Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Lịch sử pháp luật về giáo dục ở việt nam từ 1945 đến nay...

Tài liệu Lịch sử pháp luật về giáo dục ở việt nam từ 1945 đến nay

.PDF
133
114
135

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN HUY HỒNG LAM LỊCH SỬ PHÁP LUẬT VỀ GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số: 60 38 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS Chu Hồng Thanh HÀ NỘI - 2012 MỤC LỤC Trang bìa phụ Lời cam đoan Mục lục PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1 I. CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ...........................................1 II. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ Ý NGHĨA LÝ LUẬN ......................................4 III. NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI ....................................................................................6 IV. DỰ KIẾN KẾ HOẠCH THỰC HIỆN ..................................................................7 Chương 1: KHÁI LUẬN VỀ GIÁO DỤC VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIÁO DỤC.......................................................................................... 9 1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về phát triển giáo dục và hoàn thiện pháp luật về giáo dục .......................................................... 9 1.2. Khái niệm pháp luật về giáo dục ........................................................ 18 1.3. Sự pháp điển pháp luật về giáo dục ở nƣớc ta ................................... 19 Kết luận chƣơng 1 ........................................................................................... 22 Chương 2: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN PHÁP LUẬT VỀ GIÁO DỤC ........ 24 2.1. Pháp luật về giáo dục từ ngày thành lập nƣớc đến khi kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954) ...................... 24 2.1.1. Pháp luật về giáo dục trong năm đầu của nền cộng hòa .................... 24 2.1.2. Pháp luật về giáo dục trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (12.1946 – 10.1954) ........................................................................... 29 2.2. Pháp luật về giáo dục thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc (1954 - 1975) ............................................................................. 31 2.3. Pháp luật về giáo dục từ khi đất nƣớc thống nhất đến trƣớc thời kỳ đổi mới (1975 - 1986) ............................................................ 35 2.4. Pháp luật về giáo dục từ khi đổi mới đến nay (1986 đến nay) .............. 37 2.4.1. Pháp luật về giáo dục từ 1986 đến 1998 ............................................ 37 2.4.2. Luật giáo dục năm 1998 và hệ thống văn bản quy định chi tiết, hƣớng dẫn thi hành ............................................................................. 39 2.4.3. Luật giáo dục năm 2005 việc xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục ................................................................ 43 2.4.4. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục năm 2009 .......... 71 2.4.5. Luật giáo dục đại học ......................................................................... 73 Kết luận chƣơng 2 ........................................................................................... 82 Chương 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP XÂY DỰNG PHÁP LUẬT VỀ GIAO DỤC TỪ NAY ĐẾN NĂM 2020 ....................... 84 3.1. Thực tiễn giáo dục và Chiến lƣợc phát triển giáo dục đến năm 2020............................................................................................ 84 3.1.1. Thực tiễn giáo dục hiện nay ............................................................... 84 3.1.2. Chiến lƣợc phát triển giáo dục đến năm 2020 ................................... 90 3.2. Kinh nghiệm xây dựng pháp luật về giáo dục ở một số nƣớc ................ 98 3.3. Yêu cầu về nội dung và hình thức trong xây dựng pháp luật về giáo dục ............................................................................................ 110 3.4. Phƣơng hƣớng, giải pháp xây dựng pháp luật từ nay đến năm 2020 và một số giải pháp xây dựng pháp luật về giáo dục từ nay đến năm 2020 ............................................................................ 114 3.4.1. Phƣơng hƣớng xây dựng pháp luật về giáo dục từ nay đến năm 2020 ........ 114 3.4.2. Giải pháp xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về giáo dục từ nay đến 2020 ......................................................................... 116 KẾT LUẬN .................................................................................................. 124 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 126 3 PHẦN MỞ ĐẦU I. CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI Ngày 08/09/1945, chỉ sáu ngày sau ngày thành lập nƣớc, Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ban hành bốn Sắc lệnh về giáo dục: Sắc lệnh số 16 về việc đặt ra ngạch thanh tra học vụ, Sắc lệnh số 17 về việc đặt ra bình dân học vụ, Sắc lệnh số 19 về việc lập cho công nhân và thợ thuyền những lớp học buổi tối, Sắc lệnh số 20 về việc định rằng học chữ quốc ngữ từ nay bắt buộc và không mất tiền tạo nên một phong trào xoá nạn mù chữ, nâng cao dân trí (đọc đƣợc sách báo, mở mang kiến thức về thƣờng thức khoa học, chính trị, văn hoá,…) trong toàn dân chỉ sau một năm đã có 74.975 lớp với 95.650 giáo viên, riêng ở Bắc Bộ và Trung Bộ đã có 2,5 triệu ngƣời biết đọc, biết viết. Chỉ trong vòng một năm sau ngày thành lập nƣớc, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ban hành Sắc lệnh số 146 ngày 10/08/1946 về việc đặt những nguyên tắc căn bản của nền giáo dục mới, Sắc lệnh số 147 ngày 10/08/1946 về tổ chức bậc học cơ bản. Các sắc lệnh này đã đặt ra những nguyên tắc cơ bản của giáo dục Việt Nam và xây dựng những nền móng đầu tiên, vững chắc của hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam. Các nguyên tắc cơ bản này đã đƣợc ghi nhận tại Điều 15 Hiến pháp 1946. Trong giai đoạn hai cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) và chống Mỹ (1954 - 1975) nhiều văn bản pháp luật về giáo dục đã đƣợc ban hành, dần hình thành hệ thống pháp luật về giáo dục điều chỉnh những quy định về hệ thống giáo dục quốc dân, chƣơng trình giáo dục, các loại hình nhà trƣờng, quy chế thi các cấp, chế độ đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, các biện pháp bảo đảm quyền học tập của công. Điều 15 Hiến pháp năm 1959 đã khẳng định quyền học tập của công dân và các biện pháp bảo đảm quyền học tập của công dân. 1 Từ ngày giải phóng miền nam, thống nhất đất nƣớc đến trƣớc thời kỳ đổi mới (1975 – 1986) các cơ quan quản lý giáo dục đã ban hành những văn bản nhằm thống nhất quản lý mạng lƣới các cơ sở giáo dục trên phạm vi cả nƣớc, từng bƣớc áp dụng thống nhất hệ thống văn bản quy phạm phạm pháp luật về giáo dục đối với các loại trƣờng, các ngành học, cấp học, xác định hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm, … những nguyên lý của giáo dục thời kỳ này đã đƣợc ghi nhận tại Điều 40, Điều 41 Hiến pháp năm 1959 nhƣ học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trƣờng gắn liền với xã hội, hệ thống giáo dục đƣợc Hiến pháp quy định bao gồm: giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp, giáo dục đại học. Từ giai đoạn đoạn đổi mới đất nƣớc từ 1987 đến nay, pháp luật về giáo dục đã từng bƣớc đƣợc hình thành và phát triển tạo điều kiện để mở rộng quy mô, đa dạng hoá các hình thức giáo dục và nâng cấp cơ sở vật chất cho nhà trƣờng. Năm 1991, Quốc hội đã thông qua Luật phổ cập giáo dục tiểu học là Luật chuyên ngành đầu tiên về giáo dục mặc dù phạm vi điều chỉnh của Luật mới chỉ giới hạn đối với việc phổ cập một bậc học nhƣng đã có tác dụng quan trọng trong sự nghiệp nâng cao dân trí, góp phần thực hiện việc “Nhà nƣớc… phổ cập giáo dục tiểu học”, “bậc tiểu học là bắt bộc, không phải trả học phí” mà Hiến pháp 1992 đã quy định. Điều 35 Hiến pháp 1992, đƣợc sửa đổi bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 đã khẳng định vai trò, mục tiêu của giáo dục “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Nhà nƣớc và xã hội phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dƣỡng nhân tài. Mục tiêu của giáo dục là hình thành và và bồi dƣỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân; đào tạo những ngƣời lao động có nghề, năng động và sáng tạo, có niềm tự hào dân tộc, có đạo đức, có ý chí vƣơn lên góp phần làm cho dân giàu nƣớc mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. 2 Năm 1998, Luật giáo dục đã đƣợc quốc hội thông qua, là lần pháp điển hoá đầu tiên pháp luật về giáo dục đã thống nhất quy định về mục tiêu giáo dục; tính chất nguyên lý, giáo dục; yêu cầu về nội dung, phƣơng pháp giáo dục; hệ thống giáo dục quốc dân; nhà trƣờng và cơ sở giáo dục khác; nhà giáo; ngƣời học; quan hệ nhà trƣờng, gia đình và xã hội; quản lý nhà nƣớc về giáo dục; văn bằng, chứng chỉ; xã hội hoá sự nghiệp giáo dục. Năm 2005, Quốc hội đã thông qua Luật giáo dục thay thế Luật giáo dục năm 1998, Luật giáo dục 2005 đƣợc xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển những quy định của Luật giáo dục năm 1998 đã phát huy tác dụng tích cực, tạo hành lang pháp lý trong tổ chức và hoạt động giáo dục. Luật giáo dục 2005 đã kế thừa và phát triển nhiều nội dung của Luật giáo dục năm 1998. Những nội dung mới đƣợc bổ sung bao gồm các quy định nhằm tập trung giải quyết năm nhóm vấn đề: thứ nhất, hoàn thiện một bƣớc về hệ thống giáo dục quốc dân, khẳng định vị trí của giáo dục thƣờng xuyên, phát triển giáo dục nghề nghiệp theo ba cấp đào tạo, tăng khả năng liên thông, phân luồng giữa các bộ phận của hệ thống; thứ hai, nâng cao chất lƣợng và hiệu quả giáo dục, xác định rõ yêu cầu về chƣơng trình giáo dục, về điều kiện thành lập nhà trƣờng, xác định rõ tiêu chí cơ bản để một cơ sở giáo dục đại học đƣợc phép đào tạo tiến sĩ, định hƣớng về công tác kiểm định chất lƣợng giáo dục, tạo điều kiện chuyển đổi từ đào tạo theo năm học sang đào tạo theo tín chỉ, tăng tính cạnh tranh giữa các cơ sở giáo dục; thứ ba, nâng cao tính công bằng trong giáo dục và tăng thêm cơ hội học tập của con em đồng bào dân tộc thiểu số, các đối tƣợng đƣợc hƣởng chính sách xã hội, con em gia đình nghèo; thứ tƣ, tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc về giáo dục đồng thời nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục, đặc biệt là cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp; thứ năm, khuyến khích đầu tƣ mở trƣờng dân lập, tƣ thục đồng thời tạo cơ sở pháp lý để nâng cao chất lƣợng hoạt động của các trƣờng dân lập, tƣ thục. 3 Nội dung chủ yếu của pháp luật về giáo dục trong thời kỳ từ khi bắt đầu đổi mới cho đến nay là những quy định nhằm chuyển đổi hệ thống giáo dục quốc dân từ mục tiêu phục vụ nền kinh tế kế hoạch hoá sang đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Pháp luật về giáo dục đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao dân trí, bồi dƣỡng nhân lực, đào tạo nhân tài phục vụ hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc cũng nhƣ sự thành công của công cuộc đổi mới đất nƣớc. Nhƣng trong bối cảnh Việt Nam gia nhập Tổ chức Thƣơng mại thế giới và hội nhập sâu rộng với thế giới đòi hỏi cần phải đổi mới mạnh mẽ hơn nữa pháp luật về giáo dục nhằm tạo ra nguồn nhân lực chất lƣợng cao phục vụ nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa đang phát triển với tốc độ cao của đất nƣớc trong bối cảnh quá trình toàn cầu hoá đang tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống đất nƣớc. Vì vậy, cần thiết phải nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về giáo dục Việt Nam từ năm 1945 đến nay để đánh giá vai trò tích cực và hạn chế của pháp luật về giáo dục trong từng thời kỳ đối với sự phát triển của giáo dục và xã hội, trên cơ sở đó nghiên cứu phƣơng hƣớng xây dựng pháp luật về giáo dục trong giai đoạn hiện nay nhằm thúc đẩy sự phát triển các quan hệ xã hội trong lĩnh vực giáo dục phục vụ cho việc đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nƣớc nhằm đƣa nƣớc ta cơ bản trở thành một nƣớc công nghiệp vào năm 2020. II. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ Ý NGHĨA LÝ LUẬN Giáo dục là vấn đề đƣợc rất nhiều ngƣời quan tâm, nghiên cứu. Cho đến nay đã có rất nhiều công trình và bài viết quan tâm đến vấn đề giáo dục. Phần lớn các công trình nghiên cứu đều tập trung vào các nội dung chuyên môn giáo dục bao gồm việc nghiên cứu về các bậc học cụ thể trong hệ thống giáo dục quốc dân qua đó góp phần đổi mới hệ thống giáo dục quốc dân, đáp 4 ứng ngày càng tốt hơn mục tiêu phát triển quốc gia về giáo dục hoặc quan tâm đến vấn đề quan điểm phát triển giáo dục, chiến lƣợc giáo dục, chính sách nâng cao chất lƣợng và hiệu quả, các chính sách về đào tạo giáo viên, xây dựng cơ sở vật chất, trƣờng học nhƣ cuốn “Giáo dục Việt Nam đổi mới và phát triển, hiện đại hóa‟ của nhóm tác giả GS.TSKH Vũ Ngọc Hải, PGS.TS Đặng Bá Lãm, PGS.TS Trần Khánh Đức năm 2007, bài viết “Ngành giáo dục đào tạo thực hiện Nghị quyết Trung ƣơng 2 (khóa VIII) và triển khai Nghị quyết đại hội IX (Nguyễn Minh Hiển, Tạp chí Cộng sản số 22 tháng 8/2002); “Phát triển con ngƣời bền vững là trọng điểm của phát triển giáo dục”, “Đổi mới mạnh mẽ giáo dục nghề nghiệp và phát triển nguồn nhân lực” và “Tiếp tục nâng cao chất lƣợng giáo dục toàn diện” (Giáo sƣ Viện sĩ Phạm Minh Hạc, tạp chí Khoa giáo số 1 tháng 1/2004 và Tạp chí Cộng sản số 25 tháng 9/2002); “nhận thức và quán triệt tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giáo dục” (PGS.TS Nghiêm Đình Vì, tạp chí Khoa giáo số 1/2004), “Đổi mới giáo dục đại học Việt Nam” (GS.TS Bành Tiến Long, 2005), “Đổi mới giáo dục đại học và hội nhập quốc tế” (Nhà xuất bản giáo dục, 2005) hoặc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc xây dựng những luật chuyên ngành trong lĩnh vực giáo dục, nghiên cứu lý luận về việc hoàn thiện pháp luật về giáo dục hoặc nghiên cứu về lịch sử phát triển giáo dục nói chung nhƣ “Hệ thống giáo dục và Luật giáo dục một số nƣớc trên thế giới”, “Tìm hiểu Luật giáo dục 2005”, “Giới thiệu Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục 2005” (Vụ Pháp chế, Bộ Giáo dục và Đào tạo), “Hoàn thiện các bảo đảm pháp luật về quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các trƣờng đại học, cao đẳng của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” (Nguyễn Đức Cƣờng – Luận văn thạc sĩ Luật học, 2006), “Hoàn thiện pháp luật về giáo dục ở Việt Nam hiện nay”, (Lê Thị Kim Dung – Luận văn Thạc sĩ Luật học, 2004). Chƣa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về lịch sử phát triển của pháp luật về giáo 5 dục từ năm 1945 đến nay, trên cơ sở phân tích, đánh giá lịch sử phát triển của pháp luật về giáo dục từ 1945 đến nay, tình hình phát triển kinh tế - xã hội, thực tiễn giáo dục hiện nay và thực tiễn thi hành pháp luật về giáo dục trong thời gian qua xác định phƣơng hƣớng xây dựng pháp luật từ nay đến năm 2020 nhằm thúc đẩy sự phát triển các quan hệ xã hội trong lĩnh vực giáo dục phục vụ cho việc đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nƣớc nhằm đƣa nƣớc ta cơ bản trở thành một nƣớc công nghiệp vào năm 2020. III. NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI 1. Phƣơng pháp nghiên cứu a. Phương pháp luận - Chủ nghĩa duy vật lịch sử - Chủ nghĩa duy vật biện chứng - Phép biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh b. Phương pháp nghiên cứu cụ thể - Phân tích quy định của pháp luật - Phƣơng pháp thống kê, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, khảo sát thực tế. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu a. Mục đích nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về giáo dục Việt Nam từ năm 1945 đến nay; tình hình phát triển kinh tế xã hội, thực tiễn giáo dục hiện nay và thực tiễn thi hành pháp luật về giáo dục trong thời gian qua nhằm xác định phƣơng hƣớng, giải pháp xây dựng pháp luật từ nay đến năm 2020 nhằm thúc đẩy sự phát triển các quan hệ xã hội trong lĩnh vực giáo dục phục vụ cho việc đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nƣớc nhằm đƣa nƣớc ta cơ bản trở thành một nƣớc công nghiệp. 6 b. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn - Nghiên cứu cơ sở lý luận và nhận thức về pháp luật về giáo dục. - Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về giáo dục Việt Nam từ năm 1945 đến nay. - Phân tích, đánh giá tình hình phát triển kinh tế - xã hội, thực tiễn giáo dục hiện nay, các quy định pháp luật về giáo dục và thực tiễn thi hành pháp luật về giáo dục, xác định phƣơng hƣớng, đề xuất nội dung cụ thể xây dựng pháp luật từ nay đến năm 2020 nhằm thúc đẩy sự phát triển các quan hệ xã hội trong lĩnh vực giáo dục phục vụ cho việc đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nƣớc nhằm đƣa nƣớc ta cơ bản trở thành một nƣớc công nghiệp. - Phân tích quy định pháp luật về giáo dục của một số quốc gia ở các trình độ phát triển khác nhau trên thế giới. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 1. Đối tượng nghiên cứu Các quy định của pháp luật về giáo dục từ năm 1945 đến nay; tình hình phát triển kinh tế - xã hội, thực tiễn giáo dục hiện nay và thực tiễn thi hành pháp luật về giáo dục. 2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu của luận văn tập trung vào việc nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển pháp luật về giáo dục từ 1945 đến nay, cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng pháp luật về giáo dục từ nay đến năm 2020 nhằm thúc đẩy sự phát triển các quan hệ xã hội trong lĩnh vực giáo dục phục vụ cho việc đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nƣớc nhằm đƣa nƣớc ta cơ bản trở thành một nƣớc công nghiệp. IV. DỰ KIẾN KẾ HOẠCH THỰC HIỆN Đề tài sẽ đƣợc thực hiện theo các bƣớc cụ thể nhƣ sau: 7 - Bƣớc 1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc hình thành và phát triển của pháp triển của pháp luật về giáo dục từ 1945 đến nay và của việc xây dựng pháp luật về giáo dục từ nay đến năm 2020. - Bƣớc 2. Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về giáo dục từ 1945 đến nay. - Bƣớc 3. Phân tích, đánh giá tình hình phát triển kinh tế - xã hội, thực tiễn giáo dục hiện nay, các quy định pháp luật về giáo dục và thực tiễn thi hành pháp luật về giáo dục. - Bƣớc 4. Nhận định phƣơng hƣớng xây dựng pháp luật về giáo dục từ nay đến năm 2020 trên cơ sở phân tích lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về giáo dục từ 1945 đến nay; Phân tích, đánh giá tình hình phát triển kinh tế - xã hội, thực tiễn giáo dục hiện nay, các quy định pháp luật về giáo dục và thực tiễn thi hành pháp luật về giáo dục có đối chiếu quy định pháp luật về giáo dục của một số quốc gia ở các trình độ phát triển khác nhau trên thế giới. Bƣớc 5. Đề xuất một số kiến nghị và giải pháp xây dựng pháp luật về giáo dục từ nay đến năm 2020 nhằm thúc đẩy sự phát triển các quan hệ xã hội trong lĩnh vực giáo dục phục vụ cho việc đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nƣớc nhằm đƣa nƣớc ta cơ bản trở thành một nƣớc công nghiệp. 8 Chương 1 KHÁI LUẬN VỀ GIÁO DỤC VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIÁO DỤC 1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về phát triển giáo dục và hoàn thiện pháp luật về giáo dục Quan điểm về phát triển giáo dục của Đảng và Nhà nƣớc ta đã đƣợc khẳng định tại Sắc lệnh số 146/SL ngày 10/8/1946, đó là “Nền giáo dục nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hoà là một nền giáo dục duy nhất, đặt trên ba nguyên tắc căn bản: đại chúng hoá, dân tộc hoá, khoa học hoá, và theo tôn chỉ phụng sự lý tƣởng Quốc gia và dân chủ”. Từ sau khi cách mạng tháng 8 thành công đến nay, Đảng và Nhà nƣớc ta đã có nhiều chủ trƣơng, chính sách và biện pháp phát triển giáo dục. Hệ thống mạng lƣới nhà trƣờng đã phủ khắp toàn quốc đến tận từng thôn bản xa xôi, để thực hiện mục tiêu xóa mù chữ, phổ cấp giáo dục tiểu học, rồi phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, tiến tới phổ cập giáo dục trung học. Hiện nay, cả nƣớc vẫn đang tích cực xây dựng xã hội học tập, thực hiện “giáo dục cho mọi ngƣời”, ai cũng đƣợc học hành. Vấn đề phát triển giáo dục đang đƣợc toàn xã hội quan tâm. Đảng và Nhà nƣớc đang tập trung hơn, ƣu tiên hơn đối với các vùng khó khăn, nhƣ vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số, vùng đồng bằng sông Cửu Long, vùng Tây Nguyên và đã thu đƣợc một số kết quả, thể hiện tính ƣu việt của chế độ trong giáo dục. Về nội dung giáo dục, không những coi trọng giáo dục kiến thức, mà còn chú ý nhiều vấn đề giáo dục nhân cách cho học sinh, sinh viên, nhất là giáo dục về đạo đức cách mạng, về truyền thống dân tộc, về những nét đẹp văn hóa, ý thức quý trọng ngƣời lao động, gắn bó với nhân dân, ý thức phục vụ nhân dân, coi đó là lý tƣởng của cuộc đời, ý nghĩa của cuộc sống. Thực hiện đẩy mạnh chủ trƣơng xã hội hóa giáo dục: sự nghiệp phát triển giáo dục không 9 phải là công việc riêng của Đảng và Nhà nƣớc mà các đoàn thể xã hội và nhân dân phải cùng chăm lo. Quan điểm về tính dân tộc của nền giáo dục đã đƣợc thể hiện sâu sắc trong các văn bản quan trọng của Đảng và Nhà nƣớc về giáo dục. Tính dân tộc của nền giáo dục nƣớc nhà thể hiện ở nội dung giáo dục, hết sức coi trọng truyền thống giáo dục dân tộc, coi đây là một nội dung xuyên suốt tất cả các môn học. Trong các môn học đã chú ý hơn đến việc giảng dạy và học tập ngôn ngữ, lịch sử, văn học và địa lý nƣớc nhà. Kể từ ngày thành lập nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa, tiếng Việt đƣợc khẳng định là ngôn ngữ chính thức dạy trong nhà trƣờng. Ngay từ các lớp tiểu học, cần quan tâm thích đáng đến tính địa phƣơng trong chƣơng trình và kế hoạch dạy học, giáo dục cả trên lớp lẫn ngoài giờ lên lớp, sau nâng dần lên học lịch sử của dân tộc, giáo dục tinh thần dân tộc và lòng yêu nƣớc, gắn liền với giáo dục "ý thức công dân". Giáo dục tinh thần bình đẳng giữa các dân tộc cùng sống trên đất nƣớc Việt Nam, tƣơng trợ lẫn nhau, thực hiện đại đoàn kết dân tộc cùng nhau bảo vệ và xây dựng đất nƣớc. Văn hóa các dân tộc đều có bƣớc phát triển mới hơn hẳn thời kỳ trƣớc cách mạng. Đảng và Nhà nƣớc ta đã khẳng định, văn hóa các dân tộc cần đƣợc phát huy và phát triển, tiếng nói và chữ viết riêng của các dân tộc cần đƣợc giữ gìn. Điều 5 Luật Giáo dục quy định: "Nhà nƣớc tạo điều kiện để ngƣời dân tộc thiểu số đƣợc học tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình". Chiến lƣợc phát triển giáo dục 2001 - 2010 xác định mục tiêu tổng quát là tạo bƣớc thay đổi căn bản về chất lƣợng giáo dục; phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lƣợng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân theo hƣớng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá và hội nhập quốc tế; đổi mới chƣơng trình, nội dung, phƣơng pháp dạy và học; đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục; tập trung nâng cao chất lƣợng giáo dục, coi 10 trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành; đẩy mạnh đào tạo nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nƣớc; xây dựng môi trƣờng giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trƣờng với gia đình và xã hội; xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân đƣợc học tập suốt đời; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, sự phát triển năng động của các nền kinh tế, quá trình hội nhập và toàn cầu hóa đang làm việc rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển giữa các nƣớc trở nên hiện thực hơn và nhanh hơn. Khoa học - công nghệ trở thành động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế - xã hội. Giáo dục là nền tảng của sự phát triển khoa học công nghệ, đóng vai trò chủ yếu trong việc nâng cao ý thức dân tộc, tinh thần trách nhiệm và năng lực của các thế hệ mai sau. Cải cách giáo dục đang diễn ra trên quy mô toàn cầu. Bối cảnh trên đã tạo ra những thay đổi sâu sắc trong giáo dục, từ quan niệm về chất lƣợng giáo dục, xây dựng nhân cách ngƣời học đến cách tổ chức quá trình và hệ thống giáo dục. Nhà trƣờng từ chỗ khép kín chuyển sang mở cửa rộng rãi, đối thoại với xã hội và gắn bó chặt chẽ với nghiên cứu khoa học - công nghệ và ứng dụng, nhà giáo thay vì chỉ truyền đạt tri thức, chuyển sang cung cấp cho ngƣời học phƣơng pháp thu nhận thông tin một cách hệ thống, có tƣ duy, phân tích và tổng hợp. Vì vậy, các quốc gia từ những nƣớc đang phát triển đến những nƣớc phát triển đều nhận thức đƣợc vai trò và vị trí hàng đầu của giáo dục, đều phải đổi mới giáo dục để có thể đáp ứng một cách năng động hơn, hiệu quả hơn, trực tiếp hơn những nhu cầu của sự phát triển đất nƣớc. Giáo dục ngày nay phải tạo đƣợc động lực thúc đẩy học tập suốt đời, góp phần loại bỏ khả năng không đƣợc học do thiếu cơ hội và điều kiện giáo dục, hƣớng tới xây dựng một xã hội học tập. Nó cho phép từng cá nhân phát 11 triển khả năng sáng tạo, tinh thần chủ động và khả năng thích nghi từ đó làm tăng khả năng tự chủ trong đời sống và công việc. Giáo dục ban đầu tạo cơ sở vững chắc để mọi ngƣời có thể học tập suốt đời. Với cách nhìn đó, giáo dục là cả một quá trình lâu dài. Giáo dục, học tập suốt đời không hạn chế về việc giáo dục ban đầu, mà chính là phát triển giáo dục thƣờng xuyên, phát triển một xã hội học tập. Nâng cao tri thức phải đƣợc coi là mục tiêu đầu tiên của nhiệm vụ giáo dục. Việc đa dạng hóa các loại hình giáo dục cũng là một yếu tố khuyến khích việc làm giàu tri thức và tạo điều kiện xây dựng một xã hội học tập. Nƣớc ta đang tiến hành thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đồng thời lại phải đối mặt với ảnh hƣởng của giai đoạn thông tin hóa và giáo dục dịch vụ. Là hình thức mới tất nhiên sẽ có những vấn đề mới cần nghiên cứu và thực hiện sao cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội. Chính trong tình hình nhƣ vậy cần đổi mới công tác quản lý nhà nƣớc về giáo dục. Trƣớc hết, phải xác định: giáo dục phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng chủ nghĩa xã hội phải dựa vào giáo dục. Do vậy phải có những chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức vai trò và vị trí của giáo dục trong tiến trình phát triển quốc gia. Trong những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ trƣớc mặc dù giáo dục là một lĩnh vực luôn luôn đƣợc coi trọng, song giáo dục nƣớc ta mới chỉ đƣợc xem là "một bộ phận quan trọng của cách mạng văn hóa tƣ tƣởng, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa tƣ tƣởng, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển văn hóa kỹ thuật" (Nghị quyết số 14 của Bộ Chính trị năm 1979). Với ý nghĩa đó giáo dục nằm trong thƣợng tầng kiến trúc có tác động và vai trò chủ yếu trong lĩnh vực dân trí, thay đổi nhận thức ý thức xã hội. Quan niệm trên đã đặt cơ sở cho bƣớc phát triển mới, căn bản khi giáo dục đƣợc xem là quốc sách hàng đầu, đầu tƣ cho giáo dục là đầu tƣ phát triển đƣợc khẳng định trong các văn kiện Đại hội VII (1991), VIII (1996) và Đại hội IX của Đảng Cộng sản 12 Việt Nam (2001), Hiến pháp 1992 (đã đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2001) và nhiều văn kiện khác của Đảng và Chính phủ. Giáo dục và Đào tạo góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội, tạo nguồn lực quan trọng cho công cuộc phát triển quốc gia. Quan điểm "phát triển giáo dục là quốc sách đầu" của Đảng và Nhà nƣớc ta đối với giáo dục đƣợc thể hiện nhất quán trong các chủ trƣơng, chính sách. Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dƣỡng nhân tài phục vụ yêu cầu về quyền đƣợc học tập của nhân dân. Phát triển giáo dục bao gồm cả hai mặt: phát triển về số lƣợng và phát triển về chất lƣợng. Trong mỗi mặt đó, sự phát triển thể hiện về số lƣợng và phát triển về chất lƣợng. Trong mỗi mặt đó, sự phát triển thể hiện ở đội ngũ ngƣời học, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, mạng lƣới trƣờng lớp và cơ sở vật chất, chƣơng trình và nội dung giáo dục, các điều kiện tài chính, cơ chế chính sách và gắn với hiệu quả giáo dục. Phát triển về số lƣợng là quan trọng, còn phát triển về chất lƣợng là quyết định vì chính chất lƣợng sẽ xác định hiệu quả của phát triển giáo dục. Phát triển giáo dục phải gắn với nhu cầu và phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ khoa học công nghệ, củng cố quốc phòng, an ninh của đất nƣớc, bảo đảm sự hợp lý về cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền, mở rộng quy mô trên cơ sở bảo đảm chất lƣợng và hiệu quả. Phát triển giáo dục là một quá trình, kế thừa các thành tựu, kết quả của các giai đoạn trƣớc và là một quá trình biến đổi dần đi tới mục tiêu. Khi nói "phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu" là muốn nói đến một chính sách có liên quan đến tất cả mọi ngƣời, mọi vùng miền của đất nƣớc, và phải đi trƣớc một bƣớc so với các chính sách khác. Nhƣ vậy, khi nói "phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu" có nghĩa là chính sách giáo dục của Đảng và Nhà nƣớc có tầm quan trọng vào hàng thứ nhất trong tất cả các 13 chính sách khác. Ngày nay, chính sách giáo dục có vai trò quyết định trong việc đƣa nƣớc ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành một nƣớc "dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" vào những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI. Kinh nghiệm từ việc thực hiện đƣờng lối này những năm vừa qua cho thấy, muốn cho giáo dục thực sự là quốc sách hàng đầu thì phải đầu tƣ mạnh mẽ cả trên bốn mặt: đầu tƣ tài chính, đầu tƣ cán bộ, chính sách ƣu tiên và tổ chức quản lý. Sự phát triển kinh tế thị trƣờng đa thành phần ở nƣớc ta, một mặt tạo ra những nguồn lực mới cho sự nghiệp phát triển kinh tế, mặt khác cũng đặt ra nhu cầu mới về đa dạng hóa giáo dục - đào tạo của các tầng lớp dân cƣ, các thành phần kinh tế trong xã hội. Do vậy, chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc là đa dạng hóa các loại hình đào tạo đáp ứng không chỉ cho nhu cầu Nhà nƣớc, mà cho toàn xã hội; ngƣời đi học phải đóng học phí, bãi bỏ chế độ phân phối học sinh tốt nghiệp đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp dạy nghề; cho phép và mở rộng từng bƣớc các trƣờng dân lập, tƣ thục các trƣờng liên doanh với các tổ chức quốc tế và các trƣờng 100% đầu tƣ vốn từ nƣớc ngoài. Đây đƣợc coi là một bƣớc chuyển quan trọng của quản lý phát triển giáo dục - đào tạo ở Việt Nam. Sự ra đời và phát triển nhanh chóng của các loại hình trƣờng, cơ sở giáo dục - đào tạo dân lập, tƣ thục từ giáo dục mầm non đến giáo dục đại học đã mang một diện mạo mới cho sự phát triển của giáo dục Việt Nam không chỉ ở khía cạnh đa dạng loại hình, huy động thêm nguồn lực xã hội cho sự phát triển giáo dục, mà còn tạo tiền đề thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh cho giáo dục, từng bƣớc hình thành thị trƣờng giáo dục - đào tạo có định hƣớng trong phát triển nguồn nhân lực. Giáo dục là nhu cầu, quyền lợi cơ bản của mọi thành viên trong xã hội, do đó chính sách quản lý phải đảm bảo sự công bằng và tạo cơ hội bình đẳng cho mọi ngƣời trong giáo dục. Chính sách quản lý này phải nhất quán, đặc biệt nền kinh tế thị trƣờng nhiều thành phần đang hàng ngày tạo ra khoảng 14 cách thu nhập ở các tầng lớp dân cƣ và nảy sinh những tiêu cực trong xã hội (khoảng cách giàu nghèo đã tăng lên khoảng 10 lần). Cùng với chủ trƣơng miễn học phí ở bậc tiểu học, Chính phủ đã ban hành nhiều chủ trƣơng chính sách về miễn giảm học phí cho các đối tƣợng chính sách; lập quỹ cho vay đối với học sinh nghèo; tăng đầu tƣ cho giáo dục miền núi các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, cho các dân tộc ít ngƣời… Việc chuyển từ chính sách bình quân, cào bằng sang chủ trƣơng công bằng và bình đẳng trong giáo dục - đào tạo đã và đang tạo ra những điều kiện mới, động lực mới cho công cuộc phát triển giáo dục ở Việt Nam. Đặc điểm lớn nhất của thời kỳ đổi mới đất nƣớc ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trƣờng có sự quản lý của Nhà nƣớc theo định hƣớng XHCN. Về mặt đối ngoại thực hiện chính sách mở cửa, hợp tác với các nƣớc trên các mặt kinh tế, văn hóa, khoa học, giáo dục… Nhờ chủ trƣơng đúng đắn đó, đất nƣớc ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội trong những năm 80 và tạo đƣợc tiền đề cần thiết cho phép chuyển sang thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nƣớc. Thành công của giáo dục và sự phát triển nguồn nhân lực Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào sức mạnh nền móng mà nó đƣợc xây dựng. Các quy định pháp luật, cấu trúc tổ chức, hệ thống quản lý và lập kế hoạch, năng lực của đội ngũ cán bộ đó là những phần quan trọng của nền móng trên. Không có các quy định pháp luật tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động giáo dục, không có một hệ thống quản lý và kế hoạch mềm dẻo thích hợp, không có đủ cán bộ quản lý đƣợc đào tạo và cấu trúc tổ chức để tiến hành các đổi mới và phát triển thì giáo dục và nguồn nhân lực không thể phát hiện đƣợc. Bộ Giáo dục và Đào tạo là cơ quan của Chính phủ chịu trách nhiệm quản lý Nhà nƣớc trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, bao gồm hoạch định chính sách, xây dựng 15 mục tiêu, nội dung, chƣơng trình… ở cấp độ quốc gia chiến lƣợc và các chính sách giáo dục, các chƣơng trình hành động đƣợc phối hợp giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo với các cơ quan khác của Chính phủ. Các tỉnh cụ thể hóa các mục tiêu và phƣơng thức đạt đƣợc các mục tiêu của giáo dục phù hợp với từng địa phƣơng. Việc thực hiện chúng phải nhằm hoàn thành các mục tiêu quốc gia cũng nhƣ mục tiêu của từng địa phƣơng. Điều này đến nay vẫn đang trong quá trình phân cấp theo ngành dọc và phân cấp theo chiều ngang nhằm tiến tới một sự phân định ranh giới rõ ràng về quyền hạn và trách nhiệm, ý thức chung về thực hiện tốt các mục tiêu quốc gia. Để có thể thực hiện thành công các chƣơng trình giáo dục và đào tạo, Bộ Giáo dục và Đào tạo có trong tay những bộ phận cấu thành liên kết chặt chẽ: xây dựng chƣơng trình học, đào tạo giáo viên, quy chế thi tuyển, mạng lƣới thông tin theo ngành dọc, kế hoạch hóa và tiếp nhận các thông tin phản hồi. Cùng với việc xây dựng nhà nƣớc pháp quyền, tổ chức và quản lý mọi hoạt động xã hội bằng hệ thống pháp luật có tính khách quan, công bằng vì lợi ích của nhân dân; các chính sách phát triển giáo dục ở Việt Nam thời gian qua đã đƣợc thể chế từng bƣớc bằng hệ thống văn bản pháp luật về giáo dục. Ngay sau khi thành lập nƣớc, Chính phủ đã ra một loạt sắc lệnh là cơ sở cho việc tổ chức và hoạt động của hệ thống giáo dục quốc dân nhƣ: Sắc lệnh số 17/SL, Sắc lệnh số 19/SL về bình dân học vụ, Sắc lệnh số 20/SL về giáo dục giáo dục tiểu học bắt buộc và không mất tiền, Sắc lệnh số 16/SL về thành lập Thanh tra học vụ, Sắc lệnh số 18/SL về sử dụng học quan thời Pháp thuộc đều đƣợc ban hành ngày 08/09/1945, Sắc lệnh 44/SL ngày 10/10/1945 về thành lập Hội đồng cố vấn học chính,.. Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 đều có chế định về giáo dục là cơ sở hiến định để hoàn thiện hệ thống pháp luật về giáo dục. 16 Luật giáo dục và một trong những luật đƣợc Đảng quan tâm, chỉ đạo việc xây dựng và ban hành sớm nhất. Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VI của Đảng năm 1986, Đại hội của đổi mới đã khẳng định: “Chuẩn bị ban hành Luật giáo dục”. Từ năm 1986 đến nay, việc không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật là mối quan tâm lớn, thƣờng xuyên và là một trong những chủ trƣơng quan trọng của Đảng và Nhà nƣớc, đƣợc ghi nhận trong các văn kiện của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết trung ƣơng 8 (khóa 7), Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Nghị quyết trung ƣơng 3 (khóa 8), Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị ngày 02/01/2002. Trải qua 25 năm đổi mới, Việt Nam từng bƣớc hoàn thiện hệ thống pháp luật, góp phần quan trọng vào việc thực hiện các chủ trƣơng, chính sách của Đảng về xây dựng nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa và nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam. Bƣớc chuyển biến cơ bản nhất, rõ nét nhất của hệ thống pháp luật thể hiện ở việc trƣớc đây Nhà nƣớc quản lý kinh tế, xã hội chủ yếu bằng nghị quyết và mệnh lệnh hành chính, sau 25 năm đổi mới, pháp luật đã trở thành công cụ quản lý chủ yếu của Nhà nƣớc. Nguyên tắc pháp quyền ngày càng đƣợc khẳng định và phát huy hiệu quả trên thực tế. Hoạt động của cơ quan nhà nƣớc ngày càng trở nên công khai hơn, dân chủ ngày càng đƣợc mở rộng. Nhân dân tham gia và thực hiện quyền giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc, các hoạt động giáo dục. Việc xây dựng pháp luật không còn mang nặng tính chủ quan duy ý chí mà đã dựa trên những cơ sở khoa học và nguyên tắc của nhà nƣớc pháp quyền. Kế hoạch xây dựng pháp luật dần trở thành một bộ phận hữu cơ của kế hoạch phải triển kinh tế - xã hội và đƣợc xây dựng phù hợp nguyên tắc khách quan, nguyên tắc khoa học và nguyên tắc dân chủ. 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan