Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận án cổng làng người việt ở châu thổ bắc bộ...

Tài liệu Luận án cổng làng người việt ở châu thổ bắc bộ

.PDF
24
121
92

Mô tả:

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Văn hóa truyền thống của người Việt từ ngàn đời nay được lưu giữ một phần lớn và quan trọng là ở làng. Làng Việt ở Bắc Bộ là nơi định cư sớm của cư dân Việt. Đa phần công việc trong làng là làm nghề nông. Về cảnh quan, có đường làng, chùa làng, đình làng, ao làng, chợ làng,... và nhiều làng không thể thiếu cổng làng. Cổng làng được các nhà nghiên cứu văn hóa xếp vào danh mục các di sản văn hóa vật thể, cũng như các di tích kiến trúc nghệ thuật khác như đình, chùa, đền, miếu, văn chỉ, từ chỉ, nhà thờ họ... Song, cổng làng không chỉ là di sản văn hóa vật thể. Ẩn sau diện mạo khó quên của những chiếc cổng làng, còn có những giá trị văn hóa phi vật thể mà nếu được quan tâm nghiên cứu, cổng làng sẽ là tư liệu quý, giúp chúng ta hiểu thêm về làng Việt và văn hóa dân tộc. Là một bộ phận cấu thành của thực thể làng Việt, cổng làng có vai trò, chức năng của nó. Cổng làng thể hiện mơ ước, nguyện vọng của cộng đồng, mang giá trị tâm linh, trở thành một biểu tượng khó mờ phai đối với dân làng. Thêm nữa, cổng làng còn là vách ngăn, một thứ biểu tượng để phân biệt làng này với làng khác, là nơi chức dịch kiểm soát dân làng. Vai trò, chức năng ấy đã dần dần thay đổi. Những yếu tố truyền thống và biến đổi hiện nay trong nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc trang trí, những yếu tố vay mượn của cổng làng và ý nghĩa của cổng làng trong không gian văn hóa của làng quê xưa và nay luôn luôn cần được tìm hiểu. Việc nghiên cứu một cách hệ thống cổng làng vùng châu thổ Bắc Bộ sẽ góp phần khẳng định những giá trị truyền thống văn hóa của làng, góp thêm tiếng nói vào việc nghiên cứu sự biến đổi văn hóa hiện nay. Thực trạng của cổng làng hiện nay có rất nhiều vấn đề đáng quan tâm. Số lượng cổng làng cũ hiện tại không còn nhiều bởi rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Có nhiều cách lý giải, ứng xử trước sự biến đổi này. Liệu có cần thiết giữ gìn nét truyền thống của cổng làng ở mỗi làng quê cho phù hợp với cảnh quan không gian của làng? Sự tồn tại của cổng làng sẽ làm tôn thêm vẻ đẹp truyền thống của mỗi làng, hay chỉ bó buộc không gian sống của con người, cản trở giao thông khi xe cộ càng nhiều, kích thước càng lớn? Khi xây mới hoặc tu sửa cổng cũ thì cần lưu ý những gì? Trong thời kì mở cửa, hội nhập và phát triển kinh tế, văn hóa hiện nay, cổng làng cũng như nhiều loại hình văn hóa nghệ thuật khác đã trải qua nhiều tác 1 động tiêu cực của thời gian, của cơ chế thị trường và những bất cập trong quản lý văn hóa, đặc biệt là của quá trình đô thị hóa quá nóng. Diện mạo, chức năng và giá trị của cổng làng đang dần mai một theo văn hóa truyền thống. Để bảo tồn, phát huy và khai thác những giá trị lịch sử - nghệ thuật cổng làng của người Việt vùng châu thổ Bắc Bộ trong bối cảnh hiện nay, với những lý do vừa trình bày, tôi chọn “Cổng làng người Việt ở châu thổ Bắc Bộ” làm đề tài nghiên cứu. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Nhận diện cổng làng ở châu thổ Bắc Bộ trong quá trình lịch sử, trình bày diện mạo, chức năng, giá trị và vai trò của nó trong xã hội truyền thống và đương đại. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 2.2.1. Tìm hiểu sự vận động của cổng làng ở châu thổ Bắc Bộ trong diễn trình lịch sử 2.2.2. Phân tích các chức năng, giá trị của cổng làng truyền thống 2.2.3. Khảo sác các xu hướng ứng xử hiện nay với cổng làng 2.2.4. Trình bày những suy nghĩ về vai trò của cổng làng trong xã hội đương đại, dự báo số phận của nó trong tương lai. Khi thực hiện những nhiệm vụ trên, tức là NCS đã trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu sau: - Cổng làng ra đời từ bao giờ, diện mạo, chức năng xã hội và giá trị của nó ra sao? - Cổng làng biến đổi như thế nào trong cuộc sống hiện nay? 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là các cổng làng truyền thống và cổng làng mới ở châu thổ Bắc Bộ từ xưa đến nay. 3.2.Phạm vi nghiên cứu 3.2.1.Không gian nghiên cứu Không gian nghiên cứu là cổng làng ở châu thổ Bắc Bộ. Châu thổ Bắc Bộ là một vùng rộng lớn, bên cạnh việc cố gắng bao quát bức tranh chung, tình hình chung, NCS chọn những điểm nghiên cứu có tính đại diện. 3..2.2.Thời gian nghiên cứu Tác giả luận án bắt đầu nghiên cứu cổng làng Bắc Bộ từ năm 2009 đến tháng 8 năm 2015. Những thông tin về thời gian trước năm 2009 là những thông 2 tin hồi cố từ các cán bộ dân làng địa phương hoặc chúng tôi thu thập từ thư tịch, báo chí. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Phương pháp luận 4.1.1. Đặt cổng làng trong bối cảnh của làng (bao gồm điều kiện địa lí tự nhiên, không gian vật lí và không gian văn hóa xã hội). 4.1.2. Nhìn đối tượng trong sự vận động, vận dụng những tri thức về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật để lí giải sự biến đổi, sự xuất hiện những yếu tố mới, sự vắng bóng những yếu tố cũ. 4.2.Phương pháp nghiên cứu 4.2.1. Phương pháp tập hợp và hệ thống hóa các tài liệu thứ cấp. Tài liệu viết về cổng làng khá hiếm. Nhiều khi trong một cuốn sách, trong một bài tạp chí, chúng tôi chỉ tìm được mươi dòng có thông tin liên quan đến đề tài luận án. 4.2.2. Phương pháp khảo sát thực địa. NCS khảo sát 47 cổng làng tại Hà Nội và các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Thái Bình, Hưng Yên; chụp ảnh, hỏi chuyện người dân địa phương. 4.2.3. Các phương pháp phân tích và tổng hợp trong nghiên cứu văn hóa dân gian. Tiếp thu những gợi ý của các tác giả đi trước, NCS hiểu cổng làng là một tổng thể, nhiều yếu tố. Để hiểu nó, cần phân tích kĩ những yếu tố cụ thể để sau đó sẽ tổng hợp lại. 4.2.4. Phương pháp xin ý kiến chuyên gia. NCS xin ý kiến bốn nhà khoa học thuộc các lĩnh vực Văn hóa dân gian và Hán Nôm. 4.2.5. Phương pháp so sánh. NCS so sánh giữa các cổng làng với nhau để hiểu cái chung và nét riêng của từng khu vực và từng thời đại, so sánh làng Việt Bắc Bộ với làng Việt ở Trung, Nam Bộ. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án 5.1. Đưa ra cái nhìn hệ thống về cổng làng của người Việt ở Bắc Bộ từ góc nhìn văn hóa học, trình bày những mốc chính trong diễn trình lịch sử của nó (trong điều kiện tài liệu hiện nay cho phép), mô tả và phân loại chi tiết về cổng làng. 5.2. Phân tích các chức năng, giá trị của cổng làng, nhìn nhận vai trò của các chức năng này trong diễn trình lịch sử. 5.3.Trình bày các xu hướng ứng xử với cổng làng trong cuộc sống đương đại, đề xuất những suy nghĩ để các nhà quản lí và giới nghiên cứu tham khảo. 3 6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lí luận 6.1.1. Góp phần vào việc nhận diện cảnh quan, đời sống văn hóa, tâm linh ở nông thôn Bắc Bộ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhận diện sự biến đổi của những yếu tố này trong thời đại mới. 6.1.2. Làm rõ vai trò qua lại giữa các thành tố trong một hệ thống với toàn bộ hệ thống và sự tương tác giữa các yếu tố trong một hệ thống. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn 6.2.1. Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là tài liệu tham khảo cho các nhà quản lí, các cấp có thẩm quyền trong việc bảo tồn di sản văn hóa vật thể, hoạch định, xây dựng nông thôn mới hiện nay. 6.2.2. Bản luận án sẽ góp phần vào nhận thức của người dân Việt nói chung, của thế hệ trẻ nói riêng trên con đường tìm về cội nguồn, hướng về cội nguồn, trong đạo lí uống nước nhớ nguồn để từ đó thêm yêu quê hương, đất nước. 7. Cơ cấu của luận án Trong phần chính văn, ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, bản luận án có bốn chương như sau: Chương 1. Lịch sử nghiên cứu cổng làng, tổng quan về châu thổ Bắc Bộ và làng Việt, lý thuyết vận dụng (tr.8 - tr.47) Chương 2. Nhận diện cổng làng truyền thống Bắc Bộ (tr.48 - tr.86) Chương 3. Chức năng và giá trị của cổng làng ở châu thổ Bắc Bộ (tr.87 - tr.120) Chương 4. Cổng làng trong lịch sử và trong cuộc sống đương đại, những vấn đề bàn luận (tr.121 - tr.147). Chương 1 LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU CỔNG LÀNG, TỔNG QUAN VỀ CHÂU THỔ BẮC BỘ VÀ LÀNG VIỆT, LÝ THUYẾT VẬN DỤNG 1.1. Lịch sử nghiên cứu cổng làng 1.1.1.Tài liệu viết không tập trung về cổng làng Cổng làng ít được chú ý đến trong công trình của các tác giả đi trước. Nếu đề cập đến, họ chỉ dành mươi dòng miêu thuật về nó và chủ yếu nói đến chức năng phòng vệ, phòng thủ của cổng làng. 4 1.1.2.Tài liệu tập trung giới thiệu, nghiên cứu cổng làng Có ba tài liệu tập trung viết về cổng làng là luận văn thạc sĩ của Giang Thị Thu Hiền, cuốn sách của Vũ Kiêm Ninh và bài tạp chí của tác giả L.T.L. Đây là những tư liệu thực sự bổ ích đối với chúng tôi1. Dành hẳn sự quan tâm đối với cổng làng, năm 2011, tác giả luận án đã bảo vệ luận văn thạc sĩ Cổng làng ở ngoại thành Hà Nội truyền thống và biến đổi. Trên cơ sở tiếp thu những suy nghĩ, những nhận xét gợi mở của các tác giả đi trước, NCS đã khảo sát, tìm hiểu về sự biến đổi của cổng làng hiện nay tại hai xã Dương Xá và Kim Sơn thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội. Những thông tin trong luận văn mới dừng lại ở việc mô tả so sánh cổng làng thuộc huyện Gia Lâm ngoại thành Hà Nội, bàn về vấn đề bảo tồn di sản văn hóa của làng. Trong luận án này, tác giả luận án có sử dụng kết quả điền dã về cổng làng khi thực hiện luận văn cao học. Như vậy, việc điền dã của tác giả luận án được tiến hành từ năm 2009 đến năm 2015. 1.2. Tổng quan về châu thổ Bắc Bộ và làng Việt 1.2.1. Tổng quan về châu thổ Bắc Bộ Sở dĩ chúng tôi trình bày về châu thổ Bắc Bộ bởi chỉ làng Việt ở Bắc Bộ mới có cổng làng truyền thống. Châu thổ Bắc Bộ là nơi có đất đai phì nhiêu, cư dân tụ cư sớm và đông đúc, là nơi giao lưu tiếp xúc sớm với các luồng văn hóa bên ngoài. 1.2.2. Làng của người Việt ở châu thổ Bắc Bộ 1.2.2.1. Tên gọi “làng”, “xã”, tên làng Trong công trình Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ (xuất bản lần đầu năm 1984), nhà dân tộc học Nguyễn Từ Chi với bút danh Trần Từ, đã phân biệt ba khái niệm làng, xã, thôn.Tên làng có nhiều loại. 1.2.2.2. Làng là một tập hợp cư dân dưới nhiều góc độ Đó là các góc độ địa vực cư trú, huyết thống, giáp, các phe, hội, phường,... 1.2.2.3.Những cảnh quan thường thấy ở làng Đó là đường làng, cây đa làng, lũy tre làng, chợ làng, chùa làng, đình làng, văn chỉ, cổng làng,... 1.3. Lý thuyết vận dụng Chúng tôi tiếp cận cổng làng dưới góc độ của khoa nghiên cứu văn hóa dân gian. Những quy phạm của khoa học này được tác giả Đinh Gia Khánh thể hiện 1 Những tư liệu trích dẫn chúng tôi đã trình bày cụ thể trong luận án. 5 trong cuốn sách Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian (1989), trong bài viết: “Để nắm bắt thực chất của văn học dân gian”, (1977). Tác giả cho rằng, nếu hiểu văn hóa dân gian theo nghĩa rộng, tất cả các hoạt động vật chất và tinh thần của dân chúng đều là văn hóa dân gian. Theo ông, tác giả của văn học, văn hóa dân gian là người nông dân, thợ thủ công và có cả sự tham gia của nhà nho. Khi nghiên cứu cổng làng, chúng tôi còn được gợi ý bởi lý thuyết chức năng trong nghiên cứu văn hóa. Tiếp thu lí thuyết này, NCS nhận thấy rằng cổng làng đáp ứng nhu cầu phòng vệ của dân làng, nhu cầu tự thể hiện, phân biệt làng mình với làng khác. Xét về cấu trúc, trong mối quan hệ với làng thì cổng làng là một thành tố, là một bộ phận; trong mối quan hệ với bộ phận (trụ cổng, cánh cổng, ...), cổng làng là một chỉnh thể. Trong quá trình thực hiện luận án, NCS còn tiếp cận lí thuyết về giá trị. Giá trị chỉ tính có ích, có ý nghĩa của những sự việc, hành động có khả năng thỏa mãn nhu cầu phục vụ lợi ích của con người. Ở đây, các sự vật hiện tượng được xem xét dưới góc độ đúng không hay không đúng, có ý nghĩa tích cực hay không đối với đời sống xã hội. Tiểu kết Tài liệu viết về cổng làng người Việt không nhiều, có loại chỉ đề cập ít dòng đến cổng làng, chỉ có ba tài liệu của Giang Thị Thu Hiền, Vũ Kiêm Ninh và L.T.L tập trung viết về đối tượng này. Chỉ có làng Việt ở Bắc Bộ mới có cổng làng truyền thống. Vì vậy luận án giới thiệu khái quát về châu thổ Bắc Bộ, phân biệt làng, xã, thôn, nhìn làng người Việt ở châu thổ Bắc Bộ dưới nhiều góc độ, nhận diện các cảnh quan thường thấy ở một làng cổ. Khi nghiên cứu cổng làng, NCS vận dụng các quy phạm của khoa nghiên cứu văn hóa dân gian do GS.Đinh Gia Khánh đề xuất, vận dụng lý thuyết chức năng của B.Malinowski và A.Racliff Brown, vận dụng lý thuyết giá trị do GS. Ngô Đức Thịnh tổng kết. 6 Chúng tôi đã sử dụng các phương pháp: tập hợp và hệ thống hóa các tài liệu thứ cấp, khảo sát thực địa, phân tích và tổng hợp trong nghiên cứu văn hóa dân gian, xin ý kiến chuyên gia, phương pháp so sánh. Chương 2 NHẬN DIỆN CỔNG LÀNG TRUYỀN THỐNG Ở CHÂU THỔ BẮC BỘ 2.1. Vị trí và sự phân bố cổng làng 2.1.1. Vị trí cổng làng Khi xây dựng một cổng làng, chức dịch và dân làng phải cân nhắc kĩ càng, chọn vị trí chiếc cổng sao cho phù hợp với cảnh quan kiến trúc và môi trường tự nhiên, môi trường sinh thái, thuận tiện cho việc ra vào làng, đảm bảo an ninh của làng. Từ xưa tới nay, người ta thường quan niệm, khi xây dựng một công trình kiến trúc nên chọn hướng Đông Nam để đón gió lành, đón mặt trời mọc, hợp với tuổi của người có uy tín trong làng. Với cổng làng, hướng của cổng còn phụ thuộc vào vị trí địa lí của làng. Thông thường cổng chính ở đầu làng, cổng phụ ở cuối làng, nơi dẫn ra các khu vực sản xuất, canh tác hay bãi tha ma của làng. Nhìn chung, so với đình và chùa, cổng làng ít bị gò bó hơn bởi yếu tố phong thủy, có chăng khi xây dựng, người ta lưu ý đến sự gắn kết với các yếu tố tâm linh của cảnh quan kiến trúc xung quanh....Tất cả việc chọn hướng, chọn ngày xây cất, việc tính đến yếu tố phong thủy đều xuất phát từ mong muốn mọi điều an lành, yên vui cho dân làng. 2.1.2. Sự phân bố và hướng của cổng làng Làng Việt ở châu thổ Bắc Bộ gắn liền với đất và nước mà không phải gắn với rừng núi. Làng Việt ở châu thổ Bắc Bộ ít có sự thay đổi về cảnh quan, diện tích nơi ở, đất đai màu mỡ, nên có tính tụ cư cao. Nhà nghiên cứu Diệp Đình Hoa cho biết về những loại hình cư trú thể hiện đặc trưng độc đáo của từng địa phương cụ thể: “Ở vùng đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ loại tổ chức theo lối co cụm tồn tại tương đối phổ biến”. Làng được phân bố tập trung thành từng cụm hay trải dài theo đường giao thông hoặc cũng có thể bám theo đường giao thông thủy để thuận tiện cho việc sinh cơ lập nghiệp. Trong một làng không quy định phải có bao nhiêu cổng làng hay cổng xóm. Số lượng cổng trong mỗi 7 làng, tùy thuộc vào đặc điểm cấu trúc của làng, liên quan đến địa hình của làng. Thông thường, các làng có một (hoặc hai) cổng. Cổng chính thường là cổng đánh dấu mốc đầu làng, dẫn theo trục đường làng chính chạy dọc xuống cuối làng; lại có một cổng thường nhỏ hơn hay còn gọi là cổng phụ (cổng hậu), tức cổng đi ra đồng, dành cho dân làng đi làm việc, hoặc cho đoàn của đám tang, nếu người chết vào kỳ hội hay lệ tiệc chính của làng.. Loại hình và số lượng cổng như thế này thường chỉ có ở những làng mà tất cả các xóm co cụm liền nhau trong một khoảnh, đường vào làng không phải là đường liên làng như làng Cầu Nôm, Ước Lễ, Kim Sơn, Thổ Hà, Đại Áng,... 2.2. Phân loại cổng làng 2.2.1.Phân loại theo chất liệu Có thể phân loại cổng làng theo nhiều tiêu chí. Theo chất liệu làm cổng, sẽ có hai loại cổng làm bằng tre và cổng không làm bằng tre. Loại cổng không làm bằng tre bao gồm loại cổng được xây dựng bằng gạch kết hợp với gỗ, sau này thêm xi măng, sắt, loại cổng xây bằng đá ong như cổng làng Mông Phụ, thị xã Sơn Tây, Hà Nội. Cổng xây bằng đá như cổng làng Vũng, xã Phượng Cách, huyện Quốc Oai, Hà Nội. Loại cổng được làm bằng tre ra đời trước, muộn nhất đến thế kỉ XIII nó đã bảo vệ làng quê trước toán quân xâm lược Nguyên Mông. 2.2.2. Phân loại theo kiểu dáng Cổng làng được thiết kế theo nhiều kết cấu khác nhau, rất phong phú, đa dạng. Mỗi cổng thường có những nét kiến trúc độc đáo riêng. Có dạng cổng chỉ đơn giản như một bức tường “trổ” một lối ra vào (nhất môn), có dạng cổng giống như một tam quan chùa, cũng “hai tầng tám mái”, chạm trổ nề ngõa công phu (có thể là tam quan, ngũ môn quan), các cổng thường được xây bằng gạch, vôi vữa, đá, lợp ngói. Lối vào có hai dạng chính: hình vòm cuốn hoặc hình chữ nhật, được đỡ bởi bốn trụ chính. Nếu cổng có mái thì thường mái cong, cũng có đầu đao uốn cong như mái đình nhưng ngắn hơn nhiều. Phía tầng trên thường có chỗ rộng để người làng có thể trèo lên đó nhìn bao quát ra phía bên ngoài, phía dưới. Trên đỉnh mái ở chính giữa thường có những biểu tượng vòng tròn âm, dương được bao bọc xung quanh là ngọn lửa. Cổng làng thường được xây theo lối bố cục đăng đối. Ở giữa trán cổng là hàng chữ đại tự đắp nổi tên làng, hai bên cột là hai hàng câu đối ở bên trong hoặc bên ngoài, các chữ có bố cục vừa phải, tỉ lệ cân đối. 8 Cổng làng có thể phân chia làm năm dạng thức cơ bản: dạng cổng có trán cao, dạng cổng không có trán, dạng cổng bên ngoài có trán cao bên trong có lợp ngói, dạng cổng xây theo lối “thượng gia hạ môn”, dạng cổng xây như gian nhà ở. Trong năm loại vừa nêu lại có thể phân loại chúng dựa theo tiêu chí số lượng cửa. Theo tiêu chí này, có hai dạng: dạng cổng một cửa, dạng cổng nhiều hơn một cửa là ba đến năm cửa. Dạng có một cửa cũng đa dạng: có trán cao hoặc không có trán cao. Dạng có từ ba đến năm cửa, giống tam quan chùa, nghi môn đình, loại này có thêm tầng gác để tuần đinh có thể quan sát xung quanh. 2.2.3. Phân loại theo niên đại xây dựng Nhiều cổng làng chưa xác định được niên đại cụ thể. Do vậy có thể tạm thời chia cổng làng thành hai loại dưới đây. Cổng được xây dựng, tu bổ trước năm 1945. Loại cổng này hiện vẫn còn ở các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Hưng Yên và một số địa phương của Hà Nội như: Sơn Tây, Gia Lâm, Đông Anh, Thanh Oai, Hoài Đức, Quốc Oai. Các cổng làng này cũng đã được người dân địa phương tu sửa ít nhất từ một đến hai lần. Số cổng cổ còn thấy ở các tỉnh Thái Bình, Hải Dương, Nam Định là rất hiếm. Cổng được xây dựng, phục dựng sau năm 1945. Số lượng cổng được xây mới tập trung nhiều ở các khu dân cư đã được đô thị hóa, ở những nơi “làng lên phố”. Cổng làng thường được bê tông hóa với sự có mặt của sắt thép, xi măng, dưới dạng cổng chào nhiều hơn, tập trung ở các huyện giáp ranh với nội đô Hà Nội như các huyện Đông Anh, Gia Lâm. 2.3. Điêu khắc, trang trí trên cổng làng Nghệ thuật tạo hình dân gian luôn gắn với các công trình kiến trúc, đặc biệt là nghệ thuật điêu khắc và trang trí được xuất hiện nhiều trên các cổng như cổng nhà, cổng đình chùa, cổng làng...Mỗi con vật trang trí trên cổng thường có ý nghĩa riêng. Người xưa rất chú ý đến tỉ lệ, đường nét, hình khối bởi họ quan niệm đó là bộ mặt của làng. Những chiếc cổng được tạo dáng phù hợp với đặc điểm cũng như hoàn cảnh lịch sử ra đời của làng. Thông thường làng nhỏ cổng nhỏ, làng lớn cổng lớn. Xưa kia khi ra vào làng người ta dùng các phương tiện thô sơ (những chiếc xe kéo hay đơn giản là đi bộ). Cổng không cần phải quá rộng, cánh cổng thường được làm bằng gỗ có thể mở ra đóng vào. Trên trụ, trán các cổng làng nói chung có được đắp hình con vật như nghê, cá chép, rùa, dơi, chim phượng, rồng,... Ở chân cổng có khi có con chó đá. Hoa văn trang trí phổ biến nhất là hoa thị (trên lan can cổng làng Ước Lễ), hoa chanh 9 (trên lan can cổng làng Thổ Hà)...Biểu tượng điêu khắc hay những đồ án trang trí trên cổng làng có khi thể hiện tính tôn giáo, cho biết làng theo tôn giáo tín ngưỡng gì. Ở những làng theo đạo Thiên Chúa, cổng làng thường không trang trí biểu tượng nghê, phượng, rồng mà chủ yếu là dạng hoa văn theo phong cách châu Âu như cổng làng Nhật Tảo, cổng làng Thượng Thụy, nay đều thuộc quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội. Các con vật, cây cỏ hoặc họa tiết hoa văn thể hiện mối quan hệ ảnh hưởng giữa văn hóa cung đình, bác học và văn hóa dân gian. Những con vật, hay họa tiết hoa văn trang trí trên cổng dù được tạo tác cách điệu bao nhiêu vẫn mang ý nghĩa tả chân, tức là người ta vẫn nhận ra chúng. Nếu tách riêng ra thì bản thân chúng đã là những tác phẩm mĩ thuật. Vẻ đẹp mĩ thuật lại được ý nghĩa văn hóa mà các cư dân gán cho chúng, làm cho chúng vừa xa lạ vừa thân quen. 2.4. Mối quan hệ giữa cổng làng với đình làng và chùa làng Qua những gì còn có thể quan sát được, có thể nghĩ rằng tam quan của chùa và nghi môn của đình là những gợi ý để dân làng xây dựng cổng làng. Bởi vậy, có một số ít cổng làng không khác gì tam quan chùa, nghi môn đình. Nhìn chung những cây trụ cổng của đình và chùa thường không có trán như cổng làng (cổng đình thường ít có mái che). Điều này dễ hiểu vì cổng đình, chùa không có chức năng phòng vệ như cổng làng mà chỉ có chức năng tâm linh, ngăn cách giữa bên ngoài và bên trong (chốn linh thiêng, huyền bí). Trong một số trường hợp, sở dĩ cổng đình trước kia sau biến thành cổng làng là do những năm tháng chiến tranh, cổng làng bị phá, còn lại cổng đình và dân làng gọi cổng đình là cổng làng, như cổng làng Yên Bình, xã Dương Xá, Gia Lâm là một thí dụ. Hoặc cũng có trường hợp cổng làng được đặt cùng hướng với đình và lúc này cổng làng cũng được gọi là cổng đình. Tiểu kết Thông thường nhiều làng có cổng, có làng chỉ có một cổng trước, ở cuối làng người ta trổ qua lũy tre một cổng nhỏ để ra đồng làm việc. Cũng có làng có cả hai cổng xây, cổng trước và cổng sau hình dáng và kích thước giống nhau chỉ khác những chữ đại tự và câu đối. Cổng chính thường ở đầu làng, các quan khách và những người phương xa đều vào làng từ cổng này.Lại có những làng có nhiều cổng. Số lượng của cổng làng phụ thuộc vào địa hình và vị trí của làng, hướng của cổng làng cũng phụ thuộc vào kiểu tụ cư của làng, đôi khi cũng phụ thuộc vào hướng của đình. 10 Có nhiều cách phân loại cổng làng. Theo chất liệu làm cổng, sẽ có loại cổng làng làm bằng tre và loại cổng không làm bằng tre. Trong loại cổng không làm bằng tre, có loại cổng chủ yếu làm bằng gỗ, có loại được xây dựng gỗ kết hợp với gạch, có loại xây bằng đá ong, đá tảng. Người dân xưa thường khai thác chất liệu sẵn có ở địa phương mình để làm cổng. Điều này đã tạo nên nét riêng của một số cổng làng. Trừ loại cổng tre, trong loại cổng xây có thể phân thành năm dạng thức cơ bản khi ta nhìn vào trán của cổng làng. Ngoài ra còn có thể phân loại dựa theo tiêu chí số lượng cửa. Người ta cũng có thể phân loại theo niên đại xây dựng. Theo tiêu chí này, chúng ta có loại cổng trước năm 1945 và loại cổng sau năm 1945. Nghệ thuật điêu khắc trang trí trên cổng làng thể hiện sự tài khéo, óc thẩm mĩ của những người thợ nề, thợ ngõa xưa. Qua các con vật hoặc cỏ cây hoa lá được đắp trên cổng làng, người ta thấy được ảnh hưởng của dòng văn hóa bác học đối với nghệ thuật dân gian. Đồng thời ở đây lại thấy xuất hiện sự phá cách hồn nhiên của người thợ bình dân như con nghê trên cổng làng Cầu Nôm (Hưng Yên),con chó đá ở cổng làng An Thọ, phường Bưởi (Hà Nội), như cây khoai nước được đắp trên cổng Tây, làng Duyên Hà (Thái Bình). Cổng làng còn thể hiện mối quan hệ với chùa làng và đình làng. Chùa làng và đình làng được xây dựng sớm hơn. Những cổng làng có từ ba cửa trở lên được gợi ý từ tam quan chùa, nghi môn đình. Nhìn chung những cây trụ cổng của đình và chùa thường không có trán và ít khi có mái che. Sở dĩ có sự khác nhau này là do cổng chùa và cổng đình không có chức năng phòng vệ như cổng làng. Chương 3 CHỨC NĂNG VÀ GIÁ TRỊ CỦA CỔNG LÀNG Ở CHÂU THỔ BẮC BỘ 3.1. Chức năng của cổng làng 3.1.1. Chức năng phòng vệ Về sự canh phòng, trong hương ước của nhiều làng có nhiều đoạn giống nhau. Điều này cho thấy nhu cầu phòng vệ là phổ biến ở các làng xã xưa. Bởi vậy người ta phải rào làng, phải bao bọc làng bởi lũy tre dày mà bề ngang của nó có khi dày tới chục mét. Một số làng còn có những dòng sông nhỏ chắn trước 11 hoặc sau. Muốn ra vào được làng, người ta phải qua cổng. Khi hai cánh cổng đã đóng lại, trộm cướp rất khó vào, thậm chí có làng khi gặp nạn lũ lụt, nước dâng cao cũng không thể tràn qua hai cánh cổng này. 3.1.2. Chức năng biểu tượng và thông tin Chức năng biểu tượng (biểu trưng) của cổng làng thể hiện ở chỗ nó xác lập ranh giới giữa làng này và làng khác, giữa trong làng và ngoài làng. Một người dân xô xát ở ngoài làng, yếu thế chạy về, khi anh ta chạy vào trong cổng làng, dù cổng có mở song những người đuổi theo không dám bước vào trong. Họ chỉ có thể đứng ở ngoài cổng la mắng, hăm dọa rồi nhanh chóng rời đi. Người ngụ cư không được ở trong làng, họ phải ở xóm trại (ngoài làng). Sau nhiều đời, chỉ khi họ là những công dân tốt, tham gia đầy đủ các nghĩa vụ với làng, hoặc vào những dịp đột xuất như làng trùng tu đình hoặc sửa chùa, họ có những đóng góp lớn, lúc đó họ được vào ở trong làng và trở thành dân chính cư. Như vậy cổng làng là biểu tượng, là sự phân định ranh giới giữa trong và ngoài. Sự phân biệt này không chỉ thể hiện trong không gian vật lí, mà cả trong không gian tâm linh. Chức năng thông tin thể hiện ở các đại tự trên trán cổng cho biết tên làng, đôi khi người am hiểu Hán học ghép một số chữ ở câu đối tại trụ cổng cũng biết được tên làng. Những mô típ trang trí, đại tự cũng có thể cho biết đó là làng khoa bảng, làng có nhiều người làm quan. Vóc dáng, quy mô của cổng cũng có thể nói lên đó là làng giàu có hay làng buôn bán. Quán nước cạnh cổng làng cũng là nơi cung cấp cho dân làng và người nơi xa đến không ít thông tin. 3.1.3. Chức năng giáo dục Ngoài hình dáng chung của cổng, thì trụ cổng và mái cổng cũng góp phần tạo nên tính thẩm mĩ cao, làm nên tạo ra sự khác biệt giữa cổng làng này với cổng làng khác. Thông thường phần trang trí cho trụ cổng là hàng câu đối. Có thể nói trụ cổng là phép cộng của nghệ thuật văn chương và nghệ thuật trang trí. Trụ cổng có đôi câu đối viết bằng chữ Hán hoặc chữ quốc ngữ. Dưới đây là những ví dụ về cặp câu đối này. Làng Hồ (còn gọi là Cửa Hồ, nay thuộc phố Thụy Khuê, phường Bưởi, quận Tây Hồ, Hà Nội), là nơi có nhiều cổng. Chiếc cổng bên trái là cổng giáp phía Bắc còn gọi là cổng Giếng. Câu đối ở cổng Giếng của làng như sau: 12 古往今來行正道 Cổ vãng kim lai hành chính đạo 南 逰北翫嚮西湖 Nam du Bắc ngoạn hướng Tây Hồ Nghĩa là: - Người đến đây phải đi theo con đường chính - Ở phía Nam, Bắc đi du ngoạn phải hướng ra Hồ Tây. Ngoài ý nghĩa được dịch như trên, hàng câu đối ngụ ý người dân ở làng hay người ngoài làng khi về đến làng phải biết làm những điều tốt, trung thực, ngay thẳng, luôn đi theo con đường chính là đường đời, đường đạo. Phía Bắc, phía Nam hướng ra mặt gương Tây Hồ để được đón nhận những điều sáng lạn. 背後國都新景色 Bối hậu quốc đô tân cảnh sắc 面前李代雉城池 Diện tiền Lí đại trĩ thành trì Nghĩa là: - Đằng sau kinh đô là cảnh sắc mới. - Phía trước là thành trì cũ của nhà Lí Câu đối ở cổng Giáp Đông (甲 東 門 “Giáp Đông môn”): 美 俗 純 風 永 照 西湖 明 鏡 Mĩ tục thuần phong vĩnh chiếu Tây Hồ minh kính 善 言 好 事 長 留 茉 莉 名 香 Thiện ngôn hảo sự trường lưu mạt lỵ danh hương Nghĩa là: - Mỹ tục thuần phong soi gương Tây Hồ trong sáng - Nói hay, làm tốt, xứng danh thơm ngát hương nhài. Các câu đối ở cổng làng Hồ nhắc nhở người ta phải sống ngay thẳng, phải nhớ về lịch sử, khuyên dân làng sống đẹp trong cách đi đứng, trong lời ăn tiếng nói. Ở cổng được xây mới như cổng làng Đại Từ (Hà Nội), cổng làng Thuận Tiến (Hà Nội), cổng Trại Đồng Giầu (Tây Bình Cách, Thái Bình), cổng làng thôn Đông làng Đào Xá (Thái Bình).., các câu đối đều được ghi bằng chữ quốc ngữ. Ý nghĩa giáo dục của các câu đối này, ai ai cũng có thể hiểu được ngay. Đây là hai câu đối ở cổng Trại Đồng Giầu: 13 Cổng dựng nơi đây tiếp đón con em về bái tổ Làng chờ trong đó chúc mừng bè bạn đến tham quan. Và: Đi đưa về đón khoa danh rạng rỡ tại làng này Vào hiếu ra trung sự nghiệp vẻ vang từ cổng ấy. Đây là hai cặp câu đối ở cổng làng Thuận Tiến (Hà Nội): Đồng tâm tươi đẹp thắm quê cha Chung sức dựng xây tươi đất mẹ. Và: Quốc thái văn minh xã hội đa phồn thịnh Dân an Thuận Tiến hương thôn tất phú cường. Các cặp câu đối ở cổng làng Thuận Tiến và ở cổng Trại Đồng Giầu thể hiện khát vọng về một cuộc sống phồn vinh, ấm no, hạnh phúc cho dân làng, nhắc nhở cháu con hiếu học, sống trung hiếu, không quên cội nguồn,... 3.2. Giá trị của cổng làng 3.2.1.Giá trị cố kết dân làng Trước kia đại đa số người Việt sống ở làng. Cổng làng là bộ mặt của làng này so với làng khác. Cùng với cây đa, mái đình, giếng nước, cổng làng vừa là văn hóa vật chất vừa là văn hóa tinh thần, tạo thành biểu trưng của làng, là chất keo gắn kết các thành viên trong làng, dù họ khác nhau về vị trí trong làng, về lứa tuổi, về kinh tế. Cổng làng còn là nơi chứng kiến những dịp trọng đại như khi làng mở hội, khi làng có quan trên về, khi làng có người con quê hương thành đạt trở về. Cổng làng còn là nơi tụ họp, hẹn hò của cư dân trong làng, là nơi dừng chân, nghỉ bước của khách bộ hành khi gặp nắng mưa bất chợt. 3.2.2. Giá trị lịch sử Có làng rồi mới có cổng. Cổng làng nào càng cổ thì càng chứng tỏ làng đó có lịch sử lâu đời. Những dòng chữ ghi năm tháng xây dựng hoặc trùng tu xây dựng cổng làng và những tài liệu liên quan sẽ cho chúng ta biết được niên đại của cổng làng. Cổng làng là chứng tích cho sự thăng trầm và ý thức tìm về cội nguồn, “uống nước nhớ nguồn” của người Việt ở châu thổ Bắc Bộ. 3.2.3. Giá trị thẩm mĩ Cái đẹp là cái sự cân đối, hài hòa. Cổng làng với kiểu dáng, kích thước, màu sắc có sự phù hợp với cảnh quan chung của làng, kích thước của nó phải phù hợp với mô của đình làng, chùa làng. Xét về nội dung trang trí, các hình vẽ 14 và cỏ cây, chim thú được đắp, các đại tự, các câu đối phải phù hợp với truyền thống của làng. Hợp cùng cây đa, giếng nước,...cổng làng có vẻ đẹp gần gũi, thân quen đối với nhiều thế hệ người dân tụ cư và làm lụng tại quê hương, là nơi neo đậu kí ức về quê hương của những người con xa xứ. 3.2.4. Giá trị gợi hứng và là chất liệu cho các sáng tác văn học nghệ thuật Bản thân cổng làng là một tác phẩm nghệ thuật, đồng thời lại là một phần của hiện thực làng quê. Lẽ tự nhiên, nó là niềm cảm hứng, là chất liệu thực tế cho các sáng tác văn học nghệ thuật. 3.2.4.1. Cổng làng trong văn học Văn học bao gồm văn học dân gian và văn học viết. Văn học dân gian là những sáng tác tập thể, truyền miệng, do nông dân, thợ thủ công, người buôn bán nhỏ, dân nghèo thành thị, trí thức bình dân, người ca kĩ,... sáng tạo, lưu truyền, thưởng thức. Văn học dân gian có nhiều thể loại, trong đó có ca dao. Có thể nói ca dao là một thứ thơ dân gian. Chỉ bằng hai dòng lục bát, lời ca dao sau đã ghi lại tâm trạng mừng vui của cô thôn nữ. Cô đứng chờ người yêu ở cổng làng, nghe thấy tiếng trống tan trường, cô chạy vội về phía trước đón chàng thư sinh: Chiều chiều ra đứng cổng làng Nghe trống bãi tràng, em chạy đón anh. Trong dòng văn học viết, hình ảnh cổng làng khá hiếm. Cổng làng như một nỗi ám ảnh về sự tù túng, bóp nghẹt tự do đã được nhà văn Ngô Tất Tố mô tả trong tiểu thuyết Tắt đèn. Mới đây, tác giả trẻ Tống Ngọc Hân viết truyện ngắn “Cổng làng”, phê phán cách làm không hợp với lòng dân của lãnh đạo một xã trung du khi họ muốn khuếch trương, xây cổng làng. Về vẻ đẹp nên thơ của cổng làng, thật là quý giá khi chúng ta tìm thấy trong sáng tác trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 của nhà thơ Bàng Bá Lân. “Cổng làng” là bài thơ mà ở đó Bàng Bá Lân đã dành cho chiếc cổng quê biết bao cảm tình lưu luyến. Ở đây nhà thơ không chỉ thấy cảnh vui mà còn thấy cả nét buồn, thấy cổng làng trong nhiều trạng huống: buổi chiều gió mát, tinh mơ mặt trời, trưa hè nắng gắt, gió lạnh mưa buồn, trăng sáng đẹp trời, ngày đông buồn tẻ, hội xuân rộn ràng, và bao trùm lên cả là tấm lòng yêu quê. 3.2.4.2. Cổng làng trong hội hoạ Đối với các hoạ sĩ, trong những chuyến đi thực tế thâm nhập vào những vùng miền văn hóa khác nhau từ thành thị tới nông thôn, từ đồng bằng tới miền núi, đặc biệt với tình cảm nồng hậu chân quê, được trở về với cội nguồn, quê 15 hương, trở về với tuổi thơ với những ngày chăn trâu cắt cỏ, với những thú vui trốn tìm bên gốc đa già đầu làng, cổng làng là nguồn cảm hứng, khởi nguồn cho nhiều bức hoạ. Vẻ đẹp của cổng làng, có thể là nét trầm mặc sương gió của nó, những rêu phong chữ mờ, tiếng chim hót xa xa, cảnh gốc đa rủ bóng, những con đường gạch nhỏ đã bị thời gian bào mòn... Tất cả những cái đó đã chạm đến niềm hứng khởi, cảm xúc của tâm hồn người nghệ sĩ, đã khiến cho lí trí họ liên tưởng đến những lí thuyết không gian, hình khối, đã làm cho mắt họ hình dung được những mảng màu tối sáng, những đặc tả chi tiết và những đường nét đại quan. Các họa sĩ đã để lại không ít những họa phẩm đặc sắc về cổng làng. Tiểu kết Cổng làng có ba chức năng chính: chức năng phòng vệ, chức năng biểu tượng và thông tin, chức năng giáo dục. Trong ba chức năng này chức năng phòng vệ được nhận thức sớm nhất. Hai chức năng sau cũng không kém phần quan trọng. Cổng làng có nhiều giá trị. Đó là một trong những yếu tố góp phần tạo nên tính cố kết của các thành viên trong cộng đồng làng, cố kết những người con xa quê hương với những người con đang sinh sống và làm lụng tại làng, cố kết giữa xưa và nay. Cổng làng còn có giá trị lịch sử, chỉ qua ba chữ “Bắc Giáp môn” trên cổng, nhà dân tộc học có thể phân tích về ý nghĩa và vai trò của giáp (một tập hợp người theo giới tính để chủ yếu thực hiện các công việc tâm linh ở làng Việt xưa). Qua các họa tiết trang trí, các hình rồng, phượng, lân... cùng với các tài liệu phụ trợ khác, nhà nghiên cứu mĩ thuật có thể xác định cổng làng thuộc phong cách thời Lê hay thời Nguyễn, thấy được những bước thăng trầm, thịnh suy của một giai đoạn lịch sử. Không chỉ có thế, cổng làng còn có giá trị thẩm mĩ, là một tác phẩm nghệ thuật, là chất liệu hiện thực của nhiều sáng tác văn chương và hội họa. Chương 4 CỔNG LÀNG TRONG LỊCH SỬ VÀ TRONG CUỘC SỐNG ĐƯƠNG ĐẠI, NHỮNG VẤN ĐỀ BÀN LUẬN 4.1. Cổng làng trong lịch sử Muộn nhất thì đến thế kỉ thứ XIII, cổng làng đã tồn tại. Đúng như nhà sử học Lê Văn Lan nhận xét, “đó là cánh cổng làng dùng dong rào kiểu cự mã kéo 16 ra lấp vào hoặc chống lên hạ xuống”. Thời gian sau, cùng tồn tại với kiểu cổng bằng tre, đã ra đời loại cổng xây. Đó là chiếc cổng làng Mông Phụ xây bằng chất liệu đá ong, khá đơn sơ, không có các họa tiết trang trí. Đến đầu thế kỉ XIX kiểu cổng xây gạch đã khá phổ biến ở châu thổ Bắc Bộ. Có nhiều kiểu cổng xây. Kiểu đơn giản nhất là cổng có hai trụ cổng và một mái lợp kiên cố. Bề thế hơn là loại cổng có cổng chính và hai cổng phụ hai bên, trên cổng là một tầng vọng lâu mà ở đó có thể bố trí một số người đứng quan sát. Những cổng bề thế và kiên cố như vậy thường ra đời ở đầu thế kỉ XX, bởi vì lúc đó đã có sẵn xi măng, sắt thép. Trong thời gian kháng chiến chống Pháp, một số cổng do quân ta phá để tiêu thổ kháng chiến, rất nhiều cổng bị quân Pháp phá hủy. Từ năm 1955 đến năm 1975, cổng làng bị coi là một trong những tàn tích của chế độ cũ, không được giữ gìn, tu bổ, bị phá dỡ để lấy gạch xây chuồng lợn của hợp tác xã, bị bom Mỹ tàn phá. 4.2. Cổng làng trong cuộc sống đương đại Có nhiều cách để xác định khoảng thời gian được gọi là đương đại. Như không ít tác giả, chúng tôi quan niệm quãng thời gian đương đại được tính từ cuối năm 1986 đến nay. Đại hội Đảng lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam được tổ chức vào tháng 12 năm 1986 là mốc đánh dấu thời kì đổi mới. Cho đến nay, quá trình đổi mới đã đi được chặng đường 30 năm. Quá trình này chưa kết thúc nhưng đã cho thấy nhiều thay đổi vượt bậc về tư tưởng, chính trị, kinh tế và văn hóa. Trong bối cảnh ấy, không ít yếu tố văn hóa truyền thống bị mất đi, một số yếu tố mới ra đời; cũng có hiện tượng “bình cũ rượu mới”. Cũng có những yếu tố văn hóa truyền thống vẫn còn tồn tại. Đất nước có những thời cơ thuận lợi để phát triển, hội nhập, nhưng cũng đứng trước nhiều thử thách, nguy cơ. Có những biến đổi văn hóa mang hướng tích cực song cũng có nhiều trường hợp biển đổi theo xu hướng tiêu cực. Trong bối cảnh đó, có nhiều xu hướng ứng xử khác nhau đối với cổng làng. 4.2.1. Xu hướng không bảo lưu, không mặn mà/ thờ ơ với cổng làng Đời sống kinh tế phát triển, dân số tăng, nhiều phương tiện vận tải mới có kích thước lớn hơn trước, một số cổng làng bị phá để cho xe cơ giới có thể qua lại dễ dàng như cổng làng Đồng Kỵ (Bắc Ninh). Một lí do khác khiến người ta không mặn mà đến cổng làng bởi ở một bộ phận dân cư, tâm lí đã khác, thị hiếu đã khác. Qua các đợt đi điền dã, chúng tôi thấy một số thanh niên có quê gốc ở làng, đang sống tại làng nhưng cũng không quan tâm với chiếc cổng làng mình, với làng quê mình. Họ không hiểu và cũng 17 không muốn biết lịch sử cổng làng.Quan niệm ngày nay đã khác ở một bộ phận lớp trẻ. Hiện nay đô thị được coi là văn minh hơn nông thôn. Bởi vậy, chưa hẳn các thanh niên ở Đại Từ, ở Linh Đàm (Hà Nội) đã muốn níu giữ cái tiếng “làng” ở nơi họ cư trú, chưa hẳn họ đã muốn bảo lưu cổng làng. Từ “làng” lên “phường”, làng vươn ra phố là nguyện vọng của giới trẻ. 4.2.2. Xu hướng bảo lưu cổng làng: tôn tạo cổng cũ, xây cổng mới Trong xu hướng này có rất nhiều xu hướng nhỏ. Xu hướng thứ nhất tu sửa thành công cổng cũ. Đó là cổng trước làng Ước Lễ (1994); cổng trước của làng Cầu Nôm (1993); cổng làng Thổ Khối (1994). Xu hướng thứ hai là xây mới hoàn toàn theo phong cách truyền thống như cổng sau làng Cầu Nôm... Trong nhiều cổng làng được xây mới hay có xu hướng làm theo kiểu mới một cách đơn giản giống như cổng chào, như cổng làng xã Dục Tú, huyện Đông Anh, Hà Nội, cổng làng Lộc Hà, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh; cổng làng Lương Nỗ, xã Tiên Dương, huyện Đông Anh; cổng làng Linh Quy, xã Kim Sơn, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Một số công ty xí nghiệp, những người con quê hương thành đạt đã hưng công tu bổ cổng cũ, hoặc xây mới cổng làng: làng Dương Đanh, xã Dương Xá, huyện Gia Lâm, Hà Nội, làng Tri Lễ, xã Tân Ước, huyện Thanh Oai, Hà Nội... Một số bà con Việt kiều khi trở về thăm quê muốn làm một cái gì đó cho quê hương và đây cũng là một cách để họ thể hiện bản thân. Mỗi dịp về quê là một lần họ cố gắng khẳng định vị thế tinh thần của họ dù chỉ là trong thời gian ngắn ngủi so với cuộc đời dài đằng đẵng bên xứ người. Làng Ước Lễ có hai cổng, cổng trước được xây dựng từ lâu, vẫn được giữ gìn tốt; dân làng chỉ sửa sang phần nóc cổng. Làng còn có cổng sau, về kích thước và hình dáng, cổng này hoàn toàn giống cổng trước. Chiếc cổng này do một Việt kiều ủng hộ kinh phí xây dựng vào những năm 90 của thế kỉ trước. 4.3. Những vấn đề bàn luận 4.3.1. Vai trò của yếu tố tâm linh tác động đến sự tồn tại của cổng làng Trong không ít làng quê xưa có miếu, điếm hoang vắng, những khu đất ít người qua lại, những chiếc ao to, rộng ở giữa cánh đồng, có những rặng tre dày đặc. Một số người dân kể rằng họ thường gặp ma ở những nơi đó. Những con ma đó là những người phụ nữ trong trang phục màu trắng hoặc người phụ nữ với con nhỏ; cũng có khi ma là người đàn ông cao tuổi, cũng có khi là con rắn trắng. Cũng có khi ma xuất hiện bằng một cơn gió lạnh bất chợt, hoặc bằng một tiếng 18 kêu, tiếng khóc. Chúng tôi đến một số làng ở bốn xứ Đông, Nam, Đoài, Bắc xưa của vùng châu thổ Bắc Bộ, tìm hiểu không gian cư trú, không gian sinh thái tâm linh qua phương pháp phỏng vấn hồi cố. Cổng làng được gắn với những sự kiện lịch sử, những biến cố xã hội và khoác lên mình những câu chuyện huyền bí. Những câu chuyện đó được truyền miệng từ người này sang người khác, từ đời này sang đời khác làm cho nhiều người đi qua phải khiếp sợ, không ai có ý nghĩ xâm hại cổng làng. Nhiều người đi xe qua cổng có cảm giác như xe bị giữ lại, có người đi chợ sớm đi qua thấy rờn rợn, có người kể lúc họ đi qua cổng vào buổi tối bỗng thấy rùng mình về nhà bị ốm, gia đình chạy vạy thuốc thang không khỏi, sau đó ra cổng cúng bái thì khỏi bệnh. Có người lại kể khi qua cổng bị ma ném vào vật gì đó vào người về nhà bị ngứa sưng hết cả người …Có lẽ do nguyên nhân tâm linh này mà một số cổng làng cổ còn tồn tại đến ngày nay. 4.3.2.Vấn đề truyền thông tác động đến sự tồn tại cổng làng Truyền thông tác động tích cực đến suy nghĩ của người dân trong việc bảo tồn gìn giữ cổng làng, như trường hợp cổng làng Thổ Hà. Người dân vẫn nhắc đến sự xuất hiện của cổng làng trong chương trình “Lục lạc vàng”. Cổng làng Ước Lễ, Cầu Nôm được lên sóng trong chương trình “Hành trình về làng Việt cổ”, chương trình “Cổng làng tự sự”; “Du lịch qua màn ảnh nhỏ” của các đài truyền hình VTV1, VTV3, truyền hình An Viên, truyền hình Quốc hội. Cổng làng Kim Sơn, cổng Đình làng Dương Đình, Gia Lâm, Hà Nội có mặt trong những cảnh quay về làng Việt cổ vùng châu thổ sông Hồng... Như vậy, tuyền thông đã làm cho vẻ đẹp của cổng làng lan tỏa khắp cả nước, thậm chí vượt khỏi biên giới quốc gia. 4.3.3. Vai trò của dân làng và vấn đề xã hội hóa trong việc bảo tồn cổng làng Việc bảo tồn, tu sửa cổng cũ xây cổng mới thành công là do sự đồng thuận từ chính quyền cho đến người dân. Có trường hợp kinh phí xây dựng hoặc tu bổ do cả làng đóng góp. Cũng có trường hợp mà sự đóng góp này do một dòng họ, do những người con quê hương thành đạt. Có trường hợp do một xí nghiệp tiến hành để trả ơn làng đã cấp đất cho họ. Không ít cổng làng được tu sửa hoặc xây mới do Việt kiều hưng công. Ngay cả trong khuynh hướng thành công vừa nêu, không phải lúc nào cũng có sự đồng thuận giữa chính quyền địa phương và người dân, ngay giữa các bộ phận dân cư không phải lúc nào cũng có sự thống nhất. Nếu đa số các cụ già, hoặc người lớn tuổi nói chung muốn lưu giữ cổng làng thì không hẳn lớp thanh niên lại cùng chung một cảm xúc, một ý nghĩ như vậy. 19 4.3.4. Lí do của việc xây mới cổng làng chưa thành công Bên cạnh việc xây dựng cổng làng thành công như những trường hợp đã nêu ở trên, vẫn còn có một số nơi, cổng làng được làm mới chưa thực sự thành công. Dáng cổng cao, các trụ cổng thanh nhỏ không tạo sự cân đối về hình dáng, biểu tượng gắn trên cổng được thay đổi bằng những những bức tranh về phong cảnh quê hương màu mè lòe loẹt làm giảm bớt tính trang nghiêm của một công trình kiến trúc gắn liền với yếu tố tâm linh. Cổng làng được cách tân quá nhiều làm mất đi tính thiêng của làng Việt cổ xưa, trên cổng không có hàng câu đối bằng chữ Hán hay chữ Nôm nên không có chức năng giáo dục, chức năng thẩm mĩ. Chức năng thông tin thì khá mờ nhạt, bởi chỉ dừng lại ở việc cho biết tên làng, tên khu dân cư. Hoặc lại có trường hợp cổng làng được thiết kế khá đơn giản, chỉ có hai cột trụ bằng sắc hoặc là một khối bê tông trên đó gắn một cái biển sắt to “Làng văn hóa”, “Thôn Lương Nỗ”, “Thôn Lộc Hà” …., Thực chất những chiếc cổng này không nên gọi là cổng làng mà là cổng chào vì nó không phù hợp với cảnh quan xung quanh làng quê. 4.3.5. Lí do cổng chào thay thế cổng làng Khi cổng làng được làm mới theo hình thức cổng chào, các chức năng phòng vệ, kiểm soát không còn nữa nhưng chức năng thông tin, chức năng xác định đây là ranh giới của làng, chức năng giáo dục cổ vũ vẫn còn và nếu hiểu cái đẹp đi liền với tính lợi ích và tính thời đại thì sự thanh thoát khoáng đạt , nét ngang bằng sổ thẳng cũng tiêu biểu cho một xu hướng thẩm mĩ của lớp trẻ thời đại công nghiệp. Có thể cho rằng việc thiết kế từ chiếc cổng làng cổ truyền đến chiếc cổng chào cũng là sự chuyển biến không trái quy luật, song rất cần có sự nghiên cứu một cách cẩn thận sao cho phù hợp với cảnh quan và không gian của làng quê. 4.3.6. Cổng làng và vấn đề đô thị hóa Cổng làng gắn liền với làng. Khi làng còn thì cổng còn vai trò, vị thế. Cố nhiên những chức năng của cổng làng không phải không có sự vận động, thay đổi. Trong thời đương đại, chức năng phòng vệ, chức năng kiểm soát tỏ ra không cần thiết. Trong phong trào bảo vệ trị an, từng tổ dân làng, vẫn phải cử người đi tuần nhưng không nhất thiết duy trì điếm canh, đến ở vọng gác cổng làng. Các chức năng thông tin, thẩm mĩ và giáo dục vẫn còn ý nghĩa. Chính vì vậy, khi không gian cư trú trong làng trở nên quá chật hẹp, làng phải mở rộng, dân làng Đồng Kị (Bắc Ninh) đã phá ba chiếc cổng cũ và xây dựng hai chiếc cổng mới. Một thí dụ khác, làng Linh Đàm không còn nữa, thay vào đó là tổ dân 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất