Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận án đình làng thế kỷ xvii xviii ở gia lâm (hà nội) những giá trị lịch sử v...

Tài liệu Luận án đình làng thế kỷ xvii xviii ở gia lâm (hà nội) những giá trị lịch sử và văn hóa (tt)

.PDF
28
84
142

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI BÙI THẾ QUÂN ĐÌNH LÀNG THẾ KỶ XVII – XVIII Ở GIA LÂM (HÀ NỘI) NHỮNG GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VÀ VĂN HÓA Chuyên ngành: Khảo cổ học Mã số: 62 22 03 17 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHẢO CỔ HỌC Hà Nội, 2016 Công trình được hoàn thành tại: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1. TS. LÊ ĐÌNH PHỤNG 2. PGS.TS. NGUYỄN VĂN TIẾN Người phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Quốc Hùng Người phản biện 2: PGS.TS. Lâm Thị Mỹ Dung Người phản biện 3: TS. Nguyễn Văn Đoàn Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện, họp tại: Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam Số 477 đường Nguyễn Trãi, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội Vào hồi………………… Ngày tháng năm 2016 Có thể tìm luận án này tại: Thư viện Quốc gia Thư viện Học viện Khoa học xã hội DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1. Bùi Thế Quân (2010), “Nghĩa Trụ - từ dòng chảy địa lý đến dòng chảy lịch sử - văn hóa”, Tạp chí Dân tộc học, số 4 (165), tr.19-30. 2. Bùi Thế Quân (2010), “Một vài ẩn số trong các di tích và lễ hội truyền thống trên địa bàn quận Long Biên, Hà Nội”, Tạp chí Di sản văn hóa số 1 (30), tr.72 – 80. 3. Bùi Thế Quân (2010), “Một dòng sông cổ với di sản văn hóa”, Tạp chí Di sản văn hóa số 4 (33), tr. 54 – 59. 4. Thế Quân, Nguyễn Đạt (2012), “Vài nét về đình và chùa Hội Xá (quận Long Biên - Hà Nội)”, Tạp chí Di sản văn hóa số 1 (38), tr. 86 – 88. 5. Bùi Thế Quân (2012), “Chùa Đào Xuyên, phái Lâm Tế - một vài suy ngẫm”, Tạp chí Di sản văn hóa số 4 (41), tr.89 – 93. 6. Bùi Thế Quân (2013), “Qua mấy ngôi đình làng ven sông Đuống, trên đất Long Biên”, Tạp chí Di sản văn hóa số 2 (43), tr. 91- 96. 7. Bùi Thế Quân (2014), “Đình Ninh Giang (Gia Lâm, Hà Nội) – Những giá trị nghệ thuật và kiến trúc”, Tạp chí Khảo cổ học số 5 – 2014, tr.66 – 73. 8. Bùi Thế Quân (2015), “Hai ngôi đình có niên đại Cảnh Trị (Gia Lâm - Hà Nội) trong so sánh với các ngôi đình ở Bắc Ninh”, Tạp chí Khảo cổ học số 6 – 2015, tr.79 – 85. 9. Bùi Thế Quân (2015), “Về đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm, Hà Nội”, Tạp chí Di sản văn hóa số 4 (53), tr.36 - 39. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài - Thời gian gần đây các di tích lịch sử văn hóa như: các di chỉ khảo cổ học, các địa điểm ghi dấu chứng tích lịch sử, các công trình kiến trúc nghệ thuật v.v…đã và đang là đối tượng được đặc biệt quan tâm nghiên cứu, trong đó có đình làng. - Nghiên cứu đình làng và khai thác các giá trị của đình làng dưới góc độ khảo cổ học lịch sử sẽ góp phần cung cấp nguồn tư liệu khoa học cho việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của làng Việt cổ truyền. - Những ngôi đình làng thế kỷ XVII - XVIII ở Gia Lâm là những công trình có nhiều giá trị về lịch sử - văn hóa. Mặc dù những ngôi đình này đã được xếp hạng di tích cấp quốc gia, song đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào toàn diện, sâu sắc từ góc độ khảo cổ học. Tác giả chọn đề tài: “Đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm (Hà Nội) - những giá trị lịch sử và văn hoá” là đối tượng để nghiên cứu của luận án này. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Luận án đặt ra bốn mục tiêu nghiên cứu như sau: - Tập hợp, hệ thống hóa tư liệu và kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước nghiên cứu về đình làng nói chung và đình làng thế kỷ XVII - XVIII ở Gia Lâm (Hà Nội). - Nghiên cứu, đánh giá giá trị lịch sử và những giá trị văn hóa – nghệ thuật được biểu hiện dưới dạng vật thể và phi vật thể của các đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm, tìm ra những đặc trưng cơ bản của các di tích này, xác định vai trò của nó đối với cộng đồng làng xã và các vùng lân cận. - Xác định niên đại khởi dựng qua tư liệu và phong cách nghệ thuật. - Đề xuất phương hướng và giải pháp bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị văn hóa, lịch sử của các ngôi đình này. 1 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Khảo sát điền dã, ghi vẽ hiện trạng kiến trúc và tổng hợp các tài liệu nghiên cứu đã có để xác định và hệ thống hoá đặc điểm cơ bản của đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm. - Thống kê, khảo tả hiện trạng kiến trúc, trang trí trên kiến trúc làm cơ sở đánh giá giá trị về lịch sử, văn hoá của các đình làng thế kỷ XVII – XVII ở Gia Lâm trong đời sống xã hội, làm cơ sở cho việc thực hiện các nghiên cứu tiếp theo. - Thu thập những thông tin về những đình làng khác ở Gia Lâm, vùng phụ cận liên quan để so sánh sự tương đồng và khác biệt về kiến trúc và trang trí kiến trúc. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu - Tập trung nghiên cứu tổng quan và chuyên sâu về 5 đình làng tiêu biểu thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm (Hà Nội). Cụ thể là đình Xuân Dục (xã Yên Thường), đình Tình Quang (phường Giang Biên), đình Thanh Am (phường Thượng Thanh), đình Trân Tảo (xã Phú Thị), đình Công Đình (xã Đình Xuyên). - Mở rộng đối tượng nghiên cứu đến một số đình làng khác ở Gia Lâm và phụ cận để so sánh các giá trị lịch sử, văn hóa cùng các giá trị chính trị xã hội của các ngôi đình làng trong đời sống xã hội hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nội dung: Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển cùng giá trị văn hóa nghệ thuật của các đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm (Hà Nội) từ khi khởi dựng cho đến nay. Đặc điểm kiến trúc, hệ thống di vật trong đình làng. - Phạm vi thời gian và không gian: Tập trung khảo sát, nghiên cứu các đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm ( Hà Nội), sau đó mở rộng phạm vi nghiên cứu đối với các di tích đình làng ở khu vực phụ cận liên quan. 2 4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Phương pháp luận - Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được sử dụng để lý giải các vấn đề thuộc lịch sử, văn hoá và quá trình hình thành, phát triển của đình làng Việt Nam và đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm. - Phương pháp được triển khai qua những tiếp cận đa ngành, liên ngành, trong đó chú trọng việc kết hợp giữa các tiếp cận nghiên cứu khảo cổ học, sử học, mỹ thuật học, dân tộc học, bảo tàng học, văn hóa học với ứng dụng khoa học kỹ thuật trong việc đánh giá hiện trạng, ghi vẽ kiến trúc. 4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án - Phương pháp tập hợp, hệ thống hóa những kết quả nghiên cứu của các tác giả, các công trình nghiên cứu có liên quan của tác giả đi trước. - Phương pháp Khảo cổ học truyền thống: điều tra, quan sát, tham dự, miêu tả, đo vẽ, chụp ảnh, phỏng vấn, nghiên cứu các tư liệu cổ, tư liệu Hán Nôm liên quan... - Phương pháp điền dã thực tiễn từ đời sống xã hội của các cộng đồng dân cư ở trong các làng xã, dòng họ nơi các di tích tồn tại và phát triển. - Phương pháp khảo cứu trực tiếp tại các đình làng thông qua các hoạt động lễ hội tín ngưỡng thường niên và các hoạt động văn hóa – xã hội đã và đang diễn ra tại các đình làng ở Gia Lâm. - Phương pháp so sánh, phân tích tổng hợp tư liệu. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án - Luận án chính là công trình đầu tiên giới thiệu có hệ thống và đầy đủ về di tích đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm (Hà Nội) dưới góc độ Khảo cổ học. - Luận án xác định tổng quan giá trị lịch sử - văn hóa của các di tích thông qua tài liệu và phong cách nghệ thuật. - Nghiên cứu toàn diện giá trị lịch sử, văn hóa của đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm (Hà Nội), góp phần bổ sung và làm rõ những 3 nghiên cứu về đình làng thế kỷ XVII – XVIII và đình làng Việt Nam nói chung. - Kết quả nghiên cứu của luận án cũng góp một phần quan trọng trong việc xác định, đánh giá vai trò của hệ thống di tích lịch sử - văn hóa nói chung, hệ thống di tích đình làng nói riêng trong quá trình đô thị hóa, Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước ở một địa bàn quan trọng của Thủ đô, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị của di tích. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Đóng góp vào lịch sử nghiên cứu về đình làng Việt Nam nói chung, đình làng ở Gia Lâm (Hà Nội) nói riêng từ góc độ kiến trúc, trang trí kiến trúc với giá trị lịch sử và văn hoá dưới góc độ khảo cổ học. Thông qua việc so sánh sự tương đồng và khác biệt để thấy rõ cái riêng và cái chung của đình làng ở Gia Lâm so với các đình làng khác trong vùng và đình làng cùng niên đại thế kỷ XVII – XVIII vùng phụ cận liên quan. - Thông qua nghiên cứu khảo cổ học, luận án cung cấp thông tin đầy đủ hơn về cấu trúc, niên đại xây dựng đình làng, bước phát triển về đình làng Việt Nam và đặc biệt bổ sung vào “phần khuyết’’ ngôi đình đầu thế kỷ XVII, những ngôi đình thời Vĩnh Trị, Cảnh Trị làm cơ sở nở rộ các ngôi đình làng vào thời Chính Hòa. - Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho các hoạt động về bảo tồn và phát huy giá trị của chính những ngôi đình làng nói riêng và các di tích đình, đền, chùa nói chung trong điều kiện hiện nay. 7. Cơ cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung nghiên cứu của luận án được chia làm ba chương: : Chương 1.Đình làng Việt Nam và lịch sử nghiên cứu (33 trang). Chương 2.Đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm (62 trang) Chương 3.Những giá trị lịch sử - văn hoá của các đình làng ở Gia Lâm thế kỷ XVII – XVIII (53 trang) 4 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Vài nét về đình làng Trong các công trình kiến trúc tín ngưỡng, tôn giáo ở mỗi làng quê Việt Nam, đình làng có một vị trí quan trọng. Đây là công trình kiến trúc tín ngưỡng chung mang đặc tính riêng Việt của mỗi cộng đồng, được xây dựng trên vị trí trang trọng, linh thiêng nhất, quy mô lớn và đảm nhận nhiều chức năng khác nhau. Theo nhiều nhà nghiên cứu đình làng là công trình kiến trúc công cộng của làng xã, dùng làm nơi diễn ra các hoạt động chính trị tinh thần – văn hóa xã hội của nhân dân ở nông thôn làng xã dưới thời phong kiến. Với vị thế đó ngôi đình đã trở thành một trong những công trình có vẻ oai nghiêm nhất trong phong cảnh Việt Nam, và được coi là nơi hội tụ của nguồn gốc tư tưởng Việt thuần khiết. 1.1.1. Khái quát nguồn gốc và sự hình thành, phát triển của đình làng Việt Nam - Ý kiến của Nguyễn Văn Huyên đình làng có nguồn gốc từ đình trạm. - Ý kiến của Chu Quang Trứ cho rằng đình làng không có nguồn gốc từ đình trạm. - Ý kiến thứ ba cho rằng đình làng là một kiểu nhà chung, một sản phẩm của làng kiểu trung đại từ sau Lê Sơ. - Ý kiến của L.Bezacier cho đình làng Việt Nam là một trong những vết tích của người Anh-đô-nê-diêng xưa kia cư trú ở miền Đông Nam Á, về sau có một số ảnh hưởng của Trung Hoa ghép thêm vào. - Hà Văn Tấn cho rằng: “Mặc dù còn thiếu chứng cứ, ta tin rằng đình – ngôi nhà chung của làng xã đã xuất hiện từ lâu đời, nếu không phải là thời tiền sử thì cũng là thời sơ sử của dân tộc. Tất nhiên thời đó chưa được gọi là đình, một từ vay mượn của Trung Hoa”. - Khẳng định những quán đình chắc chắn không phải là nguồn gốc của đình làng. 5 Theo nhiều sử liệu, vào thế kỷ XV từ nhu cầu quản lý hành chính của triều đình đối với đơn vị hành chính làng, với sự gia nhập của vị Thành Hoàng vào công trình kiến trúc công cộng. Có thể cho rằng, đây là tiền đề của ngôi đình làng về sau. 1.1.2. Chức năng và vai trò của đình làng trong đời sống văn hoá Việt Nam Đình làng có ba chức năng cơ bản, đó là: - Chức năng tín ngưỡng thờ thành hoàng làng của cộng đồng làng xã. - Chức năng là trung tâm hành chính của chính quyền làng xã thời phong kiến. - Chức năng là trung tâm văn hóa làng của cộng đồng làng xã. 1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.2.1. Nghiên cứu về đình làng trước năm 1954 Dưới thời Pháp thuộc, có một số học giả phương Tây, điển hình là P.Giran, Clayes J.Y, P.Gourou... Về phía Việt Nam có Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Bá Lăng, Nguyễn Văn Khoan... Trước năm 1954, đình làng ít được quan tâm nghiên cứu. Một số học giả nêu trên, nghiên cứu về đình làng chỉ tập trung vào hai lĩnh vực: tín ngưỡng và kiến trúc nghệ thuật. Kết quả mới chỉ dừng lại nghiên cứu cơ bản. 1.2.2. Nghiên cứu về đình làng từ năm 1954 đến nay Từ sau cách mạng tháng Tám (1945), nghiên cứu đình càng được quan tâm nhiều hơn. Đặc biệt sau năm 1954 nhiều cán bộ khoa học mới đã đi sâu hơn về đình làng, song chủ yếu chỉ dừng lại ở mô tả. Tới tận những năm 60 của thế kỷ XX, lực lượng nghiên cứu mới đã phát triển mạnh. Đáng chú ý, nghiên cứu về đình làng dưới góc độ tín ngưỡng, nghệ thuật có một bước tiến lớn so với thời kỳ trước năm 1954. Nghiên cứu đình làng có một số luận án dưới góc độ khảo cổ học như Trịnh Cao Tưởng, Nguyễn Anh Tuấn, Phan Xuân Thành, Nguyễn Hồng Kiên. 6 1.2.3. Tình hình nghiên cứu về đình làng ở Gia Lâm Một số luận văn nghiên cứu đơn lẻ, độc lập từng ngôi đình và mới chỉ dừng lại bước đầu tìm hiểu đưa ra một số nhận xét nhất định, chưa có tính nghiên cứu tổng thể. Các tham luận tại các hội thảo về đình làng ở Gia Lâm mục đích chủ yếu phục vụ cho công tác quy hoạch, tu bổ, tôn tạo di tích. Một số cuốn sách “Di tích lịch sử văn hoá và cách mạng kháng chiến quận Long Biên’’, “Cổ vật Long Biên’’, “Di tích lịch sử văn hoá – cách mạng kháng chiến huyện Gia Lâm’’. Những ngôi đình được giới thiệu trong sách nói trên và cả trong hồ sơ xếp hạng di tích cũng chỉ mang tính chất sơ lược. 1.3. Khái niệm thƣờng sử dụng trong luận án - Thuật ngữ sử dụng trong kiến trúc: Gian, chái, dĩ, chân tảng, cột, bộ vì, hiên, xà dọc, vì giá chiêng, câu đầu, đầu dư, con rường, ván nong/dong, hoành mái, guốc/dép hoành, cốn chồng rường, bẩy hiên, tàu má, rui, mè/gộprui, ván gió... - Thuật ngữ sử dụng trong nghệ thuật: Hình tượng,, hình tượng nghệ thuật, nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật dân gian truyền thống, nghệ nhân, họa tiết, hoa văn, chạm, chạm thủng, chạm nông, chạm kênh bong, chạm lộng, chạm nổi. 1.3. Tiểu kết chƣơng 1 Đình làng từ trước đến nay đã có một lịch sử nghiên cứu khá dày và công phu của nhiều tác giả. Các tác giả tập trung nghiên cứu đình làng: - Nghiên cứu đình làng tiếp cận về kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc. Các tác giả nghiên cứu mang tính tổng quan, cơ bản đã đưa ra đặc điểm riêng Việt của loại hình kiến trúc đình làng. Với những kết quả nghiên cứu về kỹ thuật chạm khắc, đề tài trang trí là cơ sở để xác định khung niên đại cho kiến trúc đình làng, đồng thời làm nền tảng cho việc nghiên cứu từng đình làng cụ thể. - Nghiên cứu đình làng tiếp cận dưới góc độ dân tộc học, văn hóa, tín ngưỡng đã đạt được những thành tựu nổi bật về vai trò, chức năng của đình làng: chức năng hành chính, tín ngưỡng và văn hóa cộng đồng làng. Điều 7 này cho ta thấy sức hấp dẫn về giá trị về lịch sử, văn hoá của đình làng. Điều này cho ta thấy sức hấp dẫn và các giá trị về lịch sử, văn hoá thông qua kiến trúc và trang trí trên kiến trúc đình làng. - Nghiên cứu về đình làng tiếp cận dưới góc độ khảo cổ học mới chỉ có một số tác giả đề cập. Các luận án này nghiên cứu về đình làng trong không gian rộng, thời gian dài từ thế kỷ XVI đến XVIII, đã bước đầu khái quát diện mạo loại hình kiến trúc đặc trưng trong kiến trúc cổ truyền dân tộc. Đặc biệt nghiên cứu đình làng ở châu thổ Bắc Bộ sẽ là những tư liệu chân xác góp phần đối chiếu về đặc điểm kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc trang trí cho các ngôi đình ở Gia Lâm. - Những vấn đề nghiên cứu đình làng ở Gia Lâm mới chỉ dừng lại mang tính chất miêu tả và khái lược giá trị, chưa nêu được tính tổng quan có tính hệ thống và chuyên biệt. - Luận án đã giới thiệu chung về nguồn gốc ngôi đình, cũng như vai trò của nó trong đời sống xã hội và tinh thần của người dân làng Việt, đánh dấu một bước phát triển của cơ cấu làng xã cổ truyền. Nó là biểu tượng của tính cộng đồng và dân chủ làng xã, là trung tâm văn hóa, là nơi tập trung và lưu truyền các giá trị văn hóa dân tộc, các phong tục tập quán tốt đẹp của cộng đồng làng. CHƢƠNG 2 ĐÌNH LÀNG THẾ KỶ XVII – XVIII Ở GIA LÂM 2.1. Vài nét về vị trí địa lý và lịch sử vùng đất Gia Lâm 2.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên 2.1.1.1.Vị trí địa lý Gia Lâm là huyện ngoại thành và nằm ở phía Đông Bắc Thủ đô Hà Nội. Ngăn cách nội thành Hà Nội bởi sông Hồng. Huyện Gia Lâm có 31 xã và 4 thị trấn được giới hạn như sau: phía Đông, Đông Bắc giáp với tỉnh Bắc Ninh; phía Nam, Đông Nam giáp tỉnh Hưng Yên; phía Tây giáp sông Hồng (nối với trung tâm Hà Nội qua cầu Long Biên, Chương Dương, 8 Thanh Trì; cầu Đuống, cầu Phù Đổng nối các tỉnh phía Bắc); phía Bắc giáp huyện Đông Anh. 2.1.1.2. Điều kiện tự nhiên * Địa hình: Địa hình Gia Lâm tương đối bằng phẳng, thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam theo hướng chung của địa hình vùng đồng bằng Bắc Bộ và theo hướng của dòng chảy sông Hồng. Sông Hồng và sông Đuống tạo thuận lợi về giao thông đường thuỷ. * Khí hậu, thuỷ văn: Từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau là mùa đông lạnh, thời kỳ đầu thường hanh khô nhưng đến nửa cuối của mùa đông lại thường ẩm ướt. Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 23 - 24OC. Biên độ nhiệt trong năm khoảng 12 - 13 OC, biên độ dao động nhiệt giữa ngày và đêm khoảng 6 - 7OC. Độ ẩm trung bình hàng năm khoảng 82%, ít thay đổi theo các tháng, thường chỉ dao động trong khoảng 78- 87%. Lượng mưa trung bình năm khoảng 1.600 - 1.800 mm. Sự chênh lệch lớn về mực nước giữa mùa khô và mùa lũ cũng ảnh hưởng nhất định đến nông nghiệp sinh thái ở các vùng bãi. Nhìn chung đây là vùng châu thổ được hình thành bởi hệ thống sông ngòi chằng chịt. Địa hình tương đối bằng phẳng nên vị trí xây dựng các công trình kiến trúc, trong đó có đình làng được lựa chọn trên những vùng đất cao, thuận tiện giao thông đường thủy, đường bộ, đáp ứng yêu cầu phong thủy của kiến trúc. 2.1.2. Vài nét về lịch sử vùng đất Gia Lâm Tên gọi Gia Lâm bắt đầu vào thời Lý (1010- 1225). Sau đó quận Gia Lâm đổi thành huyện, có lẽ vào thời Trần. Lỵ sở huyện Gia Lâm lần lượt đóng ở các xã Đặng Xá, Phú Thị, Ái Mộ, Trường Lâm và hiện nay ở Trâu Quỳ. Các thời Lý – Trần (1010 – 1400) huyện Gia Lâm thuộc phủ Thiên Đức lộ Bắc Giang. Đời Lê Thánh Tông (1466), huyện Gia Lâm chia 9 về phủ Thuận An thuộc Thừa tuyên Bắc Giang, sau đó đổi là trấn Kinh Bắc. Thời Nguyễn Minh Mệnh (1822) huyện Gia Lâm, phủ Thuận An thuộc trấn Bắc Ninh. Năm 1831 trấn Bắc Ninh đổi là tỉnh Bắc Ninh. Năm 1862, huyện Gia Lâm chia về phân phủ Thuận Thành thuộc tỉnh Bắc Ninh. Năm Duy Tân thứ 6 (1912) huyện Gia Lâm chia về phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Tháng 2 năm 1949, huyện Gia Lâm thuộc về tỉnh Hưng Yên. Tháng 11 năm 1949 huyện Gia Lâm lại thuộc về tỉnh Bắc Ninh. Đến 31 tháng 5 năm 1961, huyện Gia Lâm nhập về ngoại thành Hà Nội. Ngày 06 tháng 11 năm 2003, Gia Lâm tách một phần để thành lập quận Long Biên. 2.2. Những đình làng tiêu biểu ở Gia Lâm thế kỷ XVII - XVIII 2.2.1. Tổng quan về hệ thống đình làng ở Gia Lâm Theo số liệu thống kê năm 2014, ở Gia Lâm có 335 di tích lịch sử - văn hoá. Trong đó đình làng là 123. Số lượng đình được phân bố không đồng đều giữa các xã, phường, thị trấn. Hầu như làng nào cũng có đình. Trong hệ thống đình làng ở Gia Lâm nêu trên, có 5 ngôi đình: Xuân Dục, Tình Quang, Thanh Am, Công Đình, Trân Tảo tiêu biểu về kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc trang trí và niên đại xây dựng. 2.2.2. Những đình làng tiêu biểu thế kỷ XVII - XVIII 2.2.2.1.Đình Xuân Dục - Đình Xuân Dục hiện có quy mô kiến trúc lớn, thể hiện qua diện tích mặt bằng và chiều cao vượt trội trên kiến trúc xóm làng. Đình có quy hoạch khá độc đáo, kiểu chữ Công, gồm đại đình, thiêu hương và hậu cung. Đặc điểm gian giữa đình rất lớn với số đo (4,00m x 4,25m) và gian chái với kích thước cắt dọc là 4,95m. Đây là ngôi đình có quy mô lớn. - Đề tài trang trí: “Ngũ phúc khánh tiền”, sen, hồi văn, lá cúc lật, nhành cúc, nhành mai, cụm mây, viền lá đề, vân xoắn, rồng, Tứ linh, Tứ quý, chữ Thọ cách điệu, động vật, cảnh sinh hoạt: chuốc rượu, múa hát, người cưỡi ngựa, tiên cưỡi rồng, “Lưỡng long triều nhật (nguyệt)”, “Lưỡng long với nàng tiên”, “Bát bửu”. - Từ những truyền thuyết về lịch sử xây dựng đình, qua khảo sát và so sánh về mặt bằng kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc trang trí. Đặc biệt sự so 10 sánh “cánh gà’’, “ván lá gió’’ còn lại ở hai gian cạnh gian giữa với hình thức chạm nổi, bong kênh, thể hiện đề tài rồng, tiên cưỡi rồng, lưỡng long triều nguyệt có nét tương đồng, kế thừa phong cách kiểu cánh gà ở đình Tây Đằng, đình Thanh Lũng (niên đại thế kỷ XVI) và như cầu nối với những cánh gà của một số kiến trúc có niên đại vào cuối thế kỷ XVII mà điển hình ở đình Công Đình. Trong đó có sự so sánh nét tương đồng về trang trí của “cánh gà’’ đình Phù Lưu (Từ Sơn, Bắc Ninh). Về hiện vật, đình Xuân Dục còn lưu giữ nhiều sắc phong có niên đại sớm, trong đó có sắc niên đại Cảnh Trị thứ 8 (1671). Đã cho thấy niên đại xây dựng đình Xuân Dục vào đầu thế kỷ XVII theo tư liệu lịch sử là phù hợp. 2.2.2.2. Đình Công Đình - Đình Công Đình có quy mô vừa phải so với các ngôi đình cùng niên đại như đình Trân Tảo. - Đề tài trang trí: Rồng, “Lưỡng long triều hổ phù”, phượng chầu mặt trời, rồng, cúc mãn khai, cánh sen, “Tứ linh”, “Trúc hóa long”, “Mai hóa long”. - Lòng bụng 2 câu đầu gian giữa toà đại đình có ghi rõ: “Tuế thứ Mậu Thân thập nhị nguyệt nhị thập lục nhật Dần thời thụ trụ thượng lương đại cát hảo” (Giờ Dần ngày 26 tháng 12 năm Mậu Thân dựng cột cất nóc rất là tốt lành) và “Cảnh Trị lục niên thập nhị nguyệt nhị thập lục nhật...” (Ngày 26 tháng 12 năm Cảnh Trị thứ 6 tức năm 1668) (bản ảnh số 30). Qua phong cách nghệ thuật trang trí với hình thức chạm nổi, chạm lộng ở “cánh gà”, đầu dư về đề tài rồng và cửa võng chạm đề tài “Lưỡng long triều hổ phù” của đình Công Đình có sự tương đồng với nghệ thuật trang trí những ngôi đình cùng thời. Từ đó khẳng định đình Công Đình khởi dựng năm 1668. Đây là bằng chứng khảo cổ học quan trọng để nghiên cứu những ngôi đình có cùng phong cách nghệ thuật. Theo truyền thuyết tại địa phương về xây dựng đình so với tư liệu lịch sử là phù hợp. 2.2.2.3. Đình Tình Quang Với 6 hàng chân cột của một kiến trúc 5 gian 2 chái, với mặt cắt dọc là 26,68m. Đây là ngôi đình có quy mô lớn, phản ánh đương thời làng Tình 11 Quang khá giàu có, thể hiện rõ nét về sự phát triển nghệ thuật kiến trúc đình làng thuộc xứ Bắc. - Đề tài trang trí: Rồng, rồng ổ, lân, lân bắt rắn, uống rượu, “Tiên nữ cưỡi rồng”, cụm mây, vân xoắn, hạt tròn, lá cúc lật, phượng, sóng nước, “trúc hóa long”. - Đình Tình Quang hiện chưa tìm thấy tài liệu ghi niên đại khởi dựng. Nhưng bằng vào sự so sánh trí kiến trúc đình Công Đình và nghệ thuật điêu khắc trang trí đình Trân Tảo (Phú Thị). Với các đề tài trang trí ở các cốn là những hình tượng “Tiên cưỡi rồng’’, các cảnh sinh hoạt dân gian như uống rượu, rồi chạm khắc trên các đầu dư, đầu kẻ hiên hình tượng rồng, phượng, lân, ly, trúc hóa long cho thấy nó tương đồng với nghệ thuật trang trí đình Trân Tảo (có niên đại chính xác năm Cảnh Trị nguyên niên 1663). Từ những truyền thuyết về xây dựng đình, qua khảo sát và so sánh về mặt bằng kiến trúc, nghệ thuật trang trí kiến trúc nêu trên cho thấy niên đại xây dựng đình Tình Quang trước thời Chính Hòa (1680 – 1705) theo tư liệu lịch sử là phù hợp. 2.2.2.4. Đình Trân Tảo Đánh giá đặc điểm: tuy chỉ có 3 gian, 2 chái với 4 hàng chân cột nhưng các bước gian rất lớn: gian giữa 4,63m và các gian bên đều trên 4m. Như vậy, khoảng rộng của gian cơ bản đã tạo không gian rộng. - Đề tài trang trí: Vân xoắn, lá cúc, lá đề, tùng, hạc, rồng, lân, ly, cua, cá, ếch, rùa, dải mây, “Tứ linh”, sen, “tiên cưỡi rồng”, hồi văn có kèm đồ thờ, cúc mãn khai, chim, hổ, nai, chồn, sóc, sóng nước, “Tam đa”( dơi, hươu, tùng), cây cỏ. - Trang trí kiến trúc đình Trân Tảo có những chủ đề “Tiên cưỡi rồng’’, Hổ vồ nai, quản tượng, các cảnh sinh hoạt dân gian ở các cốn như ở đình Tình Quang. Các đầu dư chạm rồng có nét tương đồng với đầu dư đình Công Đình (khởi dựng năm 1668). Đặc biệt trên câu đầu gian giữa còn lưu lại dòng lạc khoản ghi rõ niên đại khởi dựng “Tuế tại Lê triều Quý Mão niên thập nhị nguyệt Ất Sửu nhị thập nhị nhật Canh Thân thụ trụ thượng lương đại cát” (Dựng cột cất nóc vào ngày 22 (ngày Canh Thân) tháng 12 12 (tháng Ất Sửu) năm Quý Mão triều Lê tức năm 1663). Có thể khẳng định, đình Trân Tảo được khởi dựng vào năm 1663. Như vậy so với truyền thuyết xây dựng đình của nhân dân địa phương là phù hợp. So với đình Tình Quang thì đây là ngôi đình có quy mô khá đồ sộ, khoảng cách các gian khá đồng đều (gian giữa và các gian bên), tuy nhiên gian chái vẫn lớn hơn so với các gian khác. Đó là đặc điểm để đáp ứng nhu cầu, chức năng của nó. - Đề tài trang trí: Vân xoắn, lá cúc, rồng, “Tứ linh”, “Tứ quý”, “Mai hóa long”, “Trúc hóa long”, “Tùng hóa long”, “Cúc hóa long”, đào, lựu, chữ Thọ cách điệu. - Từ những truyền thuyết về lịch sử xây dựng đình qua khảo sát và so sanh về mặt bằng kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc trang trí. Đặc biệt, hiện trên thân cột vẫn còn dấu tích mộng sàn. Một số đầu dư được chạm nổi, bong kênh, lộng với đề tài rồng có nét tương đồng với đầu dư đình Tình Quang. Cho thấy niên đại ngôi đình được xây dựng vào cuối thế kỷ XVII – đầu thế kỷ XVIII theo tư liệu lịch sử là phù hợp. 2.3. Tiểu kết chƣơng 2 Những đặc điểm đình làng tiêu biểu thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm: - Về vị trí xây dựng ở khá gần sông. Đình Xuân Dục, đình Thanh Am, đình Tình Quang, đình Công Đình nằm gần sông Thiên Đức (sông Đuống hiện nay), đình Trân Tảo gần sông Cầu Giàng (Nghĩa Giang). Đồng thời các ngôi đình đều được dựng trên một thế đất thoáng rộng theo thuật phong thủy. Đình thường quay hướng Nam, Tây Nam, Đông Nam tức là có yếu tố Nam. - Khởi đầu, những ngôi đình này chỉ có tòa đại đình kết cấu hình chữ “Nhất’’, dưới thời Nguyễn bổ sung các hạng mục khác như thiêu hương, hậu cung, tả - hữu vu, phương đình để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt cộng đồng và do biến động về chức năng của đình làng. - Đại đình thường có 5 gian, 2 chái với 6 hàng chân cột. Gian giữa thường lớn hơn các gian cạnh để phục vụ tế lễ. Gian chái lớn hơn các gian khác vì nó có kẻ góc, cốn góc để tạo đầu đao, mái hồi. Vậy thì những ngôi 13 đình này thường có tầu đao, lá mái. Đình Trân Tảo chỉ có 3 gian, 2 chái với 4 hàng chân cột. Như vậy, cũng có đình to, đình nhỏ do phụ thuộc vào 2 yếu tố cơ bản: điều kiện kinh tế và số lượng dân đinh ít nhiều. - Khởi dựng đình sử dụng sàn gỗ, sau này thay thế bằng lát nền gạch.Chưa sử dụng tường bao, ván đố mà để trống xung quanh. Tường bao chỉ bổ sung dưới thời Nguyễn. - Tỷ lệ so sánh giữa chiều cao từ nóc thượng lương xuống nền so với chiều cao từ giọt gianh xuống nền gần gấp trên dưới 3 lần. Chứng tỏ thân đình thấp, mái đình rộng. - Tỷ lệ phân chia hoành mái thường theo kiểu thức “Thượng tứ, hạ ngũ’’. Mực dù đình Trân Tảo có 4 hàng chân nhưng chia khoảng hoành “Thượng tứ, hạ ngũ”. Bên cạnh đó Công Đình, có 6 hàng chân cột nhưng lại chia khoảng hoành thành “Thượng tam, hạ tứ”. Như vậy việc phân chia khoảng hoành không phụ thuộc vào kích thước cắt ngang mà do từng quan niệm của địa phương. - Về điêu khắc trang trí, những ngôi đình này có nhiều chủ đề miêu tả cảnh sinh hoạt dân gian, những hình tượng con thú, cây cỏ, hoa lá. Hình tượng rồng chiếm số lượng lớn trong các mảng trang trí. Đi kèm với rồng là những đao mác, vân xoắn. Chưa thấy hình tượng rùa, đặc biệt chưa có đề tài “Tứ linh” trong các mảng trang trí. - Kỹ thuật điêu khắc thường sử dụng chạm lộng, chạm bong. - Trong 5 đình làng tiêu biểu, đình Xuân Dục dựng đầu thế kỷ XVII, đình Trân Tảo và Công Đình được khởi dựng dưới thời Cảnh Trị (1663 – 1671). Đình Tình Quang có khả năng đình Tình Quang khởi dựng cùng thời với đình Trân Tảo và Công Đình. Riêng đình Thanh Am, có khả năng dựng cuối thế kỷ XVII, sang đầu thế kỷ XVIII Chƣơng 3 NHỮNG GIÁ TRỊ LỊCH SỬ - VĂN HÓA CỦA ĐÌNH LÀNG Ở GIA LÂM THẾ KỶ XVII - XVIII 3.1. Những đặc trƣng của đình làng thế kỷ XVII - XVIII ở Gia Lâm 3.1.1. Vị trí xây dựng 14 Đình làng thế kỷ XVII - XVIII bao giờ đình cũng được xây dựng ở bìa làng, một nơi thoáng đãng, phía trước thường là cánh đồng, cánh bãi, không bị nhà dân che mặt, gần sông nước. Những đình làng ở Gia Lâm thế kỷ XVII – XVIII thường quay hướng Nam, hướng Tây hoặc hướng Tây Nam. 3.1.2. Quy mô kiến trúc Từ những tư liệu trên cho thấy, gian giữa các đình đều lớn hơn so với các gian bên. Gian chái có số đo lớn hơn các gian khác. Khoảng mặt cắt ngang giữa các cột cái với cột cái là lớn nhất tuy không thống nhất giữa các đình. Về cơ bản khoảng cách giữa các cột cái với cột quân đều trên 2,00m; khoảng cách giữa các cột quân với cột hiên khoảng từ trên 1,20m. Đình làng ở Gia Lâm thế kỷ XVII – XVIII có quy mô khá lớn so với các loại hình di tích khác. 3.1.3. Nghệ thuật điêu khắc trang trí Trong điêu khắc trang trí trên kiến trúc, những ngôi đình này có những đặc trưng chung ở hai khía cạnh: - Kỹ thuật chạm khắc: đa phần trang trí trên các ngôi đình sử dụng kỹ thuật chạm lộng, bong kênh ở đầu dư, nghé, đầu kẻ, cốn, cánh gà. Những đường nét chạm khắc chắc khỏe, khối gọn, mềm mại và ấm cúng. - Đề tài trang trí khá phong phú phản ánh nhiều mặt đời sống tinh thần xã hội là những cảnh sinh hoạt cộng đồng, phản ánh tính dân gian rất cao. Bên cạnh đó có đề tài tùng, trúc, ít nhiều có tác động của tầng lớp nho sĩ. - Đề tài thể hiện nhiều nhất là hình tượng rồng, mây, vân xoắn. Mặc dù trong trang trí có rất nhiều hình tượng rồng, lân, ly, phượng nhưng chưa thấy hình tượng rùa để tạo thành bộ “Tứ linh” hoàn chỉnh. 3.1.4. Niên đại của các ngôi đình - Chưa phát hiện được ngôi đình nào xây dựng trước thế kỷ XVII mà chủ yếu được dựng từ nửa cuối thế kỷ XVII trở về sau. - Cũng trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVII đã phát hiện nhiều đình làng ở Gia Lâm dựng trước thời Chính Hòa. 15 - Đình làng ở Gia Lâm thế kỷ XVII – XVIII được ra đời trong bối cảnh chung của sự nở rộ các đình làng. 3.2. Đình làng ở Gia Lâm thế kỷ XVII – XVIII trong hệ thống kiến trúc đình làng Việt Nam 3.2.1. Mối quan hệ với hệ thống đình làng ở Gia Lâm 3.2.1.1. Vị trí xây dựng - Về vị trí xây dựng, đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm thường ở gần các dòng sông. Đến thời Nguyễn nhiều đình xây dựng xa sông hiện tượng tách làng, những làng này không ở gần sông. Từ thời Nguyễn về sau, hướng của các ngôi đình cũng đa dạng, không theo truyền thống, mà đình hướng ra đường cái. Có lẽ do nhận thức truyền thống bị suy lạc, mang tính thực dụng hoặc giai đoạn này ngôi đình do chuyển chức năng nặng tính Đền thờ nhiều hơn. 3.2.1.2. Quy mô kiến trúc Đình làng ở Gia Lâm thế kỷ XVII – XVIII vẫn là công trình kiến trúc có quy mô lớn hơn các ngôi đình được xây dựng sau này. Ngoại trừ một số làng có công trình khác to lớn như đền, chùa do triều đình cho xây dựng hoặc có sự tham góp của một số quý tộc như chùa đền Bà Tấm (Dương Xá), chùa Đại Dương tức chùa Sủi (Phú Thị), đền Gióng (Phù Đổng). 3.2.1.3. Nghệ thuật điêu khắc trang trí Những ngôi đình này phản ánh khá rõ nét bối cảnh xã hội đương thời, mà nổi lên trên hết là ước vọng khát khao của người nông dân về cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Ước vọng cầu mưa, cầu mùa cho mùa màng bội thu của cư dân nông nghiệp lúa nước thông qua hình tượng rồng, mây. Ước vọng của con người để vươn tới cuộc sống tốt đẹp, tồn tại cùng đất trời, thể hiện sức sống vĩnh cửu thông qua việc cầu Thọ, cầu Phúc với những hình ảnh về cây Tùng, con Hạc, con Dơi. Trên trang trí kiến trúc chưa thấy những hình tượng miêu tả chiến tranh, chắc rằng đây hẳn là ước vọng hoà bình v.v.. và còn nhiều những ước mơ khác nữa. Những đình làng ở Gia Lâm được dựng dưới thời Nguyễn vắng hẳn những đề tài trang trí như cảnh sinh hoạt múa hát dân gian, những hươu, 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất