTTT của Đảng về HNQT đã tích lũy được những bài học kinh nghiệm bước đầu quý báu, làm cơ sở cho việc tiếp tục hoàn thành chức năng, nhiệm vụ tuyên truyền đáp ứng yêu cầu của HNQT ở nước ta hiện nay và những năm tới. Tuy nhiên, CTTT Đảng trong điều kiện HNQT cũng bộc lộ nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Về khách quan, đó là những khó khăn của tình hình kinh tế - xã hội, điểm xuất phát thấp của đất nước khi tham gia HNQT, sự biến động phức tạp của tình hình thế giới. Về chủ quan, CTTT của Đảng về HNQT còn ít sức hấp dẫn, chưa cập nhật, chưa chủ động. Phương pháp CTTT của Đảng trong điều kiện HNQT cơ bản vẫn một chiều, còn biểu hiện chủ quan, giáo điều, hình thức, ít đối thoại, tranh luận, thảo luận dân chủ. Việc định hướng thông tin còn chậm, để có thông tin không chính thống, thông tin xấu lan tràn nhanh rộng trong xã hội, tác động không tốt đến tư tưởng của cán bộ và nhân dân. Việc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái còn bị động, nội dung chưa sắc bén, chưa kịp thời thu hút 3 được đông đảo các lực lượng xã hội tham gia. Phạm vi tác động của CTTT của Đảng còn hạn hẹp, phương tiện thông tin còn thiếu thốn và lạc hậu. Tổ chức bộ máy CTTT của Đảng chưa tinh gọn, thiếu tính chuyên nghiệp. Đội ngũ cán bộ làm CTTT của Đảng còn nhiều hạn chế về năng lực và trách nhiệm, trình độ công nghệ thông tin còn hạn chế. Công tác tuyên truyền của Đảng còn những bất cập nhất định như trình độ nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân ngày càng cao; yêu cầu và mức độ cập nhật thông tin của cán bộ đảng viên và nhân dân ngày càng nhanh chóng và đa chiều; chủ thể và đối tượng của CTTT của Đảng ngày càng đa dạng và phức tạp; phạm vi và giới hạn của CTTT của Đảng ngày càng rộng rãi, không chỉ tuyên truyền ở trong nước mà còn tuyên truyền ra với thế giới. Thực hiện chủ trương của Đại hội IX về chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 27/11/2001 của Bộ Chính trị (khóa IX) về hội nhập kinh tế quốc tế; chủ trương của Đại hội X về chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác và Nghị quyết Trung ương 8 (Khóa X) ngày 05/02/2007 về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới; chủ trương của Đại hội XI về HNQT, Nghị quyết Bộ Chính trị (Khóa XI) ngày 10/4/2013 về HNQT, đã đánh giá những thành tựu, hạn chế và vấn đề đặt ra đối với quá trình HNQT, trong đó có CTTT của Đảng. Nghị quyết Bộ Chính trị (Khóa XI) ngày 10/4/2013 về HNQT xác định: "Tuyên truyền sâu rộng trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân về yêu cầu hội nhập quốc tế, về các cơ hội và thách thức, về phương hướng, nhiệm vụ trọng yếu của hội nhập quốc tế trong từng ngành, từng lĩnh vực, để thống nhất nhận thức và hành động, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong quá trình hội nhập quốc tế" [35] là một trong những định hướng chỉ yếu của HNQT ở nước ta hiện nay. Theo đó, CTTT của Đảng cần phải được đổi mới về vị trí 4 và chức năng, nội dung và hình thức, phương pháp và phương tiện, tổ chức bộ máy và cán bộ. Công cuộc đổi mới nói chung, HNQT nói riêng đang đặt ra cho CTTT của Đảng những yêu cầu mới - dân chủ,khách quan, kịp thời, chủ động, đa chiều,... CTTT của Đảng không chỉ là sự thuyết phục bằng lý luận mà còn phải được chứng minh bằng thực tiễn sinh động. Nếu trước kia chỉ cần coi trọng một mặt “Đảng nói, dân tin”, nhưng ngày nay phải chú trọng hơn mặt thứ hai “Đảng làm, dân theo”, “Dân nói, Đảng nghe”. Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả lựa chọn vấn đề: “Đổi mới công tác tuyên truyền của Đảng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài Luận án tiến sĩ Chính trị học của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về đổi mới CTTT của Đảng. Luận án phân tích thực trạng và đề xuất nhằm đổi mới CTTT của Đảng đáp ứng được yêu cầu của HNQT ở Việt Nam hiện nay góp phần cho hội nhập thành công. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Tổng quan hình hình nghiên cứu có liên quan: - Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận cần thiết, có liên quan về CTTT của Đảng và CTTT của Đảng trước yêu cầu của HNQT của Việt Nam hiện nay. - Làm rõ thực trạng (kết quả, hạn chế, nguyên nhân, kinh nghiệm và vấn đề đặt ra) của CTTT của Đảng trong điều kiện HNQT ở Việt Nam hiện nay. - Đề ra những quan điểm và giải pháp nhằm đổi mới CTTT của Đảng đáp ứng yêu cầu của HNQT ở Việt Nam hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng và khách thể nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là CTTT của Đảng trong điều kiện HNQT ở Việt Nam hiện nay và những vấn đề đổi mới CTTT của Đảng nhằm đáp ứng yêu cầu của HNQT ở Việt Nam hiện nay. 5 Khách thể nghiên cứu của luận án là các văn kiện của Đảng và Nhà nước có liên quan; các báo cáo thực tế của các cơ quan có liên quan; nghiên cứu, tham khảo các tài liệu thứ cấp khác. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về góc độ tiếp cận nghiên cứu, CTTT của Đảng được nghiên cứu dưới góc độ chính trị học, với tính cách một phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền của Đảng ở Việt Nam hiện nay. - Về thời gian luận án nghiên cứu, CTTT của Đảng trong quá trình HNQT từ năm 2007 (khi Việt Nam gia nhập WTO) cho đến 2015. - Về không gian, luận án tập trung khảo sát, nghiên cứu ở Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng, một số bộ, ngành, đoàn thể, báo, đài ở Trung ương; Ban Tuyên giáo một số tỉnh, thành phố mang tính đại diện cho các vùng, miền trong cả nước. - Về nội dung nghiên cứu, luận án nghiên cứu các hoạt động nội dung của CTTT của Đảng trên các lĩnh vực về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh quốc phòng (ANQP) đối ngoại... 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng về CTTT của Đảng. 4.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận nghiên cứu của luận án là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. - Các phương pháp công cụ cho việc nghiên cứu của luận án là phân tích, tổng hợp, lịch sử, lô gíc, so sánh và các phương pháp khác. 5. Những đóng góp về khoa học Thứ nhất, bổ sung và phát triển một số vấn đề lý luận về CTTT và đổi mới CTTT của Đảng trong điều kiện HNQT ở Việt Nam hiện nay từ góc độ chính trị học. 6 Thứ hai, làm rõ nội hàm của khái niệm CTTT của Đảng với tính cách một phương thức cầm quyền của Đảng và những đặc điểm của nó. Thứ ba, làm rõ những yêu cầu của HNQT đối với CTTT của Đảng ở Việt Nam hiện nay. Thứ tư, đánh giá thực trạng của CTTT của Đảng trong điều kiện HNQT ở Việt Nam hiện nay (theo những tiêu chí về chủ thể, khách thể, đối tượng, phạm vi, mức độ, hiệu quả, v.v.). Thứ năm, đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm đổi mới CTTT của Đảng đáp ứng yêu cầu HNQT ở Việt Nam hiện nay và những năm tới. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Kết quả luận án góp phần cung cấp luận cứ khoa học - thực tiễn cho việc xây dựng chủ trương, chính sách, lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai CTTT của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh HNQT ở Việt Nam hiện nay. Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tư liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy các môn khoa học chính trị, khoa học tuyên truyền và nhất là chính trị học về những vấn đề của CTTT và CTTT của Đảng trong điều kiện HNQT ở Việt Nam. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận án gồm 4 chương, 8 tiết. 7 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về CTTT nói chung và CTTT của đảng chính trị nói riêng - từ đảng chính trị nói chung đến đảng lãnh đạo, đảng cầm quyền với nhiều góc độ (góc độ tiếp cận nghiên cứu) và phương diện (mặt, khía cạnh, nội dung) khác nhau. Các công trình nghiên cứu về CTTT của đảng chính trị đề cập đến nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn từ nội dung đến hình thức và phương pháp của CTTT của đảng, xác định các quan điểm khoa học - thực tiễn và các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả CTTT của đảng. Tuy nhiên, do yêu cầu và đặc điểm về nội dung của luận án này, CTTT được nghiên cứu với tính cách một lĩnh vực hoạt động của Đảng Cộng sản, hơn nữa lại là Đảng Cộng sản cầm quyền, do vậy phần lớn các công trình nghiên cứu có liên quan đến luận án là của các tác giả Liên Xô trước đâyvà Trung Quốc cho đếnnay. 1.1.1. Những vấn đề lý luận chung về công tác tuyên truyền của Đảng Cộng sản Thứ nhất, về mục đích, yêu cầu và nhiệm vụ của công tác tuyên truyền của Đảng Cộng sản Tác phẩm "Làm gì?" của V.I.Lênin [119] đã kế thừa, phát triển một cách toàn diện những luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về CTTT. Tác phẩm đã phân tích, luận giải vị trí, tầm quan trọng của CTTT; khái niệm tuyên truyền cổ động; lực lượng, đối tượng, phương pháp tuyên truyền của Đảng của giai cấp công nhân. Trong tác phẩm này, V.I.Lênin đưa ra những đánh giá sâu sắc về xây dựng và đào tạo đội ngũ cán bộ tuyên truyền đến hôm nay vẫn còn nguyên tính thời sự: “Hàng tuần nên tổ chức giảng cho họ vài bài và biết kịp thời điều động họ đến những thành thị khác, nói chung tổ chức cho những người có khả năng tuyên truyền đi thăm các thị trấn” [119, tr.115]. 8 Tác phẩm "Tuyên ngôn Đảng Cộng sản" của C.Mác - Ph.Ăngghen [42] là tác phẩm lý luận đầu tiên đề cập đến CTTT và cổ động của giai cấp vô sản cách mạng. Tác phẩm này này đã chỉ ra mục đích của CTTT là xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, “tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản thành chính quyền” [42, tr.42]; chỉ ra đối tượng tuyên truyền không chỉ là tập hợp quần chúng vô sản mà còn lôi kéo các tầng lớp khác đi theo giai cấp mình; nêu ra khẩu hiệu hành động cách mạng: “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại!” [42, tr.75]. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Liên Xô trước đây, có nhiều công trình nghiên cứu về công tác tư tưởng, một số đã được dịch ra tiếng Việt. Khi nghiên cứu về cơ sở của hoạt động tuyên truyền tư tưởng của Đảng Cộng sản, các nhà khoa học đi sâu phân tích làm rõ các đặc điểm và những yêu cầu dưới góc độ tâm lý học, giáo dục học đối với hoạt động này. Tác phẩm "Về giáo dục cộng sản chủ nghĩa" của M.I.Calinin [91] đã nêu những nguyên lý cộng sản dưới hình thức đơn giản nhất: trung thực, có học thức, có lòng yêu Tổ quốc; còn giáo dục và bồi dưỡng những phẩm chất cao quý là một yếu tố hết sức quan trọng trong sự nghiệp giáo dục cộng sản. M.I.Calinin khẳng định: “Cần phải đến với từng người, đánh giá họ, làm nổi bật những mặt tốt của họ bởi vì không thể chỉ giáo dục dựa trên mặt tiêu cực” [91]. Nhà giáo dục Xô Viết V.A.Cruchetxki viết: Nhiệm vụ quan trọng của giáo dục cuộc sống là hình thành thế hệ trẻ niềm tin và tình cảm cộng sản chủ nghĩa vững chắc và hành vi đạo đức dựa trên cơ sở niềm tin vào tình cảm đó. Chỉ có thể giải quyết được nhiệm vụ đó bằng cách dựa trên những trí thức về quy luật tâm lý của sự hình thành nhân cách tích cực và có mục đích, về những quy luật phát triển đạo đức của nó cũng như sự hiểu biết đầy đủ những đặc điểm cá nhân [118]. 9 Ở Trung Quốc, trong quá trình cải cách, mở cửa, xây dựng CNXH, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã rất coi trọng CTTT và xác định rõ nhiệm vụ cơ bản của CTTT là nâng cao nhận thức cho toàn Đảng, toàn dân về chủ nghĩa Mác, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình, tư tưởng “ba đại diện” quan điểm “phát triển khoa học”, coi “phát triển khoa học” là cơ sở để xây dựng “xã hội hài hòa”, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tích cực cải tiến các hình thức tuyên truyền, giáo dục đa dạng và phong phú để nâng cao nhận thức, làm cho cán bộ và quần chúng giữ vững niềm tin đối với chủ nghĩa Mác và công cuộc xây dựng CNXH đặc sắc của Trung Quốc. Về mục đích của CTTT, cuốn: "Công tác tuyên truyền tư tưởng trong thời kỳ mới" của Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc [21] chỉ rõ: CTTT tư tưởng phải tạo ra động lực tinh thần to lớn, tạo nên sự ủng hộ bằng trí tuệ, bảo đảm về tư tưởng và môi trường dư luận lành mạnh cho công cuộc cải cách, mở cửa, xây dựng thể chế kinh tế thị trường XHCN một xã hội tiến bộ toàn diện. Thứ hai, về nội dung và hình thức công tác tuyên truyền của Đảng Cộng sản Trong quá trình cải cách, mở cửa, xây dựng CNXH đặc sắc ở Trung Quốc, Đảng Cộng sản Trung Quốc rất coi trọng CTTT tư tưởng. Đặc biệt, cuốn: "Công tác tuyên truyền tư tưởng trong thời kỳ mới" của Trần Khang và Lê Cự Lộc dịch [71] đã tổng kết một cách có hệ thống những kinh nghiệm cơ bản trong CTTT tư tưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc, trong đó chỉ rõ vai trò đặc biệt quan trọng của CTTT. Trên các mặt trận lãnh đạo của Đảng thì tuyên truyền tư tưởng là mặt trận hết sức quan trọng. Trong các cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng thì chính quyền làm CTTT tư tưởng là hết sức quan trọng, còn trong hàng ngũ cán bộ của Đảng thì những người làm CTTT tư tưởng là lực lượng hết sức quan trọng. Đảng Cộng sản Trung Quốc coi tuyên truyền tư tưởng của Đảng là phương tiện giáo dục, vận động quần chúng và mang tính chính trị rất cao có 10 đặc điểm là công khai, kịp thời, nhanh nhạy, có thể đưa đường lối chủ trương, chính sách của Đảng vào trong quần chúng nhanh nhạy nhất, rộng rãi và biến thành hành động thực tế của quần chúng. Nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân chỉ rõ: "Tăng cường và cải tiến công tác chính trị, tư tưởng của Đảng trong tình hình mới là một việc lớn của toàn Đảng, cũng là nhiệm vụ nặng nề về công tác tuyên truyền tư tưởng" [47]. Trong bài "Tổng kết công tác xây dựng Đảng Cộng sản Trung Quốc trong 30 năm cải cách mở cửa", tác giả Tập Cận Bình đã nêu: Trước sau như một, Đảng coi việc học tập và vận dụng chủ nghĩa Mác, đặc biệt là những thành quả mới nhất của sự nghiệp Trung Quốc hóa chủ nghĩa Mác là nội dung trung tâm giáo dục, bồi dưỡng cho đảng viên và cán bộ, v.v. ra sức thúc đẩy việc đưa vào giáo trình, giảng đường, tuyên truyền giáo dục những tư tưởng chói lọi quan trọng như lý luận Đặng Tiểu Bình, tư tưởng quan trọng “Ba đại diện” và quan điểm phát triển khoa học, để giúp đông đảo cán bộ, đảng viên xác định chắc chắn thế giới quan, nhân sinh quan, quan niệm giá trị chủ nghĩa Mác, tỉnh táo và kiên định chính trị, duy trì và phát triển tính tiên tiến của người đảng viên cộng sản [trích theo 33, tr.10]. Trong tình hình mới, việc giữ vai trò chủ đạo của chủ nghĩa Mác Lênin đặc biệt chú ý không ngừng tăng cường sức thuyết phục sức chiến đấu của Chủ nghĩa Mác. Muốn vậy, phải tăng cường hai mặt: Kịp thời tổng kết kinh nghiệm, rút ra những nhận thức mới về tư tưởng, lý luận mà đời sống đặt ra; đồng thời vận dụng quan điểm mác - xít để đấu tranh chống lại các quan điểm sai lầm, góp phần giữ vững nhận thức. Thứ ba, về đối tượng và phương pháp công tác tuyên truyền của Đảng Cộng sản Tác phẩm: "Về giáo dục cộng sản chủ nghĩa" của M.I.Calinin [91] đã nhấn mạnh phương pháp CTTT quan trọng là sự đa dạng và phát huy hiệu quả vai trò của giáo dục với ý thức con người. 11 Ở Trung Quốc, bàn về đối tượng CTTT, trong bài: "Làm thế nào để làm công tác tư tưởng trong thời kỳ mới" của tác giả Phạm Vân Như và các cộng sự (Trần Khang, Lê Cự Lộc dịch) [71] cho rằng: đối tượng CTTT là con người và để làm tốt công tác tư tưởng cho quần chúng cần thích ứng cụ thể của quần chúng, áp dụng phương pháp khoa học. Theo tác giả Điền Trung Mẫn, phương châm CTTT là lấy dân làm gốc, bám sát thực tế, bám sát quần chúng nhân dân, cố gắng vận dụng nhiều hình thức. 1.1.2. Những vấn đề về đổi mới công tác tuyên truyền của Đảng Cộng sản Cuốn giáo trình: "Công tác tuyên truyền tư tưởng trong thời kỳ mới" của tác giả Bùi Phương Dung [47] đã góp phần bổ sung, làm rõ lý luận về CTTT; phân tích khái niệm, phương pháp, phương thức tiến hành CTTT, các loại hình cơ bản của công tác điều tra, nghiên cứu thông tin và xây dựng đội ngũ những người làm CTTT. Những yêu cầu đặt ra đối với CTTT cũng được bàn bạc sâu sắc trong bài: "Cơ sở tư tưởng hệ của công cuộc cải cách kinh tế ở Trung Quốc" của tác giả B.Mozias [40] đã nhấn mạnh những yêu cầu CTTT của Đảng Cộng sản Trung Quốc, trong đó bộ máy tuyên truyền Đảng Cộng sản từng bước “cấy” những giá trị thị trường mới vào khuôn khổ hệ tư tưởng hiện thời, làm cho chúng trở nên dễ hiểu và dễ chấp nhận đối với quần chúng nhân dân. Ở Trung Quốc, các tác giả Chu Hiểu Tín, Phùng Linh Chi đã đi sâu làm rõ những quan niệm về hiệu quả CTTT và tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả trình độ hiểu biết chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; ý thức, niềm tin cộng sản chủ nghĩa và tính tích cực xã hội (tiêu chuẩn quyết định công tác tư tưởng, CTTT). Các tác giả cũng chỉ ra các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan để nâng cao hiệu quả CTTT. Theo đó, điều kiện khách quan là lối sống xã hội, chế độ dân chủ và môi trường xã hội. Nhân tố chủ quan bao gồm trình độ lãnh đạo của của Đảng đối 12 với CTTT, năng lực của cán bộ tuyên truyền, thường xuyên cải tiến các hình thức, phương pháp; phát huy vai trò của các cơ quan tuyên truyền và các tổ chức xã hội [109]. Các tác giả Chu Hiểu Tín, Phùng Linh Chi còn chỉ ra tính tất yếu của việc đổi mới CTTT của Đảng Cộng sản, các tác giả này xác định rõ sự cần thiết phải đẩy mạnh công tác tư tưởng và phương hướng đổi mới CTTT. Trên cơ sở nghiên cứu nguyên nhân khiến Liên Xô, Đông Âu thay đổi chế độ, các tác giả cho rằng, không được để khoảng trống trên trận địa văn hóa, tư tưởng. Từ việc nhận thức rõ vai trò của các phương pháp, phương tiện - những binh chủng của CTTT như báo chí, truyền thông, dư luận xã hội, v.v. các tác giả còn chỉ rõ vai trò của những phương tiện đó để nâng cao hiệu quả của CTTT đó là “xây dựng cơ chế phản hồi nhanh dư luận, tạo ra kênh thông tin thông suốt cho quyết sách của Đảng và Chính phủ” [109, tr.83]. Có thể nói, từ sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, với sự ra đời và phát triển của các Đảng Cộng sản cầm quyền trên thế giới, những nghiên cứu về CTTT của Đảng Cộng sản đã được quan tâm nghiên cứu. Các công trình trên đã góp phần làm rõ lý luận về CTTT như khái niệm, đặc điểm, phương pháp, phương tiện, nguyên tắc của CTTT; đồng thời cũng chỉ rõ tính tất yếu khách quan, những giải pháp của việc đổi mới, nâng cao hiệu quả CTTT trong mỗi giai đoạn lịch sử. Đó là những nguồn tư liệu quý báu cho CTTT của Đảng ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, với những nét đặc thù về chế độ chính trị - xã hội, truyền thống văn hóa giàu bản sắc của Việt Nam thì việc làm cần thiết là tiếp tục nghiên cứu, làm giàu những tri thức xung quanh đề tài này và vận dụng cho phù hợp với điều kiện nước ta sẽ nâng cao hiệu quả CTTT, góp phần tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đưa đất nước vững bước đi lên trên con đường hội nhập và phát triển. CTTT của Đảng trong điều kiện HNQT và trước yêu cầu HNQT cần thực hiện như thế nào để đạt được hiệu quả mong muốn là vấn đề cần được làm rõ. 13 1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC Trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu (hội thảo, đề tài khoa học, giáo trình, giáo khoa, luận văn, luận án và bài tạp chí khoa học, v.v.) có liên quan đến lĩnh vực CTTT của Đảng nói chung và CTTT của Đảng trong điều kiện HNQT nói riêng từ những khía cạnh khác nhau và thể hiện ở một số vấn đề sau: Thứ nhất, về vị trí và vai trò của CTTT của Đảng nói chung và CTTT của Đảng trong điều kiện HNQT nói riêng, có các công trình nghiên cứu như: Cuốn sách "Một số vấn đề về công tác tuyên truyền" của tác giả Đào Duy Tùng [117] đã khẳng định rất cụ thể vị trí, vai trò và nhiệm vụ lớn lao của CTTT trong tiến trình cách mạng Việt Nam nói chung và trong công tác xây dựng Đảng nói riêng; những bài học kinh nghiệm và phương châm chỉ đạo của CTTT; những nội dung và biện pháp của CTTT nhằm chống lại những ảnh hưởng của tư tưởng tư sản, phong kiến, nâng cao chất lượng và hiệu quả của CTTT. Cuốn sách "Nguyên lý công tác tư tưởng" tác giả Lương Khắc Hiếu [64] đã đề cập đến những vấn đề chung nhất của CTTT như đối tượng, bản chất, hình thái, mục đích, chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc, phương châm hoạt động và vai trò CTTT; những nội dung cơ bản của công tác giáo dục tư tưởng về thế giới quan, những vấn đề về phương pháp, hình thức, phương tiện và sự lãnh đạo của Đảng đối với CTTT như hệ thống giáo dục lý luận chính trị, các phương tiện truyền thông đại chúng, xây dựng đội ngũ cán bộ tư tưởng. Tác giả nêu ra hai nhóm nâng cao hiệu quả CTTT. Nhóm thứ nhất là thiết lập các điều kiện cho công tác tư tưởng gồm: môi trường sống, điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và tồn tại xã hội nói chung. Nhóm thứ hai là tác động vào các yếu tố công tác tư tưởng gồm: nắm vững đối tượng, xác định mục đích, nội dung, phương thức phù hợp; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, kiện toàn bộ máy CTTT. Cuốn sách là tài 14 liệu rất cơ bản giúp nghiên cứu sinh làm tài liệu tham khảo và sử dụng để trình bày những vấn đề lý luận của luận án. Tuy nhiên, nội dung hai cuốn sách chỉ dừng lại ở những vấn đề lý luận chung về công tác tư tưởng nói chung, trong đó có CTTT. Công trình: "Đổi mới công tác tư tưởng của Đảng ở Tây Nguyên trong giai đoạn hiện nay" của tác giả Trương Minh Tuấn [116] đã đề cập đến việc đổi mới CTTT ở Tây Nguyên trong bối cảnh HNQT. Việc nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của CTTT sẽ góp phần ổn định chính trị xã hội ở Tây Nguyên, đây là cơ sở để phát triển bền vững một trong những địa bàn trọng điểm của đất nước trong HNQT hiện nay. Cuốn sách: "Đổi mới công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới" của tác giả Phạm Tất Thắng [108] đã đề cập sâu về công tác tư tưởng, lý luận của Đảng, trong đó đưa ra những biện pháp đổi mới mạnh mẽ cả về nội dung, phương pháp, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận của Đảng nhằm phát huy sức mạnh của nền dân chủ XHCN, của đại đoàn kết toàn dân tộc, phấn đấu thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, hội nhập quốc tế. Về tuyên truyền thi đua yêu nước, cuốn sách viết: “Đổi mới cách viết, tuyên truyền gương người tốt, việc tốt, các phong trào thi đua yêu nước theo hướng thiết thực, không hình thức, không phô trương, lãng phí, phù hợp với điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN” [108]. Bài viết: "Tạo bước chuyển biến căn bản trong tổ chức hoạt động đối ngoại" của tác giả Xuân Anh [4] đã chỉ rõ trong bối cảnh nước ta HNQT ngày càng sâu rộng, CTTT của Đảng có vai trò quan trọng làm cho thế giới hiểu rõ và hiểu đúng về Việt Nam, qua đó tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kỷ yếu khoa học: "Hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới 2010 - 2020" của Ban Chỉ đạo Trung ương [8] đã tập hợp báo cáo của Ban Chỉ đạo và tham luận của các bộ, ngành 15 Trung ương, các tỉnh, thành phố, các huyện, xã và doanh nghiệp tiêu biểu, đánh giá cao vai trò của CTTT trong xây dựng nông thôn mới và đưa nông nghiệp, nông dân, nông thôn tham gia có hiệu quả vào quá trình HNQT. Tham luận của các đại biểu Hà Nội nêu rõ: Thành phố đặc biệt coi trọng công tác tuyên truyền bằng nhiều hình thức: tổ chức Lễ phát động "Toàn dân chung sức xây dựng nông thôn mới"... Thông qua các lớp học tập nghị quyết, chuyên đề, lồng ghép công tác chuyên môn gắn với xây dựng nông thôn mới, tuyên truyền lưu động, xây dựng phim tài liệu, phóng sự, tiểu phẩm, thơ ca, tổ chức các cuộc tọa đàm, phát tờ rơi tuyên truyền, khẩu hiệu, panô, áp phích, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu, v.v. [8]. Thứ hai, về thực trạng CTTT của Đảng nói chung và CTTT của Đảng trong điều kiện HNQT nói riêng, có các công trình nghiên cứu như: Cuốn sách: "Giáo trình chuyên ngành công tác tư tưởng" của Ban Tuyên giáo Trung ương [11]; "Những vấn đề lớn của thế giới và quá trình hội nhập, phát triển của nước ta" của Ban Tuyên giáo Trung ương [13] đã chỉ ra những nhược điểm, hạn chế của CTTT nói chung và tuyên truyền kinh tế nói riêng là “chậm đổi mới phương thức hoạt động để phù hợp với tình hình mới và đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới đất nước; công tác tuyên truyền về lĩnh vực kinh tế chưa được chú trọng đúng mức” [13]. Bài viết: "Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả, chất lượng công tác tuyên giáo" của tác giả Lê Hồng Anh [2] đã chỉ rõ thực trạng CTTT hiện nay. Bên cạnh kết quả đạt được là cơ bản đã góp phần nâng cao nhận thứ, niềm tin trong các tầng lớp nhân dân về con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Tuy nhiên, tác giả cũng đã chỉ ra một số vấn đề còn tồn tại trong CTTT về nội dung còn "đơn điệu, nghèo nàn", biện pháp còn "sơ cứng", chưa tạo hiệu quả sau và rõ nét. Từ đó, tác giả đã đề cập tới một số giải pháp cho là khả thi để nâng cao hơn hiệu quả CTTT của Đảng. 16 Thứ tư, về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đổi mới CTTT của Đảng nói chung và CTTT của Đảng trong điều kiện HNQT nói riêng, có các công trình nghiên cứu như: - "Một số giải pháp nâng cao hiệu quả tuyên truyền về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam trong giai đoạn 2000 2010" của Ban Tuyên giáo Trung ương [12] đã đánh giá kết quả và đề ra giải pháp tuyên truyền sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Cuốn sách: "Đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng" của tác giả Hà Học Hợi [69] đã phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả CTTT của Đảng trong bối cảnh của những năm đầu thế kỷ XX, góp phần tạo ra sự thống nhất hơn nữa trong Đảng và đồng thuận trong xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trên cơ sở làm rõ tiêu chí đánh giá chất lượng và hiệu quả CTTT, dự báo tình hình tư tưởng cán bộ, đảng viên và nhân dân trong giai đoạn mới, tác giả đã đề xuất các phương pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả là: Đổi mới và nâng cao chất lượng tuyên truyền, cổ động, đảm bảo bộ máy làm CTTT. Cuốn sách đã góp phần triển khai thực hiện nghị quyết Trung ương lần thứ năm khóa IX (tháng 2/2002) về nhiệm vụ chủ yếu của CTTT, lý luận trong tình hình mới. Các cuốn sách chuyên khảo như: "Công tác tư tưởng và vấn đề đào tạo cán bộ làm công tác tư tưởng" của Trần Thị Anh Đào [59]; "Công tác tư tưởng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa" của tác giả Trần Thị Anh Đào [60] các công trình này đã đề cập khá toàn diện về mặt lý luận của công tác tư tưởng nói chung và CTTT nói riêng, trong đó có luận giải về phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng, CTTT và nhất là vấn đề đào tạo cán bộ tư tưởng từ thực tiễn của Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất