Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Lập luận trong tiểu phẩm trào phúng (trên cứ liệu tiếng việt)...

Tài liệu Lập luận trong tiểu phẩm trào phúng (trên cứ liệu tiếng việt)

.PDF
262
650
120

Mô tả:

ỐC GIA TH ÀNH PH Ố HỒ CH ĐẠ ĐẠII HỌC QU QUỐ THÀ PHỐ CHÍÍ MINH ƯỜ NG ĐẠ ÂN VĂN TR TRƯỜ ƯỜNG ĐẠII HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NH NHÂ ------------ � � � ------------ TRẦN TRỌNG NGHĨA ẬN LẬP LU LUẬ ỂU PH ẨM TR ÀO PH ÚNG TRONG TI TIỂ PHẨ TRÀ PHÚ (Trên cứ liệu tiếng Việt) ẬN ÁN TI ẾN SĨ NG Ữ VĂN LU LUẬ TIẾ NGỮ ữ Chuy Chuyêên ng ngàành : Lí lu luậận ng ngôôn ng ngữ Mã số : 62220101 ng dẫn: Tập th thểể hướ ướng 1. GS.TS. Nguyễn Đức Dân 2. TS. Trần Văn Tiếng Cán bộ phản bi biệện độ độcc lập: PGS.TS. Lê Khắc Cường PGS.TS. Bùi Mạnh Hùng ng ch ấm lu ận án cấp Tr ườ ng: Cán bộ phản bi biệện Hội đồ đồng chấ luậ Trườ ường: Phản biện 1: PGS.TS. Lê Khắc Cường Phản biện 2: PGS.TS. Bùi Mạnh Hùng Phản biện 3: PGS.TS. Phạm Văn Tình ành ph Th Thà phốố Hồ Ch Chíí Minh Minh,, năm 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận án này là công trình của riêng tôi. Tôi xin chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của luận án. Tác giả Trần Trọng Nghĩa 1 MỤC LỤC ẬP DẪN NH NHẬ Trang 1. Lí do chọn đề tài 7 2. Lịch sử vấn đề 7 3. Nhiệm vụ nghiên cứu 13 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 14 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 15 6. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu 15 7. Bố cục của luận án 18 ươ ng 1. CƠ SỞ LÍ LU ẬN Ch Chươ ương LUẬ 1.1. Lập luận thông thường 19 1.1.1. Lập luận theo diễn từ chuẩn mực 19 1.1.2. Lập luận trong ngôn ngữ 20 1.1.2.1. Lẽ thường 21 1.1.2.2. Tiền giả định và hàm ý 22 1.1.2.3. Tác tử và kết tử lập luận 23 1.2. Lập luận trào phúng 27 1.2.1. Khái niệm và nguồn gốc trào phúng 27 1.2.2. Yếu tố hài hước (trào) trong lập luận 28 1.2.3. Yếu tố châm biếm – mỉa mai (phúng) trong lập luận 35 1.2.4. Ranh giới mờ giữa mỉa mai và châm biếm 37 1.2.5. Yếu tố văn hóa – tri thức nền 45 1.3. Tiểu kết 50 ươ ng 2. LÍ LẼ VÀ VAI TR Ò CỦA NG ÔN NG Ữ TRONG Ch Chươ ương TRÒ NGÔ NGỮ ẬN TR ÀO PH ÚNG LẬP LU LUẬ TRÀ PHÚ 2.1 Lí lẽ - cơ sở của lập luận 51 2.2 Lí lẽ trong lập luận trào phúng 55 2.2.1. 55 Cơ sở của lí lẽ trào phúng 2 2.2.2. Hai chức năng của lí lẽ trong lập luận trào phúng 58 2.2.3. Quy tắc giải mã lập luận trào phúng 66 2.2.3.1. Xác định điểm quy chiếu 67 2.2.3.2. Xác lập các topos mới 69 2.2.3.3. Hiểu lại nghĩa của lập luận 70 2.3. Phân loại lí lẽ trong lập luận trào phúng 71 2.3.1. Ngộ biện 72 2.3.2. Ngụy biện 77 2.3.3. Lí lẽ ngược 87 2.4. Vai trò của ngôn ngữ trong lập luận trào phúng 91 2.4.1. Trào phúng được mô tả bằng ngôn ngữ 91 2.4.2. Trào phúng do chính bản thân ngôn ngữ 93 2.5. Một số đặc điểm trào phúng riêng trong tiếng Việt 102 2.5.1. Những thủ pháp lập luận phổ biến 102 2.5.2. Vận dụng những đặc điểm ngôn ngữ của tiếng Việt 105 2.6. Tiểu kết 110 ươ ng 3. PH ƯƠ NG TH ỨC LẬP LU ẬN VÀ CHI ẾN LƯỢ C Ch Chươ ương PHƯƠ ƯƠNG THỨ LUẬ CHIẾ ƯỢC ỆU QU Ả TRONG TI ỂU PH ẨM TR ÀO PH ÚNG GÂY HI HIỆ QUẢ TIỂ PHẨ TRÀ PHÚ 3.1. Nguyên tắc thuyết phục trong lập luận 112 3.2. Phương thức lập luận cơ bản trong tiểu phẩm trào phúng 115 3.2.1. Phương thức gài bẫy 119 3.2.2. Phương thức suy luận tương tự 122 3.2.3. Phương thức sao phỏng 124 3.2.4. Phương thức quy nạp 127 3.2.5. Phương thức định nghĩa 129 3.2.6. Phương thức chơi chữ 131 3.2.7. Phương thức hỏi – lập luận 135 3.3. Một số chiến lược tạo hiệu quả lập luận trong TPTP 144 3 3.3.1. Xây dựng các cặp kịch bản ngữ nghĩa 145 3.3.2. Tạo thông tin dư 149 3.3.3. Lập luận vòng quanh 150 3.4. Một số thủ thuật lập luận trào phúng 152 3.4.1. Thủ thuật tách khỏi 153 3.4.2. Thủ thuật phản đối xứng 154 3.4.3. Thủ thuật đảo ngược 155 3.4.4. Thủ thuật sử dụng yếu tố trung gian 156 3.4.5. Thủ thuật đồng nhất các sự kiện 158 3.5. Tiểu kết 160 ẬN KẾT LU LUẬ 161 ỆU THAM KH ẢO DANH MỤC TÀI LI LIỆ KHẢ 166 Ả DANH MỤC CÔNG TR TRÌÌNH CỦA TÁC GI GIẢ Ụ LỤC PH PHỤ Ụ LỤC 1 PH PHỤ Ụ LỤC 2 PH PHỤ 4 C TR Ậ N ÁN MỘT SỐ QUY ƯỚ ƯỚC TRÌÌNH BÀY TRONG LU LUẬ → dẫn đến >< chỉ mối quan hệ tương phản CCCTN Cái cười của Thánh nhân CN Công nguyên L lí lẽ PPWB Plato and a Platypus Walk into a Bar (Plato và con thú mỏ vịt bước vào quán bar) TCDGVN Tiếng cười dân gian Việt Nam TCTG Tiếng cười thế giới TTC, 232… báo Tuổi trẻ cười số 232… TPTP tiểu phẩm trào phúng Tr.CN trước công nguyên tuoitrecuoi báo Tuổi trẻ cười (online) vnexpress báo Tin nhanh Việt Nam (online) 24h báo 24h (online) 5 ẾU THU ẬT NG Ữ DÙNG TRONG LU ẬN ÁN BẢNG ĐỐ ĐỐII CHI CHIẾ THUẬ NGỮ LUẬ Ti Tiếếng Vi Việệt Ti Tiếếng Anh Trang ẩn dụ metaphor 7,17,65,123 bộ kích hoạt ngữ nghĩa semantic trigger 9,69,131,132,133,134 bộ chuyển mạch switch 9,131,133 5-9,22,23,29,30,31,32,34,37,38,45,49,56,58,61,62,67,68,71,81,83, 84,89,95,96-102,105,108,109,111,112,117,122-124,126,129,136- châm biếm satire chơi chữ pun 25,90,94,102,103,104,107,108,124,125,126,129,130,159,160 chuyện cười joke/jest 10,30,31,34,75,115,132,133,134,135,146 cơ chế mechanism 11,18,80,120,126 điểm nhìn point of view 18 138,144,153-155,157 6,7,9,10,15,16,23,24,26-28,33,38-9,41,45,48,54,67,69,72-74,82, 84-5,94-5,97,100,107,110,112,114,118,121,124,126,127-8,130,137, hài hước humour/humor hàm ý implicature hiển ngôn explicit 7,17,46,53,65,66,67,107 hoán dụ metonymy 17,65 hội thoại conversation 16,30,87,109,128,157 kết tử connector 10,18,20-3,49,50 khoa trương (ngoa dụ) hyperbole 23,100,128 kịch bản ngữ nghĩa the semantic script 38,139-142,152,157 alienation 116,117,119,155,161,166 140,143,144-6, 148,151-5,160 5,7-9,16-9,21-2,25,30,33,42,48-51,53,57,59,64,69-71,81,84,87-9, 91,99,100,108-9,114,123-4,127,131-4,137,139,155,160 / lạ hóa automatization lập luận argumentation de- 5,8-15,18-20,22,25,27,28-8,35,37,44,46-50,53-4,57,60-6, 79,82, common 83,86,96,139,143-6,148-50,152,154-7 sense/ 16,30,37,44,46-9,53,58-9,63,74,81,87,95,99,107,116,120,122,136 140,144,150,153-5. lẽ thường topos lí lẽ argument/reasoning mỉa mai hiển ngôn explicit irony 7 mỉa mai bằng lời nói verbal irony 6,35 5,9,10,11,13,14,16,20,21,44,46-8,50-8,60-1,66-7,69-75,79-83,96-8, mỉa mai bằng tình situational irony 100,107-8,110,112,114,116,119-121,124-5,135,150,151-2,155-6 6 6 huống nghịch ngữ oxymoron; paradox 54,71,81,109, ngữ cảnh context 19,2732-3,38,43,45,50,65,67,87,109,145,151 ngữ dụng học pragmatics 9,10,14,44,153 nói mỉa/mỉa mai irony nói nhại/giễu nhại parody 82,129,130 (phép) lịch sự politeness 8,26,33,67,137,139,157 (phép) tu từ rhetorical figures 9,17,35,81,91 5,6,22-3,30-8,44-5,49,50,58,61,70,81,89,96,98,104,107,109,111,122 maxims 123,126,130,136,150,152-4 of 35,130,131 phương châm hội thoại conversation quy chiếu refer to, reference 62,63,67,68,154 sự chỉ trích criticism 23,30,35,45,67,112,123,130,154 tác tử factor 10,18,19,22,49,50 tiền giả định presupposition 17,18,22,37,51,57,64-6,87,89 tiểu phẩm/chuyện cười joke trái nghĩa antonymy 50 trải nghiệm experience 42-3,63,65,119,142 7,13,14,16,17,18,20,30,33,62,63,74,75,76,84,85,87,88,89,90,95,99,102, 114,116,117,118,120,121,122,142,143,146,148,152,156,159,161,163,164 5,6,8-13,22-3,26,31-2,34-7,39,45-7,50,53,58,61-3,65-7,71-2,79, 82-4,87,89,90-1,95-7,100-2,104,107-112,117,123-4,130-1,133-4, trào phúng satire/sarcasm tri nhận cognitive/cognition 15, 34, 40, 61 tri thức nền basic knowledge 28,34,40-2,44,64-5,142,154 trường nghĩa the semantic field 26,48,56,71,94,95 trường liên tưởng the associated field 43-4,93,95,154 truyện cười funny story tu từ học rhetoric 35-6 văn cảnh/ngữ cảnh co-text 19,27,32-3,38,44,46,50,63,65,67,87,109,145,151 139,142-5,149,151-7 12,13,15,16,17,24,29,31,44,46,47,48,54,56,65,69,75,78,92,93,94,104,115 ,116,117,120,145,146,169 7 ẬP DẪN NH NHẬ 1. Lí do ch chọọn đề tài Trào phúng bằng ngôn ngữ là một phạm trù phức tạp và đặc biệt thú vị. Việc giải mã trào phúng chủ yếu dựa trên các nguyên tắc lập luận là để chạm đến ý nghĩa ẩn sâu bên dưới lớp bề mặt ngôn từ. Trào phúng còn là phương tiện đả kích mạnh mẽ nhưng lại có ý nghĩa xây dựng sâu sắc và hiệu quả cao. Luận án ‘Lập luận trong tiểu phẩm trào phúng’ nghiên cứu những lập luận có chứa chất trào phúng, nhằm mục đích châm biếm, mỉa mai, phê phán đả kích những cái xấu trong xã hội. Chúng tôi gọi tên chung cho cả ba khái niệm trên là biếm dụ. Người Việt trọng đạo lí, trọng thể diện và đề cao yếu tố tế nhị trong giao tiếp nên trong ngôn ngữ hằng ngày, các kiểu nói có hàm ý chiếm một tỉ lệ rất lớn; đặc biệt là lối nói mỉa mai, châm biếm, nói gần nói xa, nói vậy chứ không phải vậy, nói vòng,.. sử dụng hình tượng liên tưởng làm cho hiệu quả giao tiếp được đẩy lên tới mức tinh tế. Như vậy, việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa cả về mặt lí thuyết và thực tiễn trong nói năng hài hước hàng ngày, trong giảng dạy và nghiên cứu tiếng Việt. 2. Lịch sử vấn đề Trào phúng - nội hàm của nó chứa đựng hai phạm trù có quan hệ mật thiết, không thể tách rời; bao gồm phần gây cười, tức hài hước (humor) và phần phê phán, tức châm biếm (satire), mỉa mai (irony). Luận án lần lượt giới thiệu tổng quát về lịch sử nghiên cứu thành hai vấn đề. Thứ nhất là phạm trù hài hước: Từ thời cổ đại đến nay đã có rất nhiều lí thuyết về hài hước và những cố gắng để giải thích hài hước là gì, nó đảm nhiệm các chức năng xã hội nào, và những gì được coi là hài hước. Trong số các loại phổ biến, có những lí thuyết về tâm lí, phần lớn trong số đó xem sự hài hước là hành vi rất lành mạnh. Các giả thuyết mang tính tâm linh xem sự hài hước là một món quà của Chúa. Cũng có giả thuyết cho rằng hài hước là một bí ẩn không thể giải thích, nó giống như một trải nghiệm thần bí, như trong cuốn The Planet without laughter, 1980 (Hành tinh không có tiếng cười) của Raymond Smullyan. Mặc dù đã có nhiều lí 8 thuyết cổ điển khác nhau luận giải về hài hước, nhưng về sau vẫn tiếp tục ra đời những quan niệm mới. Ba quan điểm được nhắc đến nhiều là: Lí thuyết về sự giải tỏa (Relief theory), Lí thuyết về ưu thế vượt trội (Superiority theory) và Lí thuyết về sự phi lí (Incongruity theory). Giới nghiên cứu không đạt được sự đồng thuận về lí thuyết nào là tối ưu. Tuy nhiên, họ thừa nhận rằng nhiều trường hợp hài hước có thể phải vận dụng, phối hợp một số lí thuyết khác nhau để giải thích mới thỏa đáng. Lí thuyết về sự giải tỏa, tiêu biểu là hai tác giả: John C. Meyer, trong công trình Humor as a double-edged sword, 2000 (Hài hước như một con dao hai lưỡi), trình bày bốn chức năng của hài hước trong giao tiếp; và Daniel Ellis Berlyne trong công trình Humor and its kin, 1972 (Hài hước và các quan hệ họ hàng của nó). Lí thuyết này cho rằng hài hước là một cơ chế cân bằng, làm giảm căng thẳng tâm lí. Tiếng cười và sự vui vẻ, theo lí thuyết về sự giải tỏa, là giải pháp hữu ích để khắc phục những ức chế về thần kinh, vượt qua sự kiềm chế của các chế định văn hóa xã hội và bộc lộ những ham muốn, khát vọng bị đàn áp, bị dồn nén. Lí thuyết về ưu thế vượt trội là quan điểm về hài hước của Plato và Aristotle, và sau này là Thomas Hobbes. Nhìn chung, con người cười về những bất hạnh, những yếu kém của người khác (gọi là khoái cảm), vì những thứ đó khẳng định ưu thế vượt trội của người cười. Lí thuyết về sự phi lí cho rằng, hài hước được cảm nhận tại thời điểm mà một người nhận ra sự phi lí giữa một khái niệm cố hữu với một sự kiện thực tế của nó nhưng giữa chúng lại chẳng có chút liên quan gì. Francis Hutcheson trình bày trong cuốn Thoughts and laughter, 1725 (Ý thức và tiếng cười), cái cười trong biếm họa, về bản chất là một phản ứng khi tiếp nhận một điều phi lí. Arthur Schopenhauer, nhà triết học Đức đã viết rằng những điều phi lí là nhận thức giữa các quan niệm phổ biến và cái thực tế xa lạ mà nó đại diện. Hegel, trong các công trình nghiên cứu có liên quan đến hài hước cũng đã chia sẻ gần như chính xác quan điểm này. Tuy nhiên, các phiên bản nổi tiếng nhất của lí thuyết phi lí lại là của Kant, người tuyên bố rằng “biếm họa là sự chuyển đổi đột ngột từ một kỳ vọng quá mức sang trạng thái trống rỗng." Henri Bergson trong cuốn Le rire, 1900 (Tiếng cười), cố gắng 9 hoàn thiện thuyết phi lí bằng cách hạn định nó thành các khái niệm "living" (sống động) và "mechanical" (máy móc). Bergson cho rằng hài hước xuất hiện do mâu thuẫn giữa cái sống động của cuộc sống và cái máy móc trong một số hành vi con người. Humor thường chứa một bất ngờ, sự đột ngột, sự thay đổi trong nhận thức; điều này đã được lí thuyết phi lí trình bày thấu đáo. Quan điểm này cũng được hai tác giả Latta (1998) và Brian Boyd (trong bài báo “A play theory of Humor philosophy and literature”, 2004) ủng hộ. Arthur Koestler lập luận rằng, hài hước là kết quả tương tác giữa các khung ngữ nghĩa (semantic frames) khác nhau, các khung ngữ nghĩa này vốn được tạo ra cho sự va chạm đó. Ý tưởng này về sau được Victor Raskin phát triển thành Lí thuyết kịch bản ngữ nghĩa (The script-based Semantic Theory of Humor (SSTH)) được nhiều người trong giới nghiên cứu nhắc đến hoặc trích dẫn trong suốt ba mươi năm qua. Lí thuyết kịch bản ngữ nghĩa (SSTH) được Victor Raskin giới thiệu trong cuốn Semantic Mechanisms of Humor (Những cơ chế ngữ nghĩa của hài hước), xuất bản năm 1985. Tuy là một biến thể của Lí thuyết về sự phi lí (Incongruity theory), nhưng nó là lí thuyết đầu tiên xác định đối tượng khảo sát duy nhất là hài hước bằng ngôn từ (verbal humor). Các kịch bản về ngôn ngữ (The linguistic scripts), hay còn gọi là các khung ngữ nghĩa (semantic frames) được tham chiếu đối với bất kỳ từ ngữ nào được đưa ra; tuy nhiên số lượng các kịch bản ngữ nghĩa được mở rộng hơn nhiều so với nghĩa trên bề mặt từ vựng của một từ hay cụm từ. Hài hước được tạo ra do sự tương tác, đối lập hoặc chồng lấn giữa các cặp kịch bản tương ứng; dưới sự hỗ trợ của các bộ chuyển mạch (switch) và bộ kích hoạt ngữ nghĩa (semantic trigger). Lí thuyết này được chính Raskin và học trò của mình là Salvatore Attardo tiếp tục phát triển thành Lí thuyết tổng quát hài hước bằng ngôn từ (General theory of verbal humor (GTVT)). Lí thuyết tổng quát hài hước bằng ngôn từ (GTVH) ra đời sau SSTH một thập kỷ, nó đã quy chuẩn các nguồn tri thức kiến tạo hài hước thành sáu phạm trù riêng biệt, có tên gọi là Knowledge Resources (KRs). Sự đối lập kịch bản (Script 10 opposition (SO)) - phạm trù nổi bật nhất trong SSTH trở thành một trong sáu phạm trù của SSTH. Các cấp độ của các phạm trù này được Salvatore Attardo trình bày trong cuốn Linguistic Theories of Humor, 1994 (Các lí thuyết ngôn ngữ về hài hước), cụ thể là: 1. Đối lập kịch bản (Script opposition (SO)). 3 Cơ chế logic (Logic Mechanism (LM)). 4 Tình huống (Situation (SI)). 5 Mục tiêu (Target (TA)). 6 Chiến lược kể chuyện (Narrative Strategy (NS)). 7 Ngôn ngữ (Language (LA)). Các phạm trù này dùng để kiến tạo các kiểu chuyện cười khác nhau, đồng thời cũng là căn cứ để phân tích, so sách các mức độ tương đồng và khác biệt giữa các chuyện cười (jokes). Willibald Ruch, một nhà tâm lí học đồng thời là nhà nghiên cứu hài hước của Đức đã làm một số khảo sát thực nghiệm để kiểm chứng lí thuyết này, kết quả ông chỉ thành công một phần. Tuy nhiên, ông cũng khẳng định KRs và những luận điểm trong GTVH là mảnh đất màu mỡ và là nguồn cảm hứng cho giới nghiên cứu. Thứ hai là phạm trù mỉa mai, châm biếm : Phạm trù này cũng đã được giới học thuật quan tâm nghiên cứu và ứng dụng từ rất sớm. Socrates (469-399) một triết gia Hy Lạp cổ đại, được ghi nhận là một nhân vật nổi tiếng với khái niệm Mỉa mai kiểu Socrates (Socratic irony). Ông sử dụng chiến lược truy vấn - vờ như không biết gì và đặt câu hỏi, thật nhiều câu hỏi từ đó làm lộ ra những sai lầm trong lí lẽ của đối phương. Ông đã rất thành công khi mỉa mai những kẻ tự cho là thông thái nhưng thật ngớ ngẩn, sự thật là không hiểu biết gì cả (dẫn theo Nilsen A. & Nilsen D., 2000). Nguyễn Đức Dân, trong bài “Phương pháp hỏi: một nghệ thuật lập luận” [15: 42-47] đề cập phương pháp hỏi như là một cách lập luận hữu hiệu để bác bỏ, để chứng minh chân lí và đặc biệt hỏi để châm biếm. Mỉa mai (irony) được phân lập thành hai loại cơ bản: mỉa mai bằng tình huống (situational irony) và mỉa mai bằng lời nói (verbal irony). Khi nói mỉa, người ta đưa 11 ra một thông điệp bằng ngôn ngữ nhưng ý nghĩa muốn truyền đạt của nó khác hoàn toàn với nghĩa nguyên văn, và trong rất nhiều trường hợp nghĩa của nó ngược lại với nghĩa nguyên văn. Trong lập luận trào phúng luôn tồn tại sự đối lập giữa nghĩa bề mặt ngôn từ với ý nghĩa thật sự mà người nói muốn chuyển tải; đối lập cả nghĩa bề mặt lẫn nghĩa bề sâu. Đây là kiểu mỉa mai truyền thống mà trong rất nhiều các công trình về mỉa mai đã đề cập và xem đây là quan niệm về mỉa mai sớm nhất thuộc về Aristotle. Một kiểu mỉa mai mà Booth trong công trình A rhetoric of irony (Phép tu từ nói mỉa) gọi là stable irony – kiểu mỉa mai thông dụng [99], ông đưa ra ví dụ “What a lovely day!” (thật là một ngày đẹp trời!), tình huống phát ngôn là trong một ngày u ám, mưa bão. Ở đó dụng ý của người nói khá rõ ràng, ý nghĩa thật sự của phát ngôn sẽ là một phép thế từ vựng “đẹp trời” bằng “tồi tệ”. Quan niệm về mỉa mai theo kiểu nói ngược này là một trong những vấn đề trọng tâm của Raskin trong công trình The semantic mechanisms of humor (Những cơ cấu ngữ nghĩa của hài hước)[137]. Trong công trình này tác giả đã bàn về sự đối lập nghĩa ở cấp độ từ vựng trong cùng một diễn ngôn. Ở cấp độ mệnh đề, Meyers trong bài báo “The function of irony in discourse” (Vai trò của mỉa mai trong diễn ngôn), (Meyers R. A., 1981: 411) đã đưa ra ví dụ “I always wanted to spend the summer in Detroit” (Tôi luôn mong muốn được đi nghỉ hè ở Detroit), người phát ngôn trong tình huống anh ta chẳng hề muốn đi nghỉ ở Detroit. Đây là kiểu đối lập phủ định ở cấp độ mệnh đề. Một số nhà ngôn ngữ học cho rằng cả hai ví dụ trên đều cấu thành từ một kiểu mỉa mai đặc trưng, ở đó vừa có nghĩa bình phẩm vừa có nghĩa phàn nàn. Haiman trong công trình Sarcasm as theater (Phép châm biếm là một tuồng kịch) [144:188], luận giải về sự phân biệt giữa châm biếm (sarcasm) và mỉa mai (irony) xuất phát ở chủ đích (intention) của lời nói. Trong khi châm biếm là có chủ đích cụ thể còn mỉa mai thì không cần điều kiện này. “Để mỉa mai, người nói không cần để ý rằng bề mặt ngôn từ hay lời lẽ của anh ta là ‘sai’ mà chỉ cần đối phương nhận diện nghĩa thật sự nó là được. Mỉa mai thường được xem như một dạng của châm biếm, tuy nhiên có một số tác giả dùng hai thuật ngữ này có nghĩa như nhau [95]. Kraufer 12 trong bài “Understanding ironic communication”, 1981 (Sự lĩnh hội cuộc thoại có hàm ý châm biếm mỉa mai) [120], cho rằng có thể sử dụng ẩn dụ tạo ra mỉa mai. Trong trường hợp so sánh ẩn dụ giữa người với sư tử, cọp, thỏ (mạnh như cọp, nhát như thỏ v.v..) tùy theo cấp độ cao hay thấp, dương tính hay âm tính mà nó phản ảnh những quan niệm xã hội khen hay chê. Khi các so sánh này xuất hiện nhiều lần, sẽ có hiện tượng mỉa mai, châm biếm hay hài hước. Trong trường hợp mỉa mai hiển ngôn (là trường hợp trong câu có sử dụng các từ như: mỉa mai thay, một cách mỉa mai v.v.), người nói đã mang đến cho người nghe những thứ mỉa mai hiển ngôn mà không cần suy luận. Ngược lại, trong mỉa mai hàm ngôn, chìa khóa suy luận là yếu tố tối quan trọng để hiểu được sự mỉa mai. Tuy nhiên trong tất cả những ví dụ về irony, cách hiểu của nó còn tùy thuộc vào đối tượng nhận, và không gì có thể đảm bảo rằng người nghe có thể hoàn toàn khôi phục nghĩa một cách trọn vẹn. Điều này khiến các nhà nghiên cứu phải chuyển hướng từ chỗ tập trung chú ý vào đối tượng là chủ thể mỉa mai sang đối tượng nhận mỉa mai. Những công trình trên thường chỉ xem xét từng đối tượng riêng, chưa thấy công trình nào khảo sát bộ ba của trào phúng gồm: mỉa mai, châm biếm và hài hước. Đến năm 2007, Thomas Cathcart và Daniel Klein là những người thành công trong việc nghiên cứu và sáng tạo truyện cười thông qua công cụ triết học. Trong quyển Plato and a Platypus Walk into a Bar… (Plato và con thú mỏ vịt bước vào quán bar…) [143;10], tác giả đã nhận xét: “Kết cấu và yếu tố gây cười của truyện tiếu lâm cũng như kết cấu và kết luận đúc rút từ các khái niệm triết học được tạo nên từ cùng thứ chất liệu. Chúng trêu chọc tâm lí theo cùng một cách. Đó là bởi triết học và tiếu lâm xuất phát từ cùng một thôi thúc: xáo trộn cảm thức của chúng ta về cách mà sự vật hiện hữu, lật ngược thế giới của chúng ta lên, và lôi ra những sự thật bị che giấu, thường là không hay ho gì. Cái mà các triết gia gọi là thấu thị thì các “tiếu gia” gọi nó là châm biếm.” Tại Việt Nam, có một số tác giả đề cập đến vấn đề trào phúng, mỉa mai và châm biếm như: Hoàng Trinh (1997) trong quyển Từ kí hiệu học đến thi pháp học, Đinh Trọng Lạc (2003) trong quyển 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Đỗ 13 Hữu Châu (2003) trong Đại cương ngôn ngữ học (tập 2)... Trương Chính và Phong Châu bàn về tiếng cười trong văn học trào phúng dân gian trong tác phẩm Tiếng cười dân gian Việt Nam, 1979 (TCDGVN). Cuốn Tiếng cười thế giới, 1988 (TCTG) do Nguyễn Đức Dân chủ biên, đã đề cập đến vai trò của ngôn ngữ trong nghệ thuật gây cười. Ngoài ra còn có một vài luận văn, luận án có liên quan đến đề tài này (số lượng không nhiều) đã dược bảo vệ như: Nguyễn Hoàng Yến (2011), Truyện cười dân gian dưới góc độ dụng học, luận án tiến sĩ ngôn ngữ học, Viện ngôn ngữ học. Ở đó tác giả khảo sát các nguyên tắc cộng tác và phép lịch sự đối với hàm ý trong truyện cười. Trần Trọng Nghĩa (2011), Một số phương thức lập luận trong truyện cười hiện đại, luận văn thạc sĩ ngôn ngữ học, Trường ĐH KHXH&NV TP.HCM. Đặng Hồng Nhung (2008), Phương thức gây cười trong truyện cười thế giới hiện đại dước góc nhìn logic học, luận văn thạc sĩ ngôn ngữ học, ĐHSP Hà Nội. Ngoài ra còn có một số bài viết có liên quan đến lĩnh vực này. Nhìn chung, trên thế giới lịch sử nghiên cứu về trào phúng, mỉa mai và châm biếm khá phong phú về số lượng công trình và cũng thu hút đông đảo các học giả quan tâm. Đây là một đề tài lí thú nhưng cũng rất khó khăn và phức tạp. Cái cười nói chung, hay một phần của nó là trào phúng và châm biếm, tự thân nó đã là một thực thể trừu tượng vốn có liên quan đến rất nhiều lĩnh vực khoa học xã hội khác như tâm lí, văn hóa, giáo dục v.v. và cả những quan niệm xã hội của mỗi cộng đồng. Cho nên nếu chỉ khảo sát nó từ một góc nhìn đơn lẻ thì ta không thể có một công trình có chất lượng như chúng ta mong muốn. Đó cũng chính là lí do mà các công trình về đề tài này chưa thật phong phú như mong đợi. 3. Nhi Nhiệệm vụ nghi nghiêên cứu Chúng tôi đề ra bốn nhiệm vụ nghiên cứu sau: a. Luận giải cơ sở ngôn ngữ học và các yếu tố cấu thành lập luận trào phúng. b. Minh định và hệ thống hóa các kiểu lí lẽ được sử dụng trong các tiểu phẩm trào phúng. c. Xác định vai trò và sức mạnh của ngôn ngữ trong việc tạo ra các hiệu quả trào phúng. 14 d. Định danh các phương thức lập luận tạo hiệu quả trong các tiểu phẩm loại này. 4. Đố ng và ph Đốii tượ ượng phạạm vi nghi nghiêên cứu của đề tài Đối tượng khảo sát của luận án là các tiểu phẩm trào phúng (TPTP) bằng tiếng Việt. Quan niệm của luận án về TPTP là những mẩu truyện ngắn lời ít, ý nhiều; có độ dài tối đa là 20 câu, có đề tài cụ thể, có nội dung hài hước và châm biếm sâu sắc. Một lập luận trào phúng được cấu thành như thế nào? Làm thế nào mà đối tượng của châm biếm và mỉa mai có thể nhận diện được các lối nói có tính tu từ ở mức độ cao này? Ngôn ngữ có vai trò như thế nào? Biếm dụ có tính phổ quát hay không? Vì sao nhiều TPTP tiếng nước ngoài khi dịch sang tiếng Việt vẫn cười được? Vậy yếu tố ngôn ngữ trong những lập luận này có phải là thứ yếu hay không? Đó là những vấn đề mà luận án lần lượt đi vào khảo sát. Trong khi thực hiện chúng tôi có sử dụng một số kết quả nghiên cứu có tính liên ngành như triết học, tâm lí học, giáo dục học, xã hội học, văn hóa học v.v. Trên cơ sở lí thuyết của ngữ dụng học, cụ thể là vận dụng lí thuyết lập luận, luận án tiến hành chọn lọc và khảo sát 515 mẩu TPTP để làm sáng tỏ các câu hỏi vừa đặt ra ở trên. Ca dao Việt Nam: Chuột chù chê khỉ rằng hôi Khỉ mới trả lời cả họ mày thơm Nếu khỉ trả lời: “Cả họ mày còn hôi hơn cả tao” thì không còn là trào phúng, châm biếm nữa, lúc này phải hiểu là câu chửi trực tiếp. Vậy hàm ý của câu này là mỉa mai hay châm biếm, nó được xếp vào thể loại văn học trào phúng là vì sao và sử dụng nó nhằm mục đích gì? Phạm vi nghiên cứu của luận án chủ yếu giới hạn trong các cơ sở hình thành và các tiêu chí nhận diện yếu tố trào phúng và châm biếm. Minh định và hệ thống hóa các kiểu lí lẽ được sử dụng trong các TPTP, các chiến lược lập luận và các giá trị ngữ dụng của chúng. Cái hài trong ngôn ngữ vô cùng rộng lớn nhưng nhìn chung chúng có hai xu hướng chính: một là cười chỉ để cho vui, thư giãn; hai là cười chủ yếu để phê phán. Chúng tôi chọn khảo sát theo xu hướng thứ hai, dưới góc nhìn của lí thuyết lập luận trong ngữ dụng học. 15 ực ti 5. Ý ngh nghĩĩa khoa học và th thự tiễễn của đề tài a. Về lí lu luậận Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần vào việc nghiên cứu diễn ngôn trong văn học trào phúng, cụ thể là: - Mở rộng biên độ về đối tượng khảo sát của lập luận (những TPTP và châm biếm). Công trình này xem xét đối tượng này dưới góc nhìn lập luận, nghĩa là kiến giải việc dùng các lí lẽ, tác tử, kết tử, các cấu trúc siêu ngôn ngữ v.v. gọi chung là các công cụ lập luận để tạo ra những giá trị trào phúng và châm biếm một cách có hiệu quả. - Xây dựng các tiêu chí để nhận diện, quy tắc giải mã các hiện tượng trào phúng. ực ti b. Về th thự tiễễn Những kết quả phân tích và tổng hợp của luận án này sẽ có ích: - Cung cấp thêm một số cơ sở cho việc phân tích diễn ngôn, đặc biệt là các diễn ngôn châm biếm và hài hước. - Vận dụng các phương pháp lập luận trào phúng và hài hước vào giáo dục sẽ làm tăng hiệu quả dạy học. Đây là điều luận án hướng đến xây dựng và ứng dụng trong thực tế. ươ ng ph ồn ng ữ li 6. Ph Phươ ương phááp nghi nghiêên cứu và ngu nguồ ngữ liệệu Luận án chủ yếu vận dụng hai phương pháp: Phương pháp miêu tả và Phương pháp so sánh đối chiếu. Phương pháp miêu tả:“Là hệ thống những thủ pháp nghiên cứu được vận dụng thể hiện đặc tính của các hiện tượng ngôn ngữ của các hiện tượng ngôn ngữ trong một giai đoạn phát triển nào đó của nó” [26: 19]. Trong đó bao gồm hai thủ pháp là thống kê, phân loại và thủ pháp phân tích, tổng hợp. Thủ pháp thống kê và phân loại được vận dụng vào việc tổng hợp các thể loại truyện cười, lập luận gây cười và các giai thoại hài hước theo trình tự thời gian đăng tải của ngữ liệu trên báo chí. Chúng tôi chọn và khoanh vùng ngữ liệu theo trình tự thời gian, sau đó thống kê tỉ lệ các phương pháp lập luận gây cười, tần suất xuất hiện các kiểu lí lẽ, các hình thức ngôn ngữ biểu đạt, các phương tiện gây cười được vận dụng trên tổng số những 16 mẫu khảo sát. Thủ pháp phân tích và tổng hợp được vận dụng để phân tích ngữ liệu trên ba lĩnh vực: cấu trúc, ngữ nghĩa và ngữ dụng trong mối liên hệ với các ngành văn hóa học, văn học, tâm lí học và triết học. Kết quả phân tích sẽ được khái quát và tổng hợp thành sơ đồ, bảng biểu. Chúng tôi lần tìm ra các cơ chế trào phúng trong từng tiểu phẩm để tiến hành phân loại. Kết quả phân tích được sẽ được tổng hợp dùng làm cơ sở cho việc so sánh đối chiếu trong quá trình nghiên cứu. Phương pháp so sánh đối chiếu: theo Lê Quang Thiêm trong quyển “Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ” (2004), đó là một tổng thể các phương thức, thủ pháp nhằm làm sáng tỏ cái riêng và cái chung trong ngôn ngữ về mặt cấu trúc, hành chức và sự phát triển của chúng. Tất cả nhằm mục đích xây dựng một lí luận đại cương, xác lập các phổ quát ngôn ngữ. Tuy nhiên, đây là một luận án về lí luận ngôn ngữ, chủ yếu khảo sát trên cứ liệu tiếng Việt, cho nên thực chất của việc so sánh đối chiếu chỉ được vận dụng như một thủ pháp của phương pháp miêu tả. Việc so sánh đối chiếu nhằm làm rõ hơn các các kết quả của luận án. Theo đó, chúng tôi tiến hành so sánh đối chiếu các đặc điểm nổi bật và các phương thức tạo ra trào phúng, châm biếm trong các tiểu phẩm. Qua đó chúng tôi tổng kết những nét phổ quát và những nét riêng về văn hóa, ngôn ngữ trong TPTP. Vì cái hài không chỉ liên quan đến ngôn ngữ mà còn liên hệ mật thiết với các ngành khoa học xã hội khác như triết học, tâm lí học, văn hóa học, xã hội học, v.v. Cho nên luận án sử dụng một số kết quả nghiên cứu liên ngành để làm sáng tỏ các vấn đề khảo sát. Nguồn ngữ liệu 515 tiểu phẩm (được tuyển lựa từ 3.263 tiểu phẩm) chính thức được dùng trong luận án là kết quả của quá trình sưu tầm, chọn lọc và liên tục cập nhật, bổ sung trong vòng gần 8 năm kể từ thời điểm chúng tôi bắt đầu thực hiện luận văn cao học (2008); luận văn có tên Một số phương thức lập luận trong truyện cười hiện đại. Nhìn chung ngữ liệu của luận án được tuyển chọn từ ba nguồn tiêu biểu sau: Nguồn thứ nhất là các quyển sách được các nhà nghiên cứu có uy tín sưu tầm, chọn lọc: 1. Quyển Tiếng cười thế giới (TCTG) của Nguyễn Đức Dân và Phạm Văn Tình, Nxb.Văn học, 2007 (350 tiểu phẩm); 2. Tiếng cười dân gian Việt Nam 17 (TCDGVN) của Trương Chính và Phong Châu, Nxb. Khoa học Xã hội, 1979 (288 tiểu phẩm); 3. Quyển Plato và con thú mỏ vịt bước vào quán bar.. Lĩnh hội triết học thông qua truyện cười (Plato and a Platypus Walk into a Bar… Understanding Philosophy Through Jokes (PPWB)) của Thomas Cathcart & Daniel Klein Nxb. Abrahams Image, 2005 (bản dịch tiếng Việt của Tiết Hùng Thái, Nxb. Thế Giới, 2014), (125 tiểu phẩm); tổng cộng là 763 tiểu phẩm. Đây là các quyển tiêu biểu. Nếu TCDGVN là kiểu trào phúng đặc trưng cho phong cách truyền thống của xã hội Việt Nam trước đây, thì TCTG lại là đại diện cho kiểu trào phúng thời hội nhập với nhiều tiểu phẩm được dịch từ tiếng nước ngoài, nhưng người Việt vẫn cảm nhận được chất trào phúng gần như trọn vẹn vì tác giả chỉ lựa chọn những câu chuyện có tính phổ quát cao. Còn các tiểu phẩm trong quyển PPWB lại mang đậm dấu ấn triết học. Xuất phát từ việc đồng hóa hai khái niệm: châm biếm (trong văn học) với thấu thị (trong triết học), các tác giả PPWB đã soi thẳng và lột trần những cái xấu trong xã hội bằng những tiểu phẩm trào phúng sâu sắc. Nguồn ngữ liệu thứ hai là các tiểu phẩm trong 10 năm (từ năm 2003 đến năm 2013) trên tất cả các số báo Tuổi trẻ cười (Bán nguyệt san châm biếm và trào phúng, phụ san của báo Tuổi Trẻ Thành Phố Hồ Chí Minh), khoảng trên 1.000 tiểu phẩm. Nguồn ngữ liệu thứ ba là các tiểu phẩm từ các báo điện tử, cũng trong 10 năm (2004 - 2014) bao gồm: tuoitrecuoi.com, gdtd.vn (báo Giáo dục thời đại), vnexpress.net, kienthucngaynay.vn với số lượng hơn 1.500 tiểu phẩm. Trong số lượng rất lớn này (3.263 tiểu phẩm), có nhiều tiểu phẩm trùng lặp, các báo dẫn lại của nhau, biến tấu hoặc nội dung không phù hợp; chúng tôi chỉ lựa chọn 515 được tiểu phẩm tiêu biểu dựa trên các tiêu chí: có các mẩu lập luận điển hình, có tính thú vị, sâu sắc và có nội dung giáo dục tốt để làm ngữ liệu chính thức cho luận án. Trong quá trình khảo sát, chúng tôi tiến hành so sánh, đối chiếu với một số lập luận cùng thể loại trong văn học Việt Nam và văn học dân gian của một số nước khác. 7. Bố cục của lu luậận án Bố cục của luận án gồm có 3 chương, nội dung của các chương cụ thể như sau: 18 Chương 1 Cơ sở lí luận, trình bày những vấn đề cơ bản về lập luận, về trào phúng; các phạm trù thuộc nội hàm của trào phúng bao gồm hài hước và mỉa mai, châm biếm. Chương 1 cũng trình bày sơ đồ các bước lập luận gây cười, các yếu tố ngôn ngữ, văn hóa liên quan cấu thành cái cười làm sở lí luận cho việc phân tích tiểu phẩm trào phúng. Chương 2 Lí lẽ và vai trò của ngôn ngữ trong lập luận trào phúng, nhiệm vụ của chương này tập trung khảo sát vai trò của lí lẽ; không phải lí lẽ để thuyết phục như trong các lập luận thông thường mà với chức năng tạo hiệu quả hài hước, hiệu quả châm biếm. Vai trò của ngôn ngữ, nhấn mạnh vai trò và các đặt điểm của tiếng Việt cũng được tập trung khảo sát trong lập luận trào phúng. Chương này còn trình bày các quy tắc giải mã đối với một lập luận trào phúng. Chương 3 Phương thức lập luận và chiến lược gây hiệu quả trong lập luận trào phúng, trình bày 7 phương thức lập luận, các chiến lược gây hiệu quả và 5 thủ thuật lập luận trào phúng.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất