Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Loại hình nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết quo vadis, mối tình đầu của napoléo...

Tài liệu Loại hình nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết quo vadis, mối tình đầu của napoléon và nửa kia của hitler

.PDF
207
780
120

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ NGỌC HÂN LOẠI HÌNH NHÂN VẬT LỊCH SỬ TRONG TIỂU THUYẾT QUO VADIS, MỐI TÌNH ĐẦU CỦA NAPOLÉON VÀ NỬA KIA CỦA HITLER Ngành: Lí luận văn học Mã số: 9 22 01 20 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS PHAN TRỌNG THƯỞNG 2. PGS.TS TRẦN THỊ SÂM HÀ NỘI, 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận án là trung thực, đảm bảo độ chuẩn xác cao nhất có thể, được các đồng tác giả cho phép sử dụng. Các tài liệu tham khảo, trích dẫn có xuất xứ rõ ràng. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình. Hà Nội, ngày 16 tháng 7 năm 2018 Tác giả Nguyễn Thị Ngọc Hân MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .................................. 9 1.1. Tình hình nghiên cứu về thể loại tiểu thuyết lịch sử và tiểu thuyết lịch sử…………………………………………………………………………………..9 1.2. Những công trình, bài viết nghiên cứu về nhân vật lịch sử Nero, Napoléon, Hitler và tác phẩm Quo vadis, Mối tình đầu của Napoléon và Nửa kia của Hitler……………………………………………………………………………..20 1.3. Nhận xét chung.............................................................................................. 34 CHƯƠNG 2. TỪ NHÂN VẬT LỊCH SỬ ĐẾN LOẠI HÌNH NHÂN VẬT LỊCH SỬ QUYỀN LỰC............................................................................................ 36 2.1. Nhân vật lịch sử quyền lực nhìn từ góc độ loại hình trong tiểu thuyết .............. 36 2.2. Các nguyên mẫu về nhân vật quyền lực trong lịch sử ........................................ 44 2.3. Hình tượng Nero, Napoléon và Hitler trong tiểu thuyết Quo vadis, Mối tình đầu của Napoléon và Nửa kia của Hitler ........................................................................... 51 CHƯƠNG 3. BI KỊCH - DẤU HIỆU LOẠI HÌNH CỦA NHÂN VẬT LỊCH SỬ QUYỀN LỰC ....................................................................................................... 74 3.1. Bi kịch con người cá nhân .................................................................................... 74 3.2. Bi kịch của tham vọng quyền lực ......................................................................... 89 3.3. Nhân vật quyền lực và thảm họa của nhân loại ................................................. 105 CHƯƠNG 4. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT LỊCH SỬ .................................................................................................................... 113 4.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật qua thủ pháp “tương chiếu” ....................... 113 4.2. Thủ pháp độc thoại nội tâm ................................................................................ 128 4.3. Miêu tả nhân vật qua yếu tố vô thức và phân tâm ............................................. 137 KẾT LUẬN ................................................................................................................ 147 TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................... 151 PHỤ LỤC ................................................................................................................... 165 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Khi viết tiểu thuyết lịch sử, nhà văn mang sứ mệnh đối thoại với quá khứ để minh định những vấn đề hiện tại đồng thời rút ra những bài học nhân sinh sâu sắc. Nếu lịch sử là hiện thực “nhất thành bất biến” thì lịch sử trong tiểu thuyết như là đối tượng giả định về những khả năng đã mất. Các sử gia hướng đến những sự kiện, con số xác thực còn tiểu thuyết gia hướng đến những vùng mờ của đời sống cá nhân. Soi chiếu con người đời tư, cá nhân trong những biến cố lịch sử là nhiệm vụ của tiểu thuyết. Nero Claudius Caesar (La Mã cổ đại), Napoléon Bonaparte (Pháp) và Adolf Hitler (Đức) là ba trong số những nhân vật lịch sử quyền lực đã làm tốn hao nhiều bút mực của giới sử học. Các sử gia cố gắng chứng minh một Nero, một Napoléon, một Hitler - như lịch sử đã diễn ra. Còn trong văn học, họ sống nhiều cuộc đời, số phận, tâm hồn khác. Nếu nhà lịch sử hướng đến cái đã là, thì nhà văn hướng đến cái có thể là… Sự giả định lịch sử trong tiểu thuyết sẽ mang lại nhiều kiến giải khác nhau về hiện thực đời sống, nhất là chủ đề chiến tranh, tình yêu và tôn giáo. Lịch sử được soi chiếu trong cái nhìn đa chiều mang tính dân chủ, bằng cách đó nhà văn tạo ra những diễn ngôn mới về lịch sử. 1.1. Henryk Sienkievich (1846-1916) là văn hào chiếm một vị trí đặc biệt trong nền văn học Ba Lan và thế giới. Bước ngoặt trong sự nghiệp sáng tác của H.Sienkievich là bộ ba tiểu thuyết lịch sử: With Fire and Sword (Bằng lửa và gươm), The Deluge (Trận hồng thủy), Mr Wolodyjowski (Ngài Wolodyjowski) tái hiện bức tranh toàn cảnh về xã hội Ba Lan vào thế kỉ XVII. Nguồn cảm hứng viết Quo vadis đến với H.Sienkievich trong một lần ông đến nước Ý, một người bạn đã chỉ cho ông một nhà thờ nhỏ mang tên Quo vadis gắn liền với truyền thuyết về Thánh Piotr khi người chạy trốn khỏi Rome đã gặp Đức Kito. Đó là vào dịp - theo như nhà văn cho biết những năm sau đó: “Tôi đã nảy sinh ý tưởng viết một chuyện tại thời điểm đó, và đi sâu hơn vào lịch sử và không khí của La Mã cổ đại, tôi đã đi dạo xung quanh sông Tevere vừa đọc Tacitus” [157]. 1 Quo vadis đã đưa tên tuổi H.Sienkievich đạt đến đỉnh cao rực rỡ khi tiểu thuyết này đạt giải Nobel văn học năm 1905. Trước khi trao giải thưởng, Carl David Af Wirson, Thư kí Viện Hoàng gia Thụy Điển đã phát biểu: “Có nhiều thiên tài trong mỗi quốc gia là những người thấm nhuần tinh thần của đất nước mình. Họ đại diện cho tính cách của quốc gia đó trước toàn thể thế giới. Họ gieo trồng những kí ức của dân tộc để truyền cảm hứng cho niềm tin vào tương lai… H.Sienkievich là người mà từ thế giới văn chương, từ tinh thần dân tộc được Học viện Hàn lâm quyết định trao thưởng giải Nobel” [157]. Quo vadis được dựng thành phim nhiều lần nhưng đáng chú ý là bộ phim điện ảnh Mỹ năm 1951 của đạo diễn Mervyn LeRoy với các diễn viên chính Robert Taylor (vai Vinixius), Deborah Kerr (vai Ligia), Leo Genn (vai Petronius) và Peter Ustinov (vai Nero). Trong Quo vadis (Nguyễn Hữu Dũng chuyển dịch từ nguyên tác tiếng Ba Lan), H.Sienkievich chọn bối cảnh lịch sử vào khoảng 5 năm cuối của triều đại Nero bạo chúa (54-68). Trong đó, ông tập trung vào hai sự kiện lớn của triều đại Nero đã đi vào lịch sử thế giới: cơn đại hỏa hoạn thành Rome và cuộc thảm sát các tín đồ Thiên Chúa giáo vào năm 64. Đan xen vào những biến động ghê gớm của xã hội là mối tình lãng mạn giữa Vinixius - cận thần của Hoàng đế Nero và nàng Ligia, công chúa của bộ tộc Ligi đồng thời cũng là một tín đồ Thiên Chúa giáo. Trên phông nền sự kiện lịch sử những năm 60, H.Sienkievich dựng nên bức tranh xã hội La Mã cổ đại với những mâu thuẫn chính trị, xã hội, tôn giáo căng thẳng tột đỉnh xoay quanh hình tượng Nero - một Hoàng đế bạo tàn trót mang suy tư nghệ thuật của một người nghệ sĩ. Với Quo vadis, H.Sienkievich trở lại quá khứ để luận giải số phận con người trước những biến động của lịch sử với những hệ lụy của nó qua hành trình chinh phục đỉnh cao thi ca của gã bạo chúa say mê nghệ thuật. Qua tác phẩm, nhà văn cảnh báo sự sụp đổ các giá trị đạo đức dưới sự cai trị của kẻ độc tài, tàn bạo đồng thời ca ngợi sự tồn tại vĩnh hằng của cái đẹp và tình yêu thương con người. 1.2. Là nhà văn viết không nhiều nhưng đa số các tác phẩm của Annemarie Selinko (1914-1986), tiểu thuyết gia người Áo, đều được chuyển thể thành phim 2 như: I was an ugly girl (Tôi là cô gái xấu xí), Tomorrow is another day (Ngày mai là ngày khác), My husband marries today (Chồng tôi kết hôn hôm nay) và Mối tình đầu của Napoléon (nguyên tác tiếng Pháp là Désirée). Năm 1943, A.Selinko trở thành người tị nạn tại Thụy Điển sau khi mất tổ quốc là Áo và Đan Mạch, quê hương thứ hai của bà. Tại đây, bà làm việc với bá tước Folke, hậu duệ của Bernadotte - từng là thống chế của Napoléon có vợ là Désirée. Nhà văn từng băn khoăn về nguyên do khiến Désirée, mối tình đầu của Napoléon, trở thành Hoàng hậu của Thụy Điển. Tuy nhiên, động lực chính để bà viết nên câu chuyện về Désirée là câu hỏi của một phụ nữ từng ở trại tập trung Ravensbruck: “liệu bà có thể viết về những người tị nạn và trại tập trung hay không?” [148]. Đắm mình trong bầu không khí tang tóc của thời đại, A.Selinko tìm thấy mối liên hệ giữa Désirée - tổ tiên lâu đời của dòng họ Bernadotte và những người tị nạn khốn khổ. Điều này thôi thúc bà viết một tác phẩm dành tặng cho những người bạn mới của mình. Nhà văn đặt tên tác phẩm là Désirée nhưng hai nhân vật trung tâm trong tác phẩm là Désirée và Napoléon, bởi lẽ Désirée trong lịch sử sẽ không tồn tại nếu không có Napoléon. Mối tình đầu của Napoléon trở thành cuốn sách bán chạy nhất tại nước Đức, Đan Mạch, Hà Lan, Áo, Thụy Điển… Tác phẩm được dựng phim vào năm 1954 ở Mỹ bởi đạo diễn Henry Koster với các diễn viên chính: Marlon Brando (vai Napoléon), Jean Simmons (vai Désirée), Merle Oberon (vai Joséphine), Michael Rennie (vai Bernadotte), Cameron Mitchell (vai Joseph)… Mối tình đầu của Napoléon viết về cuộc đời của Bernardine Eugénie Désirée Clary, là con gái út một thương gia tơ lụa giàu có ở Marseille. Nàng là người yêu đầu tiên của Napoléon, sau đó trở thành vợ của thiếu tướng Benardotte, làm phu nhân Thống chế và cuối cùng trở thành Hoàng hậu Thụy Điển. Bằng hình thức “giả nhật kí”, dưới điểm nhìn của cái tôi tự thuật - Désirée, hình tượng Napoléon được A.Selinko khai thác một cách chân thực, sinh động trên cái nền bức tranh toàn cảnh nước Pháp, từ sau cuộc Cách mạng 1789 đến khi triều đại Napoléon đệ nhất sụp đổ. Nhà văn đã khơi mở những vùng mờ sử 3 gia chưa đề cập đến về nhân vật lịch sử từng khuynh đảo thế giới như Napoléon Bonaparte. Qua đó, A.Selinko phê phán tham vọng xâm lược và gửi gắm lí tưởng nhân quyền, khát vọng hòa bình cho nhân loại. 1.3. Eric-Emmanuel Schmitt là một trong những tiểu thuyết gia, kịch gia nổi tiếng của Pháp. Chủ trương lối viết lôi cuốn cả độc giả trí thức và bình dân, tiểu thuyết của Eric Schmitt được đông đảo bạn đọc chấp nhận. Ông từng đoạt nhiều giải thưởng lớn như: giải Viện Hàn lâm Pháp cho toàn bộ sự nghiệp sân khấu (2001), giải Chronos cho Oscar và bà áo hồng (2004), giải Goncourt cho tập truyện ngắn Một mối tình ở điện Élysée (2010)… Trong tác phẩm nổi tiếng nhất Nửa kia của Hitler (nguyên tác tiếng Pháp: La part de l’autre), Eric Schmitt chọn mệnh đề “nếu… thì” từng được biết đến với tên gọi “Hiệu ứng cánh bướm” để dựng lên cuộc đời của hai con người rất giống và cũng rất khác nhau: Adolf Hitler - nhà độc tài Đức quốc xã tàn bạo nhất trong lịch sử thế kỉ XX (như đã là) và Adolf H. giả định - một họa sĩ siêu thực tài năng (có thể là). Ý tưởng viết về cuộc đời, số phận của Hitler đến với Eric Schmitt khi ông đang dạo chơi ở Vienne, người sinh viên dẫn đường đã chỉ vào băng ghế đang ngồi và giải thích “Đây là nơi mà Adolf Hitler đã từng ngồi để chuẩn bị thi vào Học viện Mỹ thuật” [165]. Điều gì đã khiến chàng thanh niên say mê hội họa như Adolf Hitler trở thành một nhà độc tài tàn bạo nhất trong lịch sử loài người? Câu hỏi đó đã ám ảnh Eric Schmitt và thôi thúc ông dựng nên hai bức chân dung Hitler thật và Hitler giả định, như ông từng tâm sự trên trang cá nhân: “Tôi gọi cuốn tiểu thuyết của mình là Một phần của cái khác, bởi có một Hitler và một người khác - Adolf H. Và ý nghĩa thứ hai của tiêu đề này rõ ràng rất triết lí. Hitler thực sự đã khép lại cuộc sống của mình bằng sự cô lập chính mình, trở thành một đấng tạo hóa quan tâm đến tất cả những điều khác không phải là chính mình” [165]. Nhà văn xây dựng hai cuộc đời trong sự đối sánh để người đọc nhận ra rằng “con quái vật Hitler” không ở đâu xa, nó ở ngay trong mỗi chính chúng ta. 4 Vì sao chúng tôi chọn ba tiểu thuyết “Quo vadis”, “Mối tình đầu của Napoléon” và “Nửa kia của Hitler”? Ra đời ở những thời điểm khác nhau nhưng Quo vadis, Mối tình đầu của Napoléon và Nửa kia của Hitler cho thấy những đặc điểm chung về đề tài lịch sử trong sáng tạo nghệ thuật. Tuy không cùng thời đại nhưng H.Sienkievich, A.Selinko và Eric Schmitt đều có điểm tương đồng trong quan điểm, cách luận giải hình tượng nhân vật quyền lực có tác động, ảnh hưởng lớn đến nhân loại khi chạm vào những vấn đề nóng bỏng nhất của lịch sử và thời đại: chiến tranh, tôn giáo và sắc tộc. Khi ý thức về sự tự do, quyền bình đẳng của con người ngày càng mãnh liệt thì việc nhìn nhận lại lịch sử để chiêm nghiệm về chiến tranh và cái ác là một trong những nguyên nhân thúc đẩy ba nhà văn truy tìm sự thật về những nhân vật quyền lực đã từng mưu đồ thống ngự thế giới. Ở Việt Nam, vấn đề sáng tác, nghiên cứu về tiểu thuyết lịch sử hiện nay đang là mối quan tâm của các nhà văn và giới nghiên cứu. Trong bối cảnh đó, đề tài “Loại hình nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết Quo vadis, Mối tình đầu của Napoléon và Nửa kia của Hitler” mà chúng tôi lựa chọn mang ý nghĩa lí luận khi tiếp cận các nhân vật lịch sử quyền lực trong tiểu thuyết. Việc nghiên cứu sâu, có hệ thống về ba trường hợp này có thể mang lại những kinh nghiệm quý báu, những bài học thiết thực cho hoạt động sáng tạo, nghiên cứu văn học về đề tài lịch sử của văn học nước nhà. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án Mục đích của luận án là tìm những dấu hiệu loại hình nhân vật quyền lực, những qui luật chi phối tạo nên những điểm giống nhau giữa ba nhân vật Nero, Napoléon và Hitler trong tiểu thuyết Quo vadis (H.Sienkievich), Mối tình đầu của Napoléon (A.Selinko) và Nửa kia của Hitler (Eric Schmitt). Nhiệm vụ của luận án là khảo sát ba nhân vật Nero, Napoléon và Hitler trong Quo vadis, Mối tình đầu của Napoléon và Nửa kia của Hitler nhằm nhận diện tip nhân vật quyền lực. Đồng thời nghiên cứu phương thức xây dựng nhân 5 vật lịch sử của H.Sienkievich, A.Selinko và Eric Schmitt trong việc cách tân thể loại tiểu thuyết lịch sử. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án chỉ tập trung nghiên cứu ba hình tượng nhân vật: Nero trong Quo vadis (H.Sienkievich), Napoléon trong Mối tình đầu của Napoléon (A.Selinko) và nhân vật Hitler trong tác phẩm Nửa kia của Hitler (Eric Schmitt). Đây là ba nhân vật tiêu biểu cho loại hình nhân vật quyền lực, tham vọng. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Đây là ba tác phẩm lớn, chúng tôi chỉ khảo sát để đi đến khẳng định vào tip nhân vật lịch sử quyền lực. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là khảo sát ba tiểu thuyết Quo vadis của Henryk Sienkievich (Nguyễn Hữu Dũng dịch, tập 1,2, Nxb Văn học, Hà Nội, 1995), Mối tình đầu của Napoléon của Annemarie Selinko (Nguyễn Minh Nghiệm dịch, tập 1,2, Nxb Văn học, Hà Nội, 2000), Nửa kia của Hitler của Eric-Emmanuel Schmitt (Nguyễn Đình Thành dịch, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 2011). Ngoài ra, trong sự mở rộng so sánh, đối chiếu, chúng tôi nghiên cứu thêm một số tư liệu lịch sử có thể đáp ứng nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài liên quan đến ba nhân vật quyền lực: Nero Claudius Caesar, Napoléon Bonaparte và Adolf Hitler. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án Để đáp ứng mục tiêu, nội dung của đề tài nghiên cứu, chúng tôi vận dụng kết hợp nhiều phương pháp sau: * Phương pháp đối chiếu: Sử dụng phương pháp đối sánh văn bản lịch sử, chúng tôi tìm hiểu nhân vật lịch sử hiện lên trong tác phẩm dưới cái nhìn hư cấu, sáng tạo của nhà văn. Đồng thời, chúng tôi đặt Quo vadis, Mối tình đầu của Napoléon và Nửa kia của Hitler trong vị thế so sánh để tìm ra điểm tương đồng, khác biệt trong quan điểm luận giải, xây dựng nhân vật lịch sử. 6 * Phương pháp hệ thống: Chúng tôi tiếp cận văn bản ở cấp độ: yếu tố hệ thống. Trong quá trình thực hiện, chúng tôi sử dụng thao tác phân tích diễn giải và đi đến hệ thống hóa các vấn đề trong ba văn bản Quo vadis (H.Sienkievich), Mối tình đầu của Napoléon (A.Selinko) và Nửa kia của Hitler (Eric Schmitt). * Phương pháp loại hình: Trên cơ sở vận dụng những nguyên tắc loại hình trong nghiên cứu văn học, chúng tôi tìm hiểu những đặc điểm bản chất của loại hình nhân vật lịch sử quyền lực trong những mối quan hệ, phương thức xây dựng nhân vật độc đáo của nhà văn. * Phương pháp liên ngành: Vận dụng kiến thức lịch sử, lí thuyết phân tâm học của Sigmund Freud, tâm lí học xã hội của Gustave Le Bon... để góp phần làm rõ một số phương diện về tính cách, số phận con người trong những thời kì lịch sử biến động lớn lao với những biến cố, sự kiện trọng đại đã đi vào lịch sử thế giới. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Thứ nhất, công trình phác thảo mô hình nghiên cứu nhân vật quyền lực trong tiểu thuyết lịch sử, bước đầu nhận diện loại hình nhân vật quyền lực có ý nghĩa điển hình. Thứ hai, luận án chỉ ra chiều sâu tư tưởng của H.Sienkievich, A.Selinko và Eric Schmitt khi nhận thức lại, đối thoại, phản biện lịch sử qua việc phê phán những kẻ quyền lực mang tham vọng. Thứ ba, luận án góp phần chỉ ra những cách tân trong phương thức xây dựng nhân vật lịch sử của H.Sienkievich, A.Selinko và Eric Schmitt nhằm khẳng định tài năng, sự đóng góp của ba tiểu thuyết gia trong nền văn chương thế giới, đặc biệt trong thể loại tiểu thuyết lịch sử. 6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án Về mặt lí luận, luận án góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lí thuyết về thể loại tiểu thuyết lịch sử, là chiếc chìa khóa để giải mã những nhân vật lịch sử trong tác phẩm văn học. Và theo chủ quan của chúng tôi, công trình nghiên cứu 7 một cách có hệ thống loại hình nhân vật lịch sử quyền lực: Nero, Napoléon và Hitler qua ba tiểu thuyết nổi tiếng Quo vadis, Mối tình đầu của Napoléon và Nửa kia của Hitler. Về mặt thực tiễn, việc nghiên cứu loại hình nhân vật lịch sử và những cách tân mới mẻ của ba nhà văn trong nghệ thuật xây dựng nhân vật sẽ góp phần vào việc thúc đẩy tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trên phương diện sáng tác và có thể mở ra hướng nghiên cứu về loại hình nhân vật. Công trình có thể là tài liệu nghiên cứu, tham khảo cho sinh viên khoa Ngữ văn ở các trường Đại học, Cao đẳng ở phần tác phẩm văn học nước ngoài. 7. Cấu trúc của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, phần Nội dung của luận án được triển khai thành 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2: Từ nhân vật lịch sử đến loại hình nhân vật lịch sử quyền lực Chương 3: Bi kịch - dấu hiệu loại hình của nhân vật lịch sử quyền lực Chương 4: Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật lịch sử 8 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu về thể loại tiểu thuyết lịch sử và tiểu thuyết lịch sử * Tình hình nghiên cứu ngoài nước Vấn đề then chốt trong tiểu thuyết lịch sử là mối quan hệ giữa sự thật lịch sử và hư cấu nghệ thuật. Theo quan niệm truyền thống, tiểu thuyết lịch sử phải đảm bảo tính chân xác của sự kiện và nhân vật lịch sử đóng vai trò trung tâm trong tiến trình phát triển. Tuy nhiên, khi những quan niệm về lịch sử thay đổi giúp con người nhận ra rằng không có chân lí trong lịch sử thì sự kiện, nhân vật lịch sử không còn bị đóng khung trong những giới hạn xác định mà con người có nhu cầu đối thoại với quá khứ để truy tìm sự thật. * Một trong những mục tiêu của đề tài là tìm hiểu cách cắt nghĩa, lí giải nhân vật lịch sử của H.Sienkievich, A.Selinko và Eric Schmitt, vì vậy chúng tôi chỉ đề cập một số công trình, bài viết bàn về đổi mới thể loại và quan niệm xây dựng nhân vật. Khi viết Tiểu thuyết hiện đại (Dương Thanh Bình dịch, Nxb Lao động, Hà Nội, 2003), Dorothy Brewster & John Angus Burrell bước đầu có sự phân loại tiểu thuyết thành nhiều thể loại như: tiểu thuyết gia đình, tiểu thuyết nông dân, tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết quan sát thế giới... Trên cơ sở tìm hiểu một số tác phẩm của Lion Feuchtwanger, Naomi Mitchison, Sigrid Undset và Robert Graves, hai nhà nghiên cứu cho rằng khi viết tiểu thuyết lịch sử nhà văn phải có quan điểm mới về quá khứ để soi chiếu, tìm hiểu những “khuất lấp” trong lịch sử. Một tiểu thuyết gia thành công phải có hiểu biết về tinh thần thời đại để quá khứ song hành cùng hiện tại, giải mã cho hiện tại. Một trong những yếu tố tạo nên thành công cho tiểu thuyết lịch sử là nhà văn phải “lựa chọn những thời kì lịch sử có những cuộc xung đột gay cấn” [11, tr.139]. Như vậy, khi chọn đề tài lịch sử, nhà văn phải nắm bắt những khoảnh khắc lịch sử có vấn đề. Trong những thời đại lịch sử biến động, tính cách nhân vật lịch sử “vừa do mâu thuẫn 9 của thời đại tạo thành, vừa do mâu thuẫn của bản thân tạo thành” [11, tr.139]. Những nhận xét trên là gợi ý giúp chúng tôi lí giải vì sao tiểu thuyết gia H.Sienkievich, A.Selinko và Eric Schmitt lựa chọn những nhân vật lịch sử “có vấn đề” như Nero, Napoléon, Hitler để luận giải lịch sử. Käte Hamburger đã đưa ra quan niệm khá mới mẻ về thể loại tiểu thuyết lịch sử khi bàn về “Vấn đề thời gian trong tiểu thuyết lịch sử” trong công trình Logic học về các thể loại văn học (Vũ Hoàng Địch - Trần Ngọc Vương dịch, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2004). Những sự kiện lịch sử trong tiểu thuyết mang đặc tính “thời sự” của thời điểm mà tác phẩm ra đời. Thậm chí, ngay cả trong một tác phẩm mà sự kiện lịch sử được tái hiện ngang với một tư liệu thì nhân vật lịch sử cũng mang khuôn mặt hư cấu vì “chúng di chuyển từ một hệ thống về hiện thực có thể có được sang một hệ thống hư cấu” [48, tr.166]. Theo tác giả, thời quá khứ sử thi chỉ là cái vỏ bên ngoài chứ nó không mang đặc tính lịch sử của nội dung mà nó thể hiện. Thời hiện tại lịch sử trong tiểu thuyết cho phép độc giả hiểu sự việc bằng cách quy chiếu nhân vật vào “cái ở đây và bây giờ”. Mối quan hệ giữa thời hiện tại lịch sử và thời quá khứ sử thi được nhà nghiên cứu giải quyết một cách khá hợp lí. Từ đó, có thể thấy rằng trong tiểu thuyết lịch sử, nhân vật lịch sử không được trình bày với tư cách là một cái Tôi chủ thể mà chất liệu hiện thực đã biến đổi nhân vật thành con người phi lịch sử. Nói cách khác, con người quá khứ trở thành khách thể được mô tả qua cảm nhận của nhà văn. Qua sự tưởng tượng, miêu tả của nhà văn, người đọc sẽ đánh giá về nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết theo cách mà tác giả xây dựng là quan điểm của Shamsur Rahman Faruqi khi nêu sự khác biệt giữa tường thuật mang tính lịch sử và tiểu thuyết lịch sử trong bài viết The historical novel and the historical narrative (Tiểu thuyết lịch sử và tường thuật lịch sử, nguồn: http://www.columbia.edu/itc/mealac/pritchett/00fwp/srf/srf_historicalnovel_200 9.pdf). Trong khi các sử gia cố gắng cung cấp tất cả những gì liên quan đến sự thật như nó đã xảy ra thì tiểu thuyết gia đưa ra một chuỗi các sự kiện dự kiến 10 thúc đẩy quá trình dẫn đến các sự kiện lịch sử cơ bản hoặc về một nhân vật lịch sử trong một khoảng thời gian nhất định. Từ việc diễn giải quan niệm về tiểu thuyết lịch sử của Georg Lukacs và Stephen Greenblatt, tác giả cho rằng tiểu thuyết lịch sử có một sự kiện hoặc nhân vật lịch sử có thật và nhà văn cố gắng sáng tạo nó theo trí tưởng tượng của mình. Khi nghiên cứu về tiểu thuyết lịch sử Pháp nửa sau thế kỉ XX, Anne Sennhauser trong công trình Penser le passé: inscriptions de l’Histoire dans le roman français contemporain (Suy nghĩ về quá khứ: vấn đề lịch sử trong tiểu thuyết Pháp đương đại, nguồn http://www.romanischestudien.de/index.php/rst/article/view/24/232, 2015) cho rằng: Vấn đề lịch sử đã có một tiếng vang lớn trong tiểu thuyết Pháp đương đại, thể hiện qua việc chúng ta bắt gặp “sự nở rộ các tác phẩm vượt bậc với lối viết thể nghiệm và phá cách/không tuân thủ truyền thống, lối viết mà người ta gọi là “chống tham chiếu” [166]. Tác giả khẳng định rằng: tiểu thuyết Pháp đương đại luôn tái cấu trúc lịch sử; đặt lịch sử vào vị trí trung tâm nhưng không lặp lại mô hình tiểu thuyết lịch sử thế kỉ XIX. Mục đích của nhà văn đương đại là khẳng định quyền lực tối cao của văn học bằng việc lấy quá khứ lịch sử để giải minh hiện tại(1). Những quan niệm thay đổi về tiểu thuyết lịch sử gắn với quan niệm hoài nghi về lịch sử vì nó chịu ảnh hưởng của người viết sử. Chủ nghĩa duy lý phê phán do Karl Popper (1902 - 1994), triết gia người Áo, khởi xướng đã đánh dấu một bước chuyển hướng mới trong việc xác định đối tượng nghiên cứu của triết học khoa học. Trong công trình Sự nghèo nàn của thuyết sử luận (Chu Lan Đình dịch, Nxb Tri thức, Hà Nội, 2012), Karl Popper phê phán chủ nghĩa lịch sử khi chứng minh sự sụp đổ của thuyết sử luận. Ông cho rằng cách tiếp cận thực tiễn và phương pháp luận của các nhà sử luận đối với khoa học xã hội không mang lại một kết quả như mong đợi. Lịch sử xã hội phát triển không theo qui luật phổ quát, vì thế không thể xem xét hay mô tả một phương diện, khía cạnh để tìm ra (1) Trần Huyền Sâm lược dịch, có sự tham chiếu bản lược dịch của Hoàng Thị Hồng Lê. 11 sự khái quát qui luật phát triển của xã hội nhằm dự đoán tiến trình lịch sử nhân loại. Đối với khoa học lịch sử, dựa trên sự kiện lịch sử đã diễn ra, sử gia chọn lọc sự việc dựa trên quan điểm, góc nhìn cá nhân để diễn giải lịch sử. Để đáp ứng các chức năng trong nghiên cứu lịch sử, thực chất của khoa học lịch sử là phải “áp dụng một cách có ý thức vào sử học một quan điểm chọn lọc định trước; tức là phải viết loại lịch sử quan trọng đối với chúng ta” [101, tr.255]. Tất nhiên, những sự kiện, con người lịch sử có liên quan phải được đặt trong mối quan hệ logic mang tính khách quan khoa học. Tư tưởng “lịch sử như là tự sự” của Hayden White, sử gia người Mĩ, rất có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu văn xuôi tự sự về lịch sử. Tiểu luận Giá trị của tính tự sự trong việc tái hiện hiện thực (Trần Ngọc Hiếu lược dịch, “Giới thiệu lí thuyết tự sự của Hayden White”, Tự sự học (phần 2), Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội) của Hayden White ra đời vào thập niên 80 của thế kỉ XX giải quyết khá thấu đáo mối quan hệ giữa lịch sử và tự sự bằng cảm quan hậu hiện đại. Theo ông, sự mạch lạc của lịch sử là do sự áp đặt mà sử gia tạo ra khi xử lí các sự kiện lịch sử theo hình thức một truyện kể. Bản chất lịch sử được diễn ngôn hóa qua sự sắp đặt biến cố lịch sử tạo thành những ý nghĩa logic phù hợp với ý đồ của người viết. Như vậy, những hoài nghi về quá khứ đã mang đến ý nghĩa quan trọng và tạo nên những nhìn nhận mới về tiểu thuyết lịch sử. Khuynh hướng mới của tiểu thuyết lịch sử trên thế giới hiện nay gắn liền với sự thay đổi về quan niệm lịch sử của con người. Tính chất hư cấu của cốt truyện, sự sáng tạo về nhân vật trên cơ sở giống như thật đồng thời mang cảm quan của thời đại nhằm chuyển tải triết lí nhân sinh là giá trị của tiểu thuyết lịch sử. * Tình hình nghiên cứu trong nước Từ sau 1986, tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từng bước thay đổi, có sự đổi mới trên bước đường vận động. Sau hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp, hàng loạt tiểu thuyết lịch sử như: Hồ Quý Ly (Nguyễn Xuân Khánh, 2000), Giàn thiêu (Võ Thị Hảo, 2005), Đàn đáy (Trần Thu Hằng, 2006), Hội thề (Nguyễn Quang Thân, 12 2009), Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng (Bùi Anh Tấn, 2009)... đánh dấu bước phát triển của thể loại tiểu thuyết lịch sử Việt Nam. Đây là kết quả của quá trình tiếp thu những quan niệm mới về tư duy sáng tác thể loại: hiện tại như là sự tiềm ẩn, hiện hữu của quá khứ. Một trong những vấn đề đáng quan tâm khi bàn về tiểu thuyết lịch sử là cách nhà văn phải xử lí sử liệu. Trong tiểu luận Tiểu thuyết lịch sử trong quan niệm mỹ học của G.Lukacs (1998), Trương Đăng Dung diễn giải quan niệm của G.Lukacs về tiểu thuyết lịch sử. Một trong những tiền đề quan trọng để làm xuất hiện tiểu thuyết lịch sử chính là “cảm thức lịch sử”. Cái chính trong tiểu thuyết lịch sử không phải là sự kiện quá khứ hiện lên như thế nào mà điều quan trọng là nó phải phản ánh được những vấn đề lớn lao của con người và thời đại. Để đạt được điều này nhà văn phải có cách xử lí sử liệu sao cho những con người lịch sử trong quá khứ hiện lên chân thực, sống động như vốn có. Khi đề cập đến nguyên tắc sáng tạo nghệ thuật về đề tài lịch sử, trong “Rừng trúc”của Nguyễn Đình Thi và một số vấn đề lí luận sáng tác về đề tài lịch sử (tạp chí Văn học (11), 1999), Phan Trọng Thưởng đề cập mối quan hệ giữa sự kiện lịch sử và sự sáng tạo cần bộc lộ cảm quan lịch sử nhạy bén. Sáng tác văn học về đề tài lịch sử cần thể hiện được vấn đề mang tính thời sự qua các sự kiện lịch sử. Khi bao quát sự phát triển của tiểu thuyết lịch sử châu Âu (thế kỉ XIX) và Việt Nam (thế kỉ XX) trong công trình Văn học Việt Nam thế kỉ XX (Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2004), Phan Cự Đệ đề cập quan niệm về tiểu thuyết lịch sử của Goncourt, Pierre Louis-Rey, Georges Lukacs, nhà văn Dumas, Naomi Mitchison, Hella S.Haasse... Điều quan trọng nhất trong tiểu thuyết lịch sử là sự kết nối giữa quá khứ và hiện tại nhằm mục đích rút ra bài học cho hiện tại và tương lai. Hư cấu đóng vai trò quan trọng trong tiểu thuyết lịch sử. Tuy nhiên hư cấu phải có giới hạn như thế nào? Trong bài viết Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - phác họa một số xu hướng chủ yếu (Tạp chí Nhà văn, 2012), 13 Nguyễn Văn Dân nhận định hư cấu “giống như “chất phụ gia” cho lịch sử chứ không thể làm sai lệch lịch sử” [23, tr.67]. Tuy nhiên, không thể áp đặt tiêu chí hư cấu như thế nào để đánh giá tác phẩm mà cần xem xét từ nhiều phương diện vì nó tùy thuộc vào quan niệm nghệ thuật của nhà văn. Là một nhà văn rất thành công trong thể loại tiểu thuyết lịch sử, Nguyễn Xuân Khánh, trong bài viết Vài suy nghĩ về tiểu thuyết lịch sử, cũng đề cao vai trò của hư cấu trong thể loại này. Bên cạnh đó, ông cũng cho rằng nhà văn cần có thái độ đánh giá khách quan, công bằng với lịch sử. Qua kinh nghiệm và thực tiễn sáng tác, nhà văn Hà Ân cho rằng từ con người lịch sử trở thành nhân vật tiểu thuyết đã có một khoảng cách nhất định (Hoài Hương, Nhà văn Hà Ân, Đề tài lịch sử không bao giờ xưa, báo Văn nghệ trẻ (44), 2008). Khi tiếp nhận tác phẩm, độc giả không nên dùng tiêu chí sự thật để đánh giá nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết. Đây cũng là quan điểm của Hoài Nam trong bài viết Bàn về tiểu thuyết lịch sử (báo Văn nghệ (45), 2008) khi cho rằng nhân vật lịch sử phải bước qua khoảng cách sử thi để trở thành hình tượng nhân vật sinh động, chân thực và điều cốt yếu là nhân vật phải mang đặc trưng của tiểu thuyết. Trong bài Thảo luận về tiểu thuyết lịch sử (nguồn http://nguyenmonggiac.info/tap-chi-van-hoc/137-thao-luan-ve-tieu-thuyet-lichsu.html), hai nhà văn Nam Dao và Nguyễn Mộng Giác đã trao đổi về mối quan hệ giữa lịch sử và tiểu thuyết. Cuộc tranh luận bộc lộ quan niệm lịch sử được nhìn nhận dưới cái nhìn mang tính chủ quan của nhà văn nhưng thiên về những góc khuất của con người lịch sử với tấn bi kịch cá nhân trong dòng chảy của quá khứ. Con người cá nhân trở thành trung tâm của sự phản ánh trong tiểu thuyết đương đại. Trong tình hình sáng tác về đề tài lịch sử nở rộ và các cuộc tranh luận sôi nổi về tiểu thuyết lịch sử trở thành vấn đề thời sự của văn học. Năm 2012, trong báo cáo đề dẫn cuộc hội thảo khoa học “Sáng tạo văn học, nghệ thuật về đề tài lịch sử” được tổ chức tại Hà Nội (in lại trong Khám phá quá khứ và gặp gỡ hiện 14 tại, Hội đồng lí luận, phê bình văn học, nghệ thuật trung ương, 2015), Phan Trọng Thưởng nêu vấn đề lí luận và tình hình thực tiễn của sáng tác văn học Việt Nam về đề tài lịch sử vào những năm cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI. Nhà văn có quyền sáng tạo nhưng phải có sự chế định của tính chân xác lịch sử. Dựa trên sự kiện, nhân vật của thời quá khứ được chọn mà nhà văn hư cấu, sáng tạo, lựa chọn phương thức nghệ thuật phù hợp với ý đồ tư tưởng. Tác giả đề xuất những căn cứ lí luận để các nhà nghiên cứu có cái nhìn khách quan hơn về những sáng tác nghệ thuật viết về đề tài lịch sử. Từ thực tiễn sáng tác về đề tài lịch sử, Lê Thành Nghị nêu nguyên lí sáng tác, cách tiếp cận và mối quan hệ giữa tinh thần lịch sử trong văn học với hư cấu nghệ thuật trong bài viết Tinh thần của lịch sử trong văn học nghệ thuật (nguồn: http://vannghequandoi.com.vn/Phe-binh-van-nghe/Tinh-than-cua-lich-su-trongvan-hoc-nghe-thuat-1167.html, 2012). Ngoài hư cấu, nhà văn còn sử dụng các biện pháp, bút pháp nghệ thuật để thỏa sức sáng tạo. Vấn đề đặt ra là ý đồ nghệ thuật phải phù hợp với logic nghệ thuật và logic lịch sử. Khi bàn về những đổi mới trong quan niệm về thể loại, trong bài viết Lịch sử và tiểu thuyết lịch sử (nguồn https://hcmup.edu.vn, 2013), theo Trần Đình Sử giữa văn bản lịch sử và sự thật diễn ra trong quá khứ ít nhiều có “độ chênh” tùy thuộc vào diễn ngôn và thái độ chủ quan của người viết sử. “Độ chênh” càng mở rộng biên độ khi tiểu thuyết gia dựa trên một vài sự thật lịch sử được nhìn qua lăng kính của sử gia rồi viết lại một thứ diễn ngôn về diễn ngôn lịch sử. Vì thế, lịch sử trong tác phẩm văn học được soi chiếu qua nhiều tầng nên cần có cách nhìn nhận mới về tiểu thuyết lịch sử. Cùng quan điểm đó, với bài viết Lịch sử như là hư cấu - quan điểm mới về đề tài lịch sử (nguồn http://tapchisonghuong.com.vn, 2013), Phan Tuấn Anh mang đến cho người đọc những căn cứ lí luận để có cách đánh giá mới về tiểu thuyết lịch sử. Bối cảnh xã hội cùng tư duy hậu hiện đại đã giải phóng tư duy cho cả người nghệ sĩ và độc giả. Nhà văn có quyền sáng tạo và hư cấu lịch sử tuy nhiên vẫn phải có một giới hạn nhất định nào đó. 15 Một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sự thành công cho tiểu thuyết lịch sử là cách tiếp cận hiện thực của nhà văn là quan điểm của Đoàn Đức Phương trong Tiểu thuyết lịch sử - hướng tiếp cận mới và vấn đề hư cấu nghệ thuật (in trong Khám phá quá khứ và gặp gỡ hiện tại (Hội đồng lí luận, phê bình văn học, nghệ thuật trung ương, 2015). Khi viết về con người quá khứ, khả năng hư cấu của nhà văn bị đóng khung trong những giới hạn vô hình. Để lấp đầy những khoảng trắng của lịch sử, người cầm bút phải “hư cấu đến độ chân thực, tưởng tượng mà như thật, nhất là với những thành phần không xác định của nhân vật, sự kiện” [100, tr.144]. Lịch sử trong tiểu thuyết trở thành đối tượng để con người khám phá, đối thoại với quá khứ nên một trong những yếu tố ảnh hưởng đến sự thành công của tác phẩm là nhân vật phải hiện lên chân thực trong mối quan hệ phức tạp của cuộc sống. Để đạt được điều này, các nhà văn phải lựa chọn phương thức khai thác nhân vật thiên về góc nhìn đời tư. Đây là quan niệm của Lại Nguyên Ân trong Tiểu thuyết và lịch sử (Nhân đọc “Giàn thiêu” của Võ Thị Hảo, trích Mênh mông chật chội, Nxb Tri thức); Trần Đăng Suyền với Nhân đọc “Hồ Quý Ly” của Nguyễn Xuân Khánh nghĩ thêm về sáng tạo văn học về đề tài lịch sử (trích Khám phá quá khứ & gặp gỡ hiện tại); và Tiểu thuyết lịch sử đương đại với quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Thị Kim Tiến (nguồn http://tapchisonghuong.com.vn, 01/7/2010)... Những quan niệm mới về tiểu thuyết lịch sử đã cho thấy rằng không còn giới hạn ở tính xác thực về những sự kiện, nhân vật của thời quá khứ mà hướng về số phận cá nhân trong dòng chảy lịch sử để chiêm nghiệm cho hiện tại. Dùng cảm quan thời đại để nhìn về quá khứ, nhà văn chuyển tải thông điệp nhân sinh qua hình tượng nhân vật lịch sử. Sự đổi mới trong quan niệm về tiểu thuyết lịch sử đã giúp nhà văn thỏa sức sáng tạo. * Ở tình hình nghiên cứu về tiểu thuyết lịch sử nước ngoài, chúng tôi chỉ chú ý đến một số công trình, bài viết liên quan đến một số tác phẩm viết về đề tài chiến tranh đã được dịch ở Việt Nam có đề cập đến quan điểm, nghệ thuật xây dựng nhân vật lịch sử. 16 Văn học Nga về đề tài chiến tranh thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu. Chúng tôi nhận thấy có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết tập trung vào bộ tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình của L.Tolstoy như: Chủ nghĩa anh hùng trong “Chiến tranh và hòa bình” của Trần Vĩnh Phúc đăng trên tạp chí Văn học số 6/1978 đã nhấn mạnh ý nghĩa, tầm vóc cuộc chiến tranh nhân dân Nga chống đạo quân xâm lược của Napoléon. Năm 1986, Nguyễn Trường Lịch giới thiệu với bạn đọc chuyên luận L.N.Tônxtôi (Nxb Đại học và THCN). Mười năm sau, ông viết bài Thi pháp tự sự và mối quan hệ giữa lịch sử với hư cấu trong tiểu thuyết Lep Tônxtôi (trích tạp chí Văn học (10), 1996). Theo tác giả, sự đổi mới của L.Tolstoy trong việc xây dựng hình tượng Napoléon là miêu tả diễn biến tâm trạng nhằm làm nổi bật tính cách con người cá nhân. Khi nghiên cứu Chiến tranh và hòa bình trên bình diện thi pháp, trong chuyên luận Thi pháp tiểu thuyết L.Tônxtôi (Nxb Giáo dục, tái bản 2006), Nguyễn Hải Hà tập trung vào phép “biện chứng tâm hồn” trong thế giới nhân vật. Tài năng của L.Tolstoy là khắc họa chân dung tâm lí, giao tiếp và đối thoại, độc thoại nội tâm tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt đối với người đọc. Tác giả đề cập đến việc nhà văn “miêu tả nhân vật vừa theo nguyên tắc tương phản vừa theo nguyên tắc song hành” qua các nhân vật Kutuzov và Napoléon, gia đình Bolkonsky và Kuraghin [46, tr.109]. Ý kiến này giúp chúng tôi khơi mở nhiều điều trong quá trình nghiên cứu đề tài. Cũng nằm trong dòng chảy nghiên cứu về bộ tiểu thuyết đồ sộ này, luận án Nghệ thuật thể hiện tâm lí nhân vật của L.Tônxtôi trong tác phẩm “Chiến tranh và hòa bình” (trường Đại học sư phạm Hà Nội, 1999) của Nguyễn Thị Hồng đã đi sâu khảo sát nghệ thuật độc thoại nội tâm, đối thoại và miêu tả chân dung nhân vật Andrei, Natasha, Pierre nhằm làm rõ những đóng góp của L.Tolstoy cho tiến trình văn học thế giới trên phương diện cách tân nghệ thuật. Để lịch sử được nhận thức một cách sâu sắc, xây dựng hình tượng nhân vật lịch sử là một trong những phương diện thể hiện tài năng của nhà văn. Trong tiểu thuyết lịch sử, hình tượng nhân vật lịch sử trở nên chân thực, toàn vẹn khi nhà văn đặt họ trên nhiều phương diện chính trị, xã hội, trong mối quan hệ phức tạp 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan