Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Lễ hội truyền thống của người m’nông preh huyện krông nô, tỉnh đăk nông trong xã...

Tài liệu Lễ hội truyền thống của người m’nông preh huyện krông nô, tỉnh đăk nông trong xã hội đương đại.

.PDF
230
480
115

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM Lê Khắc Ghi LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI M’NÔNG PREH HUYỆN KRÔNG NÔ, TỈNH ĐĂK NÔNG TRONG XÃ HỘI ĐƯƠNG ĐẠI LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA DÂN GIAN Hà Nội - 2018 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM Lê Khắc Ghi LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI M’NÔNG PREH HUYỆN KRÔNG NÔ, TỈNH ĐĂK NÔNG TRONG XÃ HỘI ĐƯƠNG ĐẠI Chuyên ngành: Văn hóa dân gian Mã ngành: 9229041 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA DÂN GIAN NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: Trần Văn Ánh Hà Nội - 2018 i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan bản luận án tiến sĩ là công trình của riêng tôi. Các số liệu được sử dụng trong luận án là trung thực. Nếu có gì sai trái tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm. Tác giả luận án Lê Khắc Ghi ii MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................................... i DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN ............................................... iii MỞ ĐẦU.................................................................................................................................... 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN ......... 11 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài...........................................................11 1.2. Cơ sở lý luận ..................................................................................................26 1.3. Người M’Nông Preh ở huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông .............................41 Tiểu kết ..................................................................................................................53 Chương 2: PHỤC HỒI LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI M’NÔNG PREH Ở HUYỆN KRÔNG NÔ, TỈNH ĐĂK NÔNG ................................................................... 55 2.1. Các lễ hội truyền thống ..................................................................................55 2.2. Chủ thể và khách thể với lễ hội ......................................................................94 2.3. Tình hình tổ chức phục hồi lễ hội truyền thống ở huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông ............................................................................................................107 Tiểu kết ................................................................................................................113 Chương 3: NHẬN ĐỊNH VỀ SỰ PHỤC HỒI LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG TRONG XÃ HỘI ĐƯƠNG ĐẠI ........................................................................................................ 115 3.1. Những vấn đề xung quanh việc phục hồi lễ hội ...........................................115 3.2. Nguyên nhân của sự thay đổi của lễ hội ......................................................133 3.3. Hệ quả của quá trình thay đổi của lễ hội ......................................................153 3.4. Giá trị văn hóa lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội đương đại ..........157 3.5. Xu hướng phát triển của lễ hội M’Nông Preh trong thời gian tới....................160 3.6. Vấn đề bảo tồn, phát huy lễ hội truyền thống ..............................................166 Tiểu kết ................................................................................................................170 KẾT LUẬN ........................................................................................................................... 173 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ............................... 177 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................... 178 PHỤ LỤC............................................................................................................................... 194 iii DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ GS.TSKH Giáo sư, tiến sĩ khoa học GS.TS Giáo sư, tiến sĩ NVHCĐ Nhà văn hóa cộng đồng Nxb Nhà xuất bản PGS.TS Phó giáo sư, tiến sĩ tr Trang UBND Ủy ban nhân dân 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Lễ hội truyền thống M’Nông Preh là sinh hoạt cộng đồng tiêu biểu và quy mô nhất của cư dân tại chỗ. Đây là những hoạt động mang tính tổng hợp của tín ngưỡng tâm linh, sinh hoạt văn hóa, trao truyền kỹ năng sống, hoạt động vui chơi, giải trí; đồng thời xây dựng tinh thần cố kết cộng đồng, giữ cho cộng đồng tồn tại và phát triển qua hàng ngàn đời. Những thành tố văn hóa trong lễ hội đã biểu hiện rõ sắc thái văn hóa của dân tộc, minh chứng cho sức sống mãnh liệt của văn hóa cộng đồng làm nên sự khác biệt khó trộn lẫn. Lễ hội thường tổ chức là: Mừng mùa (Bư brah bă), Sum họp cộng đồng (R’nglăp bon), Cúng bến nước (Bư brah dơrâm dăk), Cầu mưa (Bư brah qual mih), Cầu an (Tăm blang m’prang bon). Tuy mỗi lễ hội có sự khác nhau, nhưng nhìn chung đó là sinh hoạt lớn của cộng đồng gồm nhiều yếu tố như: các nghi thức tế lễ, lễ vật, trưng bày cây nêu, trồng cây blang, ẩm thực và hoạt động vui chơi, giải trí. Phải thấy rằng, lễ hội giữ vai trò quan trọng trong đời sống cộng đồng, là sự tái hiện các hoạt động sáng tạo, nơi biểu diễn, giới thiệu nhiều giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc; là môi trường học hỏi đa diện các kỹ năng sống, sản xuất và sáng tạo văn hóa nghệ thuật; tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng cuộc sống và biết ơn ông bà, những thế hệ đi trước bằng lối ứng xử văn hóa giữa con người với con người, con người với môi trường tự nhiên và con người với thần linh. Từ góc độ của người quản lý và làm công tác nghiên cứu khoa học trong quá trình điền dã và thực tế tôi nhận thấy trước sự thay đổi mau chóng của đời sống xã hội, kinh tế phát triển đã tác động đến cuộc sống sinh hoạt của người M’Nông Preh. Hoạt động văn hóa truyền thống bản địa nơi đây ngày một phai nhạt dần, các lễ hội cũng thưa thớt và không còn quy mô, đầy đủ như trước. Các bài bản nghi thức lễ hội, phương cách trình diễn, môi 2 trường diễn xướng, lễ vật dâng cúng, ăn uống, vui chơi, ca hát dân gian cũng dần mai một và lãng quên. Môi trường sống đã bị bó hẹp, xa rừng - nơi hình thành nên cốt lõi của văn hóa truyền thống. Không gian lễ hội - không gian thiêng của bon làng với ngôi nhà truyền thống của người M’Nông hầu như không còn nữa, chỉ còn trong ký ức đã được cộng đồng định vị trong suốt hàng ngàn đời nay. “Ăn trâu” là một tập tục có từ lâu đời trong lễ hội, nó kéo theo hàng loạt các nghi lễ: cột trâu, khóc trâu, đâm trâu, bôi máu trâu và cúng cầu may cho người đâm trâu; tạo nên sự linh thiêng, khí thế hào hùng và bi tráng đầy chất nhân văn của buổi tế lễ. Hiện nay, có nơi lễ hội đang thay con trâu bằng con bò, heo đã bỏ đi những nghi lễ và nghi thức đặc biệt đó của lễ hội, làm giảm đi tính thiêng và sự sôi động của một lễ hội truyền thống. Mặt khác sự cố kết cộng đồng, một ước nguyện ngàn đời giữ cho họ tồn tại và phát triển trong môi trường rừng núi còn nhiều khó khăn và thử thách đã không giữ được cái hồn cốt, mong ước của cộng đồng trong mùa lễ hội. Nguy cơ hơn là việc cải đạo, giảm sút thực hành tín ngưỡng; sự xúi giục của Tin lành Đê Gar loại bỏ sinh hoạt lễ hội, nghi lễ trong đời sống cộng đồng, do đó ảnh hưởng đến việc phục hồi lễ hội truyền thống. Xuất phát từ thực tiễn qua các lễ hội truyền thống M’Nông Preh được khái lược như trên, tôi đi đến xác định và lựa chọn đề tài nghiên cứu: Lễ hội truyền thống của người M’Nông Preh huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông trong xã hội đương đại. Những vấn đề nghiên cứu chính mà luận án muốn giới thiệu, phân tích, lý giải về lễ hội truyền thống với những nét riêng độc đáo và đa dạng trong sinh hoạt cộng đồng của người M’Nông Preh huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông. Trước sự thay đổi nhanh chóng của đời sống mới, lễ hội truyền thống đã bị cuốn theo trong sự gắng gượng để chấp nhận tồn tại trong bối cảnh mới. Cộng đồng, đặc biệt là những nghệ nhân, người giữ hồn cốt cho lễ hội cũng 3 cảm thấy bối rối và tiếc nuối cho di sản cha ông ngày càng mai một. Tại sao những lễ hội truyền thống tồn tại từ ngàn đời lại nhanh chóng bị mai một, thay đổi và lãng quên trên chính mảnh đất đã sinh ra loại hình sinh hoạt văn hóa giàu bản sắc? Những tồn tại của quá trình phục hồi lễ hội các dân tộc tại chỗ đã tác động tiêu cực đến việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, đặt ra những thử thách mới trong việc hài hòa giữa bảo tồn và phát triển. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến phong trào “xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở”, giữ gìn mối quan hệ tốt đẹp trong cộng đồng, cố kết bằng sức mạnh truyền thống và ý thức công dân trong thời đại mới; tạo điều kiện phát triển kinh tế-xã hội. Trong nhiều vấn đề quan tâm ngày nay, những vấn đề tồn tại kéo dài, tiêu cực, khó kiểm soát của lễ hội các dân tộc bản địa đặt ra phải có sự nhìn nhận đánh giá thực tế để xây dựng chương trình hành động trong việc bảo tồn văn hóa truyền thống bằng các hành động thiết thực, bằng công việc cụ thể như: tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn, tổ chức phục dựng, tái hiện, giới thiệu, quảng bá hình ảnh các lễ hội đặc sắc này thông qua các đề án, dự án, chương trình hỗ trợ cộng đồng, trong đó gắn lễ hội với du lịch. Cộng đồng hưởng lợi trong các hoạt động lễ hội và cộng đồng là người quyết định giữ gìn loại hình văn hóa độc đáo này. Đó là những vấn đề thực tế đặt ra cho tác giả luận án quan tâm, nghiên cứu. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở tổng kết các công trình nghiên cứu về lễ hội truyền thống của người M’Nông Preh cư trú tại huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông, chúng tôi giới thiệu, phân tích và đưa ra kiến giải của riêng mình. Luận án có mục đích cụ thể: - Thông qua việc giới thiệu tổng quan lễ hội truyền thống người M’Nông Preh huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông nhằm chỉ ra tổng thể hình ảnh 4 đời sống văn hóa cộng đồng, nêu được những giá trị văn hóa truyền thống thông qua sinh hoạt cộng đồng, đặc biệt là lễ hội. - Nêu ra những nhân tố tác động làm thay đổi lễ hội truyền thống M’Nông, nói cách khác chỉ ra nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi lễ hội truyền thống người M’Nông Preh sinh sống tại huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông trong xã hội đương đại. - Chỉ ra những tác động của việc phục hồi lễ hội đến đời sống cộng đồng, trong mối quan hệ ứng xử của cộng đồng, cũng như việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. - Cách thức triển khai nội dung, chương trình hỗ trợ cộng đồng bảo tồn lễ hội truyền thống, trong đó cộng đồng đóng vai trò chủ đạo, tích cực tham gia. Đề xuất những giải pháp cụ thể để phục dựng lễ hội trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội; giữ gìn sự đoàn kết trong cộng đồng với các dân tộc anh em; đồng thời đảm bảo hài hòa giữa bảo tồn và phát triển văn hóa ở đại phương. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là: Lễ hội truyền thống M’Nông Preh huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông trong bối cảnh chung của lễ hội và sinh hoạt cộng đồng M’Nông tại tỉnh Đăk Nông. Khi tiếp cận nghiên cứu đối tượng trên, luận án sẽ nghiên cứu giới thiệu tổng thể và những thành tố của lễ hội truyền thống M’Nông Preh huyện Krông Nô: Mừng mùa (Bư brah bă), Sum họp cộng đồng (R’nglăp bon), Cúng bến nước (Bư brah dơrâm dăk), Cầu mưa (Bư brah qual mih), Cầu an (Tăm blang m’prang bon). Mặt khác, lễ hội truyền thống M’Nông Preh cũng được đặt trong bối cảnh hiện nay với sự phát triển của đời sống xã hội. 5 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi không gian: là không gian lễ hội của cộng đồng M’Nông Preh thuộc huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông; trong đó tập trung khảo sát kỹ tại một số bon trên mười tám bon có những điều kiện kinh tế xã hội khác nhau như bon KTăh xã Quảng Phú; bon Ol, Giang Trum xã Đăk Rô; bon Ja Răh, R’Cập xã Nâm Nung; bon Jor Linh, Dru, Brói thị trấn Đăk Mâm. Qua đó so sánh, đối chiếu để làm rõ những yếu tố thay đổi của lễ hội trong đời sống cộng đồng. Phạm vi thời gian: tập trung nghiên cứu thực tế tổ chức lễ hội truyền thống M’Nông Preh huyện Krông Nô từ năm 2004 (sau khi thành lập tỉnh Đăk Nông), ít nhiều có đề cập đến thời gian trước và sau năm 1975 khi Tây Nguyên được giải phóng, đất nước thống nhất để nhìn thấy quá trình chuyển biến trong việc tổ chức lễ hội truyền thống. 4. Giả thuyết nghiên cứu Từ những mục đích, nội dung đặt ra như trên luận án sẽ đưa ra các giả thuyết nghiên cứu như sau: -Sự cởi mở, đổi thay của điều kiện kinh tế xã hội có sự tác động đến đời sống cộng đồng. Tuy nhiên với lối sống không còn gắn bó với rừng, từ canh tác nương rẫy sang canh tác cây công nghiệp, sinh hoạt tôn giáo mới đã ảnh hưởng tiêu cực đến tín ngưỡng dân gian dẫn đến thay đổi sinh hoạt văn hóa cộng đồng làm thay đổi lễ hội truyền thống. - Sự hạn chế của tổ chức lễ hội truyền thống hoặc những thay đổi của lễ hội đã tác động tiêu cực và ảnh hưởng đến sinh hoạt văn hóa cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên nói chung và người M’Nông Preh nói riêng trong việc bảo tồn văn hóa truyền thống góp phần phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo an ninh ở địa phương. - Lễ hội truyền thống người M’Nông Preh là sinh hoạt cộng đồng hết sức tích cực nếu như các giá trị truyền thống được giữ vững và các sinh hoạt 6 cộng đồng được bảo tồn là điều kiện tiên quyết trongviệc tuyên truyền, hướng dẫn tổ chức phục dựng, tái hiện và giới thiệu, quảng bá hình ảnh các lễ hội đặc sắc. Thông qua các đề án, dự án, chương trình, hỗ trợ cộng đồng, trong đó gắn lễ hội với du lịch, cộng đồng sẽ được hưởng lợi trong các hoạt động lễ hội và cộng đồng là người quyết định giữ gìn vốn quý của loại hình văn hóa độc đáo này. 5. Câu hỏi nghiên cứu Câu hỏi nghiên cứu chính của luận án là phân tích, lý giải: tại sao lễ hội truyền thống của người M’Nông Preh ở huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông có sự thay đổi trong bối cảnh đương đại và những lý do gì mà hiện tượng sinh hoạt văn hóa cộng đồng lại có nhiều thay đổi và diễn ra mạnh mẽ đến như vậy. Tại sao xã hội ngày nay cộng đồng có điều kiện hơn và có đời sống kinh tế khá giá hơn so với trước kia nhưng lễ hội không được tổ chức thường xuyên theo đúng nguyện vọng của cộng đồng và phát huy giá trị văn hóa truyền thống mà càng ngày mai một. Sự thay đổi truyền thống diễn ra như thế nào, nguyên nhân nào dẫn đến sự thay đổi này và hệ quả của quá trình thay đổi này ra sao. Những thay đổi trong việc tổ chức lễ hội truyền thống đã nói lên điều gì trong điều kiện có sự hỗ trợ của nhà nước, các cấp chính quyền trong việc bảo tồn văn hóa truyền thống, vận động xây dựng nông thôn mới. Trong nhiều vấn đề quan tâm ngày nay, sự thay đổi liên tục, tiêu cực khó kiểm soát về lễ hội đã đặt ra phải có sự nhìn nhận, đánh giá thực tế để xây dựng chương trình hành động trong việc bảo tồn văn hóa truyền thống. 6. Phương pháp nghiên cứu 6.1. Phương pháp quan sát tham dự, phỏng vấn sâu Trong quá trình quan sát, tham dự chúng tôi tiếp cận với các hoạt động trong quá trình triển khai tổ chức lễ hội. Từ việc chuẩn bị triển khai lễ hội cho 7 đến các nghi lễ, các sinh hoạt văn hóa, trò chơi dân gian và hoạt động vui chơi, giải trí của cộng đồng. Trong đó chúng tôi tiến hành gặp gỡ, trao đổi, phỏng vấn cộng đồng đặc biệt là già làng, trưởng bon, lãnh đạo chính quyền xã, huyện, tỉnh vì họ là những cán bộ quản lý, tổ chức, người con của bon làng và thực hành lễ hội. Với việc tham gia lễ hội, tôi là cán bộ công tác lâu năm trong ngành văn hóa, là người sống và làm việc ở địa phương được quan sát nhiều lễ hội, chứng kiến quá trình tổ chức chúng tôi đã ghi hình, ghi âm, ghi chép, cụ thể thời điểm nơi hành lễ và hoạt động lễ hội. Bên cạnh đó, là những cuộc phỏng vấn sâu với các đối tượng có chủ đích, nhất là cộng đồng. Tuy nhiên, tôi cũng gặp những khó khăn do phần lớn nghệ nhân cao tuổi, không nói rành tiếng phổ thông, nghệ nhân giỏi đã mất; thế hệ sau chưa tiếp nhận hết những tinh túy của văn hóa truyền thống. Với nguồn tư liệu này sẽ là cơ sở quan trọng để giúp chúng tôi nhận diện rõ hơn về quá trình hình thành, quá trình tổ chức và thực hành lễ hội với những thay đổi trong bối cảnh phát triển kinh tế xã hội như hiện nay, đặc biệt là bảo tồn văn hóa truyền thống của cư dân M’Nông. 6.2. Nghiên cứu tư liệu đã xuất bản Tư liệu liên quan đến đề tài rất quan trọng, giúp cho việc nghiên cứu được thuận lợi có hệ thống, có cơ sở, cứ liệu để dẫn chứng, tham khảo. Trước khi tiến hành nghiên cứu thực tế, các lễ hội được tổ chức tại huyện Krông Nô với các đối tượng khác nhau với các bon làng trong cộng đồng, chúng tôi đã tiến hành tìm kiếm các tài liệu, công trình đã công bố, thu thập thông tin, phân loại, sắp xếp, phân tích các kết quả nghiên cứu, trong đó bao gồm các sách chuyên khảo, các tài liệu thống kê, các báo cáo, các đề tài khoa học, các dự án từ trung ương đến địa phương, các tác giả trong và ngoài nước liên quan đến đề tài. Nguồn tài liệu này có 3 lĩnh vực cơ bản mà chúng tôi đã sắp xếp, chuẩn bị. 8 - Các tài liệu nghiên cứu về lễ hội truyền thống của người M’Nông Preh ở huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông nói riêng và nghiên cứu lễ hội cộng đồng M’Nông của Tây Nguyên nói chung. - Các tư liệu nghiên cứu về sự thay đổi của sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo liên quan đến lễ hội và sinh hoạt cộng đồng của người M’Nông Preh ở huyện Krông Nô. Và đặc biệt là nguồn tài liệu về Tây Nguyên của các học giả chuyên sâu nói về sự thay đổi của xã hội Tây Nguyên nói chung và cộng đồng M’Nông Preh nói riêng liên quan đến sinh hoạt cộng đồng, đặc biệt là lễ hội. - Các tài liệu về lý thuyết có liên quan đến nghiên cứu lễ hội truyền thống. 6.3. Mô tả Dựa trên những thông tin thu thập từ nghiên cứu điền dã và xử lý trên phần mềm máy tính về những tài liệu, các cuộc phỏng vấn, kể cả hình ảnh, băng hình. Luận án sẽ mô tả chi tiết các địa điểm các bon làng tổ chức lễ hội và một số sinh hoạt cộng đồng trong việc tổ chức lễ hội, tác giả sẽ bám sát vào thực tế những hình thức sinh hoạt cộng đồng thực hành nghi lễ trong lễ hội ở các bon làng với việc mô tả hết sức tỉ mỉ, nơi tổ chức lễ hội, thực hành nghi lễ và sinh hoạt cộng đồng, vui chơi giải trí và các trò chơi dân gian trong lễ hội để làm rõ được sự giống và khác nhau về cơ bản của một số lễ hội, giữa các bon làng; đồng thời, cho người đọc có cái nhìn cận cảnh có hệ thống về quá trình tổ chức các sinh hoạt cộng đồng, có những sự thay đổi của lễ hội trong xã hội đương đại. 6.4. Phân tích diễn giải so sánh Việc lý giải phân tích việc thay đổi hiện nay trong quá trình tổ chức lễ hội truyền thống của người M’Nông Preh ở huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông trên nhiều nguồn thông tin khác nhau: 9 Thứ nhất, phân tích các quan điểm của Đảng và Nhà nước về hoạt động lễ hội từ năm 1986 đến nay. Thứ hai, phân tích những quan điểm học thuật của những học giả đi trước về những vấn đề tổ chức lễ hội, tín ngưỡng và sinh hoạt cộng đồng có ảnh hưởng đến sinh hoạt lễ hội, đặc biệt là những năm sau giải phóng miền Nam thống nhất đất nước năm 1975, những năm 2000 thời điểm Tây Nguyên có những biến chuyển dữ dội như: di dân tự do, hoạt động mạnh của tôn giáo, mở rộng sản xuất phát triển kinh tế, trồng cây công nghiệp, xung đột về đất đai. Thứ ba, phân tích những luận điểm khoa học và lý thuyết đề tài. Thứ tư, tìm hiểu và phân tích, lý giải của cộng đồng trong việc tổ chức và bảo tồn văn hóa truyền thống nhất là lễ hội, đặc biệt là vào thời điểm phục hồi sau những năm dài không tổ chức lễ hội. Thứ năm, dựa vào các cuộc phỏng vấn, các băng ghi hình, ảnh chụp với việc kết hợp đa dạng những tài liệu điền dã, những tâm tư, tình cảm của cộng đồng bon làng, các quan điểm học thuật giúp cho việc phân tích, lý giải những vấn đề nghiên cứu một cách khoa học để từ đó đưa ra những kết quả nghiên cứu mới. 7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài - Trên cơ sở cái nhìn tổng quát về lễ hội truyền thống của người M’Nông Preh huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông và việc phục hồi trong xã hội đương đại của một loại hình sinh hoạt văn hóa nguyên hợp; nó thể hiện thế giới quan, nhân sinh quan của cộng đồng M’Nông Preh, luận án góp phần tìm hiểu tư tưởng, nguyện vọng của cộng đồng trong điều kiện xã hội mới. - Góp phần vào việc nhận thức của chủ thể văn hóa, của xã hội về nguy cơ của một loại hình văn hóa đang bị mai một, từ đó thay đổi cách nhìn, ý thức trong bảo tồn văn hóa truyền thống. 10 - Từ cơ sở lý thuyết của đề tài ứng dụng vào thực tế của địa phương nhằm phục hồi lễ hội truyền thống theo tâm nguyện của cộng đồng và chính quyền địa phương. 8. Bố cục luận án Ngoài Mở đầu (13 trang), Kết luận (4 trang), Tài liệu tham khảo (17 trang), Phụ lục (31 trang), nội dung luận án chia làm 3 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận (42 trang) Chương 2: Phục hồi lễ hội truyền thống của người M’Nông Preh ở huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông (69 trang) Chương 3: Nhận định về sự phục hồi lễ hội truyền thống trong xã hội đương đại (58 trang) 11 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài Trường Sơn - Tây Nguyên là vùng văn hóa đa dạng, phong phú, trong đó văn hóa M’Nông là một trong những chủ thể nền văn hóa đã cuốn hút nhiều nhà nghiên cứu. Trước năm 1954, những công trình nghiên cứu liên quan đến người M’Nông phần lớn là của một số học giả người Pháp. Trước hết phải nói đến H. Bernard với tác phẩm: Những cư dân mọi ở Đắk Lắk; Henri Maitre với khảo cứu đồ sộ Rừng người Thượng: Vùng rừng núi cao nguyên miền Trung Việt Nam. Có thể nhận thấy các công trình này chủ yếu phác thảo và giới thiệu khái quát về người M’Nông trong cộng đồng các dân tộc thiểu số cao nguyên miền Trung Việt Nam; chủ thể văn hóa của những vùng cao nguyên rộng lớn này. Sau năm 1954, có một số công trình nổi bật như Minority group in the Republic of Viet Nam (Các nhóm thiểu số ở Việt Nam cộng hòa) (Shrock II and others) hay Son of the mountains; Ethnohistory of the Vietnamese Central Highlands to 1954 (Những người con của núi rừng: lịch sử tộc người ở Cao Nguyên Việt Nam đến năm 1954). Đáng chú ý là công trình của G. C. Hickey Free in the forest: Ethnohistory of the Vietnamese Central Highlands 1954 1976 (Tự do trong rừng: lịch sử tộc người ở Cao Nguyên Việt Nam 19541976)... Đặc biệt là công trình nghiên cứu về người M’Nông Gar của Georges Condominas Nous avons mangé la forêt xuất bản năm 1974 lần đầu tiên ở Pháp. Vào năm 2003 và năm 2008 Ở Việt Nam, công trình được Nhà xuất bản Thế giới ấn hành với tựa đề Chúng tôi ăn rừng đá - Thần Gôo và tiểu tựa (Hii saa Brii Mau-Yaang Gôo), Biên niên sử về làng Sar Luk của người M’Nông Gar (Bộ tộc tiền Đông Dương trên cao nguyên miền Trung Việt Nam). Bên cạnh đó, với cách tiếp cận liên ngành xã hội học, dân tộc học và ngôn ngữ học 12 Georges Condominas đã rất thành công trong các bài biên khảo ở Việt Nam và Đông Nam Á từ năm 1953 đến năm 1976 được ấn hành năm 1978 với tên gọi L’Espace social. A propos de l’Asie du Sud-Est, cho đến năm 1997 công trình này được dịch ra bản tiếng Việt với tựa đề Không gian xã hội vùng Đông Nam Á được đánh giá khá cao, là tư liệu khảo cứu có giá trị. Trước năm 1975, những học giả, nhà khoa học ở miền Nam Việt Nam cũng có một số công trình nghiên cứu về người M’Nông như Đồng bào các sắc tộc thiểu số Việt Nam; nguồn gốc và phong tục (1970) của Nguyễn Trắc Dĩ; một số bài báo của Nghiêm Thẩm in trên Nguyệt san Quê Hương năm 1961 như: “Tìm hiểu đồng bào Thượng”,“Nền kinh tế của đồng bào Thượng Trung nguyên Trung phần”; hay một số bài “Phong quang tỉnh Đắk Lắk” (Hồ Xuân Đàm, 1969); “Đồng bào sơn cước tại Việt Nam cộng hòa” (Lê Đình Chi, 1972); “Việt Nam chí lược: Cao nguyên miền Thượng” (1974) của Cửu Long Giang- Toan Ánh… Những công trình nghiên cứu văn hóa tộc người M’Nông vào thời điểm trước năm 1975 đã có sự chú ý đầu tư, nhưng người M’Nông được đề cập chỉ mang tính khái lược và giới thiệu chưa có tính chuyên sâu và hàm lượng khoa học còn hạn chế. Sau năm 1975, với sự quan tâm và tập trung của các nhà khoa học, cơ quan nghiên cứu, đặc biệt là Viện Dân tộc học, người M’Nông đã được đề cập chuyên sâu trong các công trình khoa học. Tiêu biểu là công trình: Các dân tộc ít người ở Việt Nam - các tỉnh phía Nam (1984) của Viện Dân tộc học; Phong tục tập quán các dân tộc Việt Nam (1999) của nhóm tác giả Hoàng Văn Trụ, Đặng Văn Lung, Sông Thao; Lưu Hùng với Văn hóa cổ truyền Tây Nguyên (1996); Văn hóa các dân tộc Tây Nguyên, thực trạng và những vấn đề đặt ra (2004) do Trần Văn Bính chủ biên; Công trình Những khía cạnh của văn hóa dân gian M’Nông Noong (2001) của Đỗ Hồng Kỳ; Văn hóa, xã hội và con người Tây Nguyên (2007) Nguyễn Tấn Đắc; Những mảng màu văn 13 hóa Tây Nguyên (2007) của Ngô Đức Thịnh… Đây là những công trình nghiên cứu có đầu tư với hàm lượng khoa học cao về người M’Nông, khái quát về tộc người với những đặc điểm chung về dân số, địa bàn cư trú, đời sống vật chất, tinh thần; trong đó đã khảo tả tương đối cụ thể về văn hóa của tộc người M’Nông đề cập đến lễ hội của cư dân bản địa. Ngoài ra còn có nhiều bài báo trên các tạp chí chuyên ngành nghiên cứu một vài khía cạnh cụ thể trong đời sống văn hóa xã hội và lễ hội của cộng đồng M’Nông. Với những nghiên cứu chuyên sâu về văn hóa dân gian M’Nông và có nội dung liên quan đến luận án, chúng tôi phân thành hai nhóm vấn đề sau: * Những công trình nghiên cứu về văn hóa M’Nông Việc nghiên cứu lễ hội truyền thống người M’Nông Preh tỉnh Đắk Nông, kể cả những công trình nghiên cứu chuyên sâu về người M’Nông còn hạn chế. Những công trình bài viết của các tác giả, nhà nghiên cứu chủ yếu đề cập đến đời sống tinh thần của cư dân M’Nông, trong đó có tộc người M’Nông Preh được tập hợp trong nhóm này để có cái nhìn chung, nhằm đánh giá toàn diện về sinh hoạt văn hóa tinh thần của người M’Nông. Địa phương chí tỉnh Quảng Đức do Tòa hành chính tỉnh Quảng Đức phát hành năm 1960 sau khi đơn vị hành chính tỉnh Quảng Đức được thành lập theo Sắc lệnh số 24 NV ngày 23/01/1959 của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ký; toàn tỉnh có 03 quận gồm: Khiêm Đức, Kiến Đức và Đức Lập với 215 buôn Thượng của các sắc dân M’Nông, Mạ, Ê Đê, K’ho, dân tộc Thượng ở tỉnh Quảng Đức chiếm gần 2/3 dân số toàn tỉnh, khoảng 20.000/30.792 người, trong đó Bộ lạc M’Nông chiếm đa số. Tuy nhiên, về phía Bắc quận Đức Lập có một số người M’Nông Preh tiến bộ hơn. Về việc sản xuất, đồng bào Thượng chuyên sống về nông nghiệp họ không biết cày cấy như đồng bào Kinh mà chỉ biết chuyên làm rẫy trên các ngọn đồi. 14 Về phong tục tập quán, cũng như đồng bào Thượng thuộc các Bộ lạc khác, Bộ lạc M’Nông và Mạ trong tỉnh có phong tục, tập quán rất phức tạp nặng tính chất mê tín dị đoan. Về tín ngưỡng, đồng bào Thượng tại tỉnh Quảng Đức không theo tôn giáo nào mà trái lại thờ nhiều thần: thần trời, thần đất, thần nông, thần núi, thần lửa. Tuy nhiên, họ tín ngưỡng trên các vị thần ấy có một vị thần nhân là Đấng tối cao như thượng đế vậy, do tin tưởng nhiều thần nên đồng bào Thượng thường cúng tế quanh năm. Địa phương chí tỉnh Quảng Đức là một tài liệu có giá trị, tuy mang tính khái lược giới thiệu về mảnh đất và con người nơi đây nhưng cho thấy bức tranh tương đối toàn diện về đời sống của cộng đồng các dân tộc tại chỗ với những số liệu cơ bản làm cơ sở để đối chiếu nghiên cứu, đóng góp một phần tư liệu trong tài liệu nghiên cứu về Đăk Nông. Năm 1966, Bộ Quân lực Hoa Kỳ đã công bố công trình Minoroty group inder Rubulist of Viet Nam - các nhóm thiểu số ở Việt Nam Cộng hòa. Công trình này nằm trong chương trình nghiên cứu về các dân tộc ở Việt Nam được miêu tả qua hơn 50 trang và chia thành 12 phần, bên cạnh việc giới thiệu về các tộc người thiểu số ở Việt Nam, đặc biệt là ở Tây Nguyên thì công trình này còn giới thiệu tương đối toàn diện về người M’Nông từ đặc điểm nhân chủng đến ngôn ngữ, nguồn gốc tộc người; đặc biệt là văn hóa, tập quán, những cấm kị trong sinh hoạt tín ngưỡng. Trên cơ sở giới thiệu về đời sống văn hóa cộng đồng có đề cập đến sinh hoạt tín ngưỡng và lễ hội, trong đó giới thiệu một số nghi lễ quan trọng gắn liền với đời sống cư dân bản địa. Mặc dù giới thiệu hết sức khái quát nhưng tư liệu đã giúp cho người nghiên cứu có thêm những cơ sở để nhận định và đánh giá cơ bản về người M’Nông. Đại cương về các dân tộc Ê Đê, M’Nông ở Đắk Lắk, năm 1982, Sở Văn hóa, Thông tin Đắk Lắk xuất bản do Bế Viết Đẳng chủ biên. Cũng như các công trình nghiên cứu khác, các tác giả đề cập vấn đề phân bố dân cư, thành 15 phần dân tộc, đặc điểm nhân chủng của hai dân tộc bản địa M’Nông và Ê Đê. Trong phần thứ 3 của công trình này đã tập trung trình bày những phong tục tập quán và nghi lễ của hai tộc người M’Nông và Ê Đê. Tuy nhiên, những giới thiệu này chỉ mang tính khái quát; tác giả Vũ Đình Lợi chỉ mong muốn giới thiệu một vài hình ảnh cơ bản về sinh hoạt văn hóa cộng đồng của người M’Nông và Ê Đê mang tính gợi mở, cho những định hướng nghiên cứu sâu hơn để sau này các tác giả tiếp tục nghiên cứu về hai tộc người nói trên. Năm 2007, tác giả Trương Bi cho ra mắt công trình Văn hóa mẫu hệ M’Nông, đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu về một lĩnh vực của cư dân M’Nông. Tuy nhiên, việc nhận định, đánh giá và phân tích về văn hóa mẫu hệ M’Nông từ gia đình, dòng họ cho đến cộng đồng trong các mối quan hệ xã hội phức tạp. Bên cạnh đó, các hoạt động xã hội, các hoạt động cộng đồng như tín ngưỡng, lễ hội của người M’Nông là cơ sở để chi phối về loại hình văn hóa đặc biệt này. Tác giả Trương Bi đã nhấn mạnh dấu ấn thiết chế mẫu hệ trong đời sống cộng đồng M’Nông xưa và nay, như một mặt để khẳng định những giá trị văn hóa đó đã làm nên nền tảng đời sống cộng đồng và duy trì cho đến ngày nay; mặt khác tác giả đã cung cấp cho bạn đọc, những người nghiên cứu những kiến thức bổ ích. Công trình Phong tục tập quán cổ truyền của một số dân tộc thiểu số Tây Nguyên (2007) nhà xuất bản Văn hóa dân tộc của tác giả Ngô Đức Thịnh, Lê Văn Kỳ. Tuy chỉ tập trung nghiên cứu phong tục tập quán của tộc người Ê Đê và M’Nông nhưng cho thấy sự đóng góp mới của lĩnh vực nghiên cứu đã có một số tác giả đề cập với sự thuận lợi của Viện Văn hóa lúc bấy giờ, hai tác giả đã có dịp tiếp cận và nghiên cứu sâu về hai tộc người có một nền di sản văn hóa hết sức độc đáo và phong phú. Qua công trình nghiên cứu đã cho thấy các hoạt động sinh hoạt văn hóa cộng đồng, trong đó có các phong tục, tập quán và sinh hoạt lễ hội, nghi lễ có những lý giải sâu sắc và nhiều kết luận
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan