TÀI LIỆU KINH TẾ QUỐC TẾ
LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế quốc tế đang là xu hướng tất yếu của nền kinh tế thế giới. Xu thế này đã
diễn ra với tốc độ nhanh chóng trong những năm cuối của thế kỷ 20 và sẽ sôi động hơn,
quyết liệt hơn trong những năm tới. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra nhiều cơ hội nhưng
cũng đặt ra không ít thách thức đối với tất cả các nền kinh tế và doanh nghiệp, đặc biệt là
các quốc gia đang phát triển. Để có thể tham gia thành công, hiệu quả vào quá trình hội
nhập, các quốc gia nói chung và đặc biệt từng doanh nghiệp nói riêng phải thường xuyên
coi trọng việc nâng cao năng lực cạnh tranh của mình ở cả thị trường trong và ngoài
nước. Trao đổi thương mại cũng là một trong những điều kiện thiết yếu của hội nhập kinh
tế. Với một nước đang phát triển như Việt Nam thì việc xuất nhập khẩu hàng hóa chiếm
tỷ trọng lớn trong phát triển kinh tế. Một trong những ngành nghề xuất khẩu phổ biến
hiện nay là xuất khẩu cá da trơn, là một bộ cá đa dạng trong nhóm cá xương sinh sống
phát triển rất tốt trong môi trường tự nhiên Việt Nam như cá trê, cá nheo, cá bông lau, cá
basa, cá tra…
Theo thông tin mới nhất từ Cục Quản lý chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản (Nafiqad),
Bộ NN&PTNT: Ngày 9-6 vừa qua, trên cơ sở đề nghị của Nafiqad, Cơ quan kiểm tra và
an toàn thực phẩm (FSIS), Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) đã chấp thuận bổ sung thêm
12 cơ sở của Việt Nam vào danh sách các cơ sở chế biến cá da trơn họ Siluriformes được
phép xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Trước đó, tính đến đầu tháng 3, Việt Nam có tổng số 45 cơ
sở được xuất khẩu cá da trơn họ Siluriformes vào thị trường Hoa Kỳ. Như vậy, tổng số cơ
sở được phép xuất khẩu cá da trơn họ Siluriformes vào Hoa Kỳ hiện nay đã được nâng
lên thành 57 cơ sở. Đối với 4 cơ sở còn lại đã được Nafiqad đề nghị nhưng FSIS chưa bổ
sung vào danh sách, Nafiqad đã có văn bản trao đổi làm rõ thêm và đề nghị FSIS sớm bổ
sung vào danh sách.
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp thủy sản nói riêng,
Mỹ là một thị trường rộng lớn, hứa hẹn nhiều cơ hội kinh doanh. Nhưng bên cạnh đó, thị
trường Mỹ cũng chứa đựng rất nhiều rủi ro do hệ thống pháp luật phức tạp, hàng loạt các
tiêu chuẩn đặt ra đối với hàng nhập khẩu. Đó là lý do để chúng em lựa chọn đề tài của
mình: Những rào cản kĩ thuật với xuất khẩu cá da trơn của Việt Nam, nhằm đưa ra những
rào cản mà các doanh nghiệp Việt Nam gặp phải và hướng giải quyết cho các rào cản trên
nhằm ngày càng thúc đẩy sự nghiệp xuất khẩu cá da trơn, khẳng định tên tuổi của Việt
Nam trên thị trường quốc tế.
1
I.
Khái quát chung
1. Nguồn cung ứng
Mặc hàng cá da trơn đã và đang là mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong nhóm hàng thủy sản
của thị trường Việt Nam, góp phần tăng trưởng ngành thủy nói riêng và nền kinh tế đất
nước nói chung. Hiện nay cá tra đang được nuôi ở vùng Đồng bằng sông Cửu
Long(ĐBSCL) vì vị trí tự nhiên thuận lợi( hệ thống sông ngòi chằng chịt,..) kết hợp kĩ
thuật nuôi cá không quá khó khiến cho nghề nuôi cá tra phát triển mạnh. Năm 2003, diện
tích nuôi cá ở ĐBSCL đạt khoảng 2,792 ha và năm 2010 lên đên 5400 ha.
giá trị xuấết khẩu cá tra 2006-15/6/2011
1600
1400
1200
1000
800
600
400
200
0
2006
2007
2008
2009
sản lượng( nghìn tấến)
2010
15/6/2011
2011 dự kiếến
Column1
Nguồn: VASEP
Với nhu cầu cá da trơn ngày càng tăng cho xuất khẩu và thị trường nội địa cùng kĩ thuật
nuôi trồng dễ dàng, các doanh nghiệp xuất hiên nhiều hơn va cạnh tranh nhau gay gắt, tạo
một nguồn cung ca da trơn dồi dào.
2
Top 10 doanh nghiệp xuất khẩu cá tra hàng đầu Việt Nam 5 tháng đầu năm 2011
2. Những đóng góp vào việc phát triển kinh tế
a. Đối với nền kinh tế thế giới
Bằng việc khai thác các lợi thế về cá da trơn, ta tập trung vào sản xuất và xuất khẩu sản
phẩm này. Sự chuyên môn hoá đó làm cho mỗi quốc gia khai thác được lợi thế của mình
một cách tốt nhất giúp tiết kiệm được nguồn nhân lực như vốn, kỹ thuật, nhân lực trong
quá trình sản xuất hàng hoá. Do đó, tổng sản phẩm trên quy mô toàn thế giới cũng sẽ
được gia tăng.
3
b. Đối vói nền kinh tế quốc gia
Đối với nền kinh tế mỗi quốc gia, xuất khẩu tạo nguồn vốn chính cho nhập khẩu, phục vụ
cho công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Sự tăng trưởng kinh tế của mỗi
quốc gia đòi hỏi phải có 4 điều kiện: nhân lực, tài nguyên, vốn và kỹ thuật.
c. Đối với doanh nghiệp
Thông qua xuất khẩu cá da trơn,các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào cuộc
cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng sản phẩm – những yếu tố đòi hỏi
doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với thị trường. Xuất khẩu
buộc các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản trị kinh doanh,
đồng thời có ngoại tệ để đầu tư lại quá trình sản xuất không những về chiều rộng mà cả
về chiều sâu.
Ngoài ra, sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao động, tạo
thu nhập ổn định cho người lao động tạo ra ngoại tệ để chấp nhận máy móc thiết bị hiện
đại phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và đem lại lợi nhuận cao.
II.
Những rào cản khi xuất khẩu cá da trơn
1. Tình hình xuất khẩu sang Hoa Kì
a. Nhu cầu nhập khẩu cá da trơn của Hoa Kì
Cá da trơn Mỹ chủ yếu được nuôi ở các bang phía Nam, trong đó Mississippi,
Alabama, Arkansas và Texa chiếm tới 95% tổng lượng tiêu thụ năm 2012. Tiêu thụ cá da
trơn nội địa đạt 341 triệu USD năm 2012, giảm 20% so với 423 triệu USD năm 2011. Về
sản xuất, diện tích mặt nước nuôi cá da trơn giảm 7% từ 89.400 acre (1 acre = 0,4047
ha) xuống còn 83.000 acre. Số lượng nhà sản xuất giảm 13% từ 718 nhà sản xuất năm
2012 xuống còn 624 nhà sản xuất năm 2013. Tuy nhiên, sản lượng chế biến đạt 334 triệu
pao trong năm 2013, tăng 11% so với 300 triệu pao năm 2012.
Công ty Superior Catfish Products tại bang Georgia sản xuất 400.000 pao cá da
trơn/tuần trong khoảng thời gian trước mùa Chay tại Mỹ. Sản lượng của công ty tăng từ
mùa thu năm 2013 nhưng giảm nhẹ cách đây 2 tuần. Theo công ty này, giá cá da trơn
nguyên liệu hiện đạt khoảng 1,10 USD/pao, giá bán lẻ cá philê vào khoảng 4 – 5
USD/pao. Trong khi đó, giá cá tra NK, đối thủ lớn nhất với cá da trơn, chỉ có giá dưới 2
USD/pao.
4
Người tiêu dùng vẫn còn chấp nhận mức giá cá da trơn hiện tại, nhưng một số có
khả năng quay sang hàng NK nếu họ phải cân nhắc về giá cả. Thức ăn nuôi cá đã tăng giá
thêm 150 USD/tấn trong vòng 5 năm qua. Hiện giá thức ăn đang hạ nhiệt tuy nhiên sẽ
không thể giảm thêm. Người nuôi phải tăng giá bán cá thêm 20 – 30 xen/con mới có thể
bù đắp chi phí thức ăn nuôi cá.
Nguồn: NMFS
Người tiêu dùng Mỹ có xu hướng mua cá tra nhiều hơn trong năm 2016, tuy nhiên giá
mặt hàng này không tăng. Theo ITC, Mỹ nhập khẩu 34.677 tấn cá tra của Việt Nam trong
quý I, tăng 16% so cùng kỳ năm ngoái, trong đó lượng nhập khẩu cá tra đông lạnh là
103,369 tấn. Cá tra đông lạnh của Việt Nam hiện vẫn đang đứng đầu thị trường Mỹ, sau
đó là Myanmar, Guyana, Thái Lan, Brazil, Venezuela, Pakistan, Ấn Độ và Trung Quốc.
b. Xuất khẩu cá da trơn sang thị trường Hoa Kì.
Việt Nam bắt đầu xuất khẩu cá basa và cá tra sang Hoa Kỳ từ năm 1996 sau khi
cấm vận kinh tế được bãi bỏ. Cá xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ là sản phẩm philê đông
lạnh. Sau những năm đầu không tiêu thụ được nhiều, sản lượng cá da trơn dạng philê
không xương đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam vào Hoa Kỳ tăng mạnh từ năm 2000.
Đến cuối năm 2001, sản lượng cá philê đông lạnh xuất khẩu đã tăng lên gần 21.000 tấn,
gấp hơn 20 lần sản lượng xuất khẩu năm 1998.
5
Giá FOB xuất khẩu dao động trong khoảng 1,2-1,5 USD/pao hay 40.000-50.000
đ/kg. Một thuận lợi là sản phẩm cá da trơn philê đông lạnh của Việt Nam xuất sang Hoa
Kỳ chỉ phải chịu thuế suất thuế nhập khẩu rất thấp. Hoa Kỳ áp dụng thuế suất thuế nhập
khẩu 0% đối với sản phẩm cá da trơn phi lê đông lạnh nhập khẩu từ các nước mà Hoa Kỳ
có quan hệ thương mại bình thường, nhưng áp thuế 4,4 xen/kg đối với cá philê đông lạnh
nhập khẩu từ các nước không có quan hệ thương mại bình thường. Như vậy, cho đến thời
điểm trước khi Hiệp định Thương mại Song phương có hiệu lực (tháng 12 năm 2001), cá
tra và basa philê đông lạnh của Việt Nam xuất sang
Hoa Kỳ chỉ phải chịu thuế suất khoảng 1,3% giá trị sản phẩm (suy ra từ mức thuế đơn vị
4,4 xen/kg và giá nhập khẩu trung bình 3,5 USD/kg). Còn từ tháng 12 năm 2001 đến nay,
sản phẩm cá tra và basa philê đông lạnh của Việt Nam không còn chịu thuế khi nhập khẩu
vào Hoa Kỳ. Hiện tại, thị trường Hoa Kỳ chiếm 40% tổng kim ngạch xuất cá tra và basa
philê đông lạnh. Các thị trường nước ngoài quan trọng khác là EU, Australia và châu Á.
Nguồn: ndh.vn
6
Đến hai tháng đầu năm 2016, giá trị XK cá tra của cả nước đạt 237,3 triệu USD, tăng
5,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, giá trị XK sang 2 thị trường lớn nhất là Mỹ và
EU (chiếm 40,5% tổng XK) tăng lần lượt 14,7% và 0,4%. Brazil là điểm thu hút nhất của
các DN XK cá tra
Nguồn: thuysanvietnam.com.vn
Việt Nam 2 tháng đầu năm 2016, giá trị XK sang thị trường này đạt 14,5 triệu
USD, tăng 642,7% so với cùng kỳ năm 2015.
Với giá trị XK tăng trưởng khả quan, Brazil vươn lên là thị trường XK lớn thứ 5
(sau Mỹ, EU, Trung Quốc - HongKong và ASEAN). Hai tháng đầu năm nay, giá trị XK
sang một số thị trường XK lớn giảm: Hà Lan giảm 11,6; Anh giảm 11,8%; Mexico giảm
48,6%; Colombia giảm 17,6%; Ảrập Xêút giảm 3,5% so với cùng kỳ năm trước.
Sản phẩm cá tra sống, tươi, đông lạnh, khô (thuộc mã HS03, 0304) chiếm đến
99,3%; cá tra chế biến (thuộc mã HS 16) chiếm 0,7% tổng giá trị XK.
Tại thị trường Mỹ: Hai tháng đầu năm 2016, XK cá tra sang thị trường Mỹ chưa bị ảnh
hưởng bởi chương trình thanh tra cá da trơn của Bộ Nông nghiệp Mỹ, giá trị XK sang thị
7
trường này đạt 56%, chiếm 23,6% tổng giá trị XK, tăng 14,7% so với cùng kỳ năm trước.
Tuy nhiên, theo nguồn tin chưa chính thức, Bộ Thương mại Mỹ (DOC) đã công bố phán
quyết cuối cùng mức thuế chống bán phá giá lần thứ 11 (POR11) đối với cá tra philê
đông lạnh nhập từ Việt Nam giai đoạn từ 1/8/2013 đến 31/7/2014.
Theo đó, mức thuế mà hai bị đơn bắt buộc là HUNG VUONG CORP và TAFISHCO
phải chịu lần lượt là 0,41 USD/kg và 0,97 USD/kg, cao hơn so với phán quyết sơ bộ
trước đó lần lượt 5 cent/kg và 13 cent/kg. Mức thuế các DN xuất khẩu cá tra khác của
Việt Nam phải chịu trong đợt xem xét lần này là 0,69 USD/kg, tăng 9 cent/kg so với mức
thuế phán quyết sơ bộ đưa ra. Nếu đây là mức thuế CBPG cuối cùng thì giá trị XK sang
thị trường Mỹ sẽ khó có thể khả quan hơn. Hiện nay, chỉ còn 2 DN XK cá tra là Công ty
Cổ phần Vĩnh Hoàn (VINH HOAN CORP) và Công ty TNHH Thủy sản Biển Đông
(BIEN DONG SEAFOOD) tiếp tục duy trì hoạt động XK sang thị trường Mỹ do được
hưởng mức thuế suất 0%
c. Phương thức xuất khẩu
Hầu hết cá tra và basa sau khi nuôi được chế biến dưới dạng đông lạnh trước khi đến tay
người tiêu dùng cuối cùng. Các tỉnh nuôi cá tra và basa ở ĐBSCL đều có doanh nghiệp
chế biến thủy sản gắn với các làng bè nuôi cá. Đứng trước sự cạnh tranh trên thị trường,
hầu hết các doanh nghiệp chế biến thủy sản đều nhập dây chuyền thiết bị đông lạnh từ
nước ngoài và áp dụng các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn của
HACCP.
2. Sơ lược vụ kiện năm 2002-2003
Việt Nam bắt đầu xuất khẩu cá tra, cá basa sang thị trường Mỹ vào năm 1996.
Năm 1998, lượng cá lát catfish không xương đông lạnh của Việt Nam xuất sang đây mới
chỉ có 260 tấn. Nhưng đến cuối năm 2001, con số ấy đã vọt lên 7.746 tấn. Với giá thành
rẻ hơn từ 0,08 đến 1USD/pound và chất lượng không thua kém catfish Mỹ, cá Việt Nam
đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới việc tiêu thụ catfish của Mỹ, bằng chứng là tổng giá trị
catfish bán ra của Hiệp hội các nhà nuôi cá nheo Mỹ(CFA) giảm mạnh, từ 446 triệu USD
năm 2000 xuống còn 385 triệu USD năm 2001. Dưới sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ
từ các sản phẩm cá của Việt Nam, CFA đã phải hành động nhằm đánh bật cá da trơn của
Việt Nam ra khỏi thị trường Mỹ.
9/2001 vụ kiện bắt đầu nổ ra bằng việc Mỹ mở cuộc chiến về tên gọi catfish đối
với sản phẩm cá tra, cá basa của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này. CFA dựa vào
Luật Ngân sách nông nghiệp 107-76 của Mỹ để cấm loại cá này của Việt Nam được nhập
vào nước này với tên gọi catfish và đạo luật HR.2646 cấm hoàn toàn việc dùng tên catfish
8
cho các loại cá tra, cá basa của Việt Nam trong tất cả các khâu bán lẻ, bán sỉ, nhà hàng,
thông tin, quảng cáo... trong vòng 5 năm. Chưa dừng ở đây, CFA vin tiếp vào điều khoản
10806 của đạo luật An ninh nông trại và Đầu tư nông thôn mới nhất để xác lập chủ quyền
tuyệt đối trên thương hiệu catfish. Tháng 12/2001, bất chấp sự phản đối từ phía Việt
Nam, Quốc hội Mỹ đã thông qua lệnh cấm tạm thời (có hiệu lực tới ngày 30/9/2002),
theo đó, chỉ có catfish của Mỹ mới được gọi là catfish, còn cá của Việt Nam phải được
gọi bằng tên basa hay tra. Sau khi dự luật được thông qua, nó đã vấp phải sự phản đối
mạnh mẽ không chỉ của dư luận Mỹ mà còn chịu sự phản đối của dư luận thế giới.
Thượng nghị sĩ Phil Gramm, bang Texas khẳng định: “ Những người kiếm sống trong
ngành khoa học nuôi cá gọi nó là catfish, vậy cớ sao chúng ta(Quốc hội Mỹ) lại muốn gọi
nó khác đi”. Ông Gramm cùng thượng nghị sĩ John Mccain đưa ra một điều khoản bổ
sung nhằm bác bỏ dự luật cấm Việt Nam sử dụng nhãn catfish, tuy nhiên, đề nghị của hai
ông đã bị bác bỏ (theo báo Washington Post ngày 27/12/2001).
Sau khi giành chiến thắng về tên gọi catfish, Hiệp hội các nhà nuôi cá nheo
Mỹ(CFA) tiếp tục mở một cuộc tấn công khác: Khởi kiện các doanh nghiệp Việt Nam
bán phá giá cá tra, cá basa. Theo Timothy R. Brown, tác giả bài viết “Ngành nuôi cá
catfish Mỹ tiếp tục chiến đấu” đăng trên AP ngày 26/2, khơi mào chiến dịch mới chính là
những ngư dân ở thành phố Indianola (bang Mississipi, nơi đóng đô của CFA và chiếm
tới 94% sản phẩm catfish của toàn bộ miền Nam nước Mỹ). Nhóm ngư dân này sẽ thuê
hẳn một vài chuyên gia tầm cỡ từ Washington hỗ trợ cho các văn phòng tư vấn luật của
bang, nhằm nỗ lực chuẩn bị cho đòn trừng phạt đối với cá giá rẻ của Việt Nam. Phó chủ
tịch điều hành CFA Hugh Warren quy chụp cho những lô cá xuất khẩu của Việt Nam là
những sản phẩm rẻ tiền, kém chất lượng mà người ta không thể tìm thấy ở một xưởng sản
xuất cỡ gia đình như các trại cá của Mỹ. Ông này cho rằng, mặc dù sản phẩm rẻ tiền của
Việt Nam đang chiếm tới 20% thị phần và hấp dẫn những nhà hàng, khách sạn, nhưng
“những nhà hàng, khách sạn này chỉ quan tâm tới giá cả chứ chẳng để ý đến chất lượng
của sản phẩm”. Phóng viên Timothy nhận xét một cách khách quan rằng, những người
nuôi cá catfish Mỹ không thể chạy đua về giá với sản phẩm nhập khẩu từ Việt Nam bởi
chi phí đầu vào (đặc biệt là về nhân công và thuế ) quá cao. Trước sức ép của cá da trơn
đến từ Việt Nam, giá catfish Mỹ đã rớt thê thảm, từ 0.74 USD/ pound năm 2000 xuống
còn 0.58 USD, thậm chí có lúc chỉ khoảng 0.2 USD/ pound. Theo Phó chủ tịch Warren:
“ Mức giá như vậy không đủ bù cho chi phí sản xuất. ít nhất phải bán được 65-70 cent/
pound, may ra người nuôi cá mới có thể hoà vốn”.
9
Ngày 28/6/2002, CFA đã đệ đơn kiện lên Uỷ ban hiệp thương Quốc tế Mỹ (ITC).
Họ đã tính toán rất kĩ lưỡng trong cuộc đi kiện lần này, bằng chứng được thể hiện ngay từ
cách nộp đơn kiện của họ: nộp đơn vào đúng lúc 4 giờ chiều ngày làm việc cuối cùng
trong tuần (thứ 6, ngày 28/6). Theo luật Mỹchỉ sau 20 ngày nhận đơn kiện, bên bị kiện sẽ
phải điều trần trước ITC. Như vậy, phía Việt Nam đã mất đi 3 ngày để chuẩn bị. Là đơn
kiện nhưng khối lượng rất đồ sộ với hơn 200 trang kèm theo 37 phụ lục, trong đó phân
tích chi tiết về tình hình thị trường cá nheo Mỹ, thị phần cá da trơn đông lạnh của Việt
Nam tại Mỹ cũng như ảnh hưởng của sản phẩm “rẻ tiền” (theo cách gọi của CFA) đối với
ngành sản xuất trong nước.
Chưa dừng lại ở đó, CFA tiếp tục chiến dịch của mình bằng cách nộp đơn lên Bộ
Thương mại Mỹ (DOC) cho rằng, đã xuất hiện “tình trạng khẩn cấp”. Để chứng minh
điều đó CFA đã đưa ra các luận điểm:
Các nhà xuất khẩu Việt Nam biết cá tra, cá basa filê đông lạnh bị bán phá giá.
Các nhà xuất khẩu có thông tin về việc áp thuế chống phá giá đối với công ty của
mình với mức 25% hoặc cao hơn nữa trong giai đoạn điều tra ban đầu của DOC.
Các nhà xuất khẩu Việt Nam đã tăng số lượng hàng sang Mỹ sau khi CFA nộp đơn
yêu cầu điều tra chống phá giá .
Tính từ ngày 28/6/2002, số lượng hàng xuất khẩu sang Mỹ tăng ở mức 15% hoặc
cao hơn nữa so với thời gian trước ngày nộp đơn yêu cầu điều tra chống phá giá.
Cần áp dụng hồi thuế chống phá giá để đảm bảo hiệu quả của thuế chống phá giá
sẽ được ban hành vào ngày 24/1/2003.
Tháng 11/2002 bất chấp sự phản đối từ phía Việt Nam, DOC đã kết luận Việt Nam là
nước có nền kinh tế phi thị trường, việc kết luận này dựa trên đánh giá theo các tiêu chí
của Mỹ nó đặt cơ sở cho việc xem xét áp dụng mức thuế chống bán phá giá đối với mặt
hàng cá tra, cá basa của Việt Nam. Ngày 28/1/2003, DOC tạm thời xác định mức thuế
chống bán phá giá đối với cá tra, cá basa của Việt Nam trong khoảng từ 31,45% - 63,88%
tuỳ theo nhóm mặt hàng và doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, cá basa của nước ta. Cụ thể
như sau:
10
Tên công ty
Mức thuế
Agifish
31,45%
Cataco
41,06%
Nam Việt
38,09%
Vĩnh Hoàn
37,94%
Các công ty khác có tham gia vụ kiện 36,76%
Các công ty không tham gia vụ kiện
63,88%
Tháng 3/2003, DOC đã cử đoàn quan chức sang Việt Nam để nghiên cứu điều tra
tình hình sản xuất cá tra, cá basa tại các tỉnh vùng DBSCL của Việt Nam để xác định lần
cuối mức thuế xuất chống bán phá giá. Các doanh nghiệp Việt Nam đã đáp ứng đầy đủ
các yêu cầu của đoàn điều tra và chứng minh năng lực cạnh tranh dựa trên quy trình tổng
hợp khép kín, từ sản xuất con giống, nuôi cá thương phẩm, đến chế biến và xuất khẩu các
sản phẩm cá tra, cá basa. Tuy nhiên, đoàn điều tra của DOC đã bác bỏ các tài liệu từ phía
các doanh nghiệp đưa ra và không công nhận quy trình khép kín trong việc sản xuất cá
tra, cá basa. Họ chỉ chấp nhận tính giá thành sản phẩm này từ khâu chế biến và đem so
sánh nó với nước thứ 3 là Bangladesh một nước không có quy trình sản xuất khép kín
như Việt Nam.
Đầu tháng 5, Bộ Thương mại Mỹ đã gợi ý Bộ Thương mại hai bên sẽ tiến hành
đàm phán “ về một thoả thuận về đình chỉ vụ kiện” này. Từ 2-9/5/2003, hai bên đàm
phán, nhưng do quan điểm của hai bên rất khác nhau, cả về phương pháp luận và mức độ
tiếp cận thị trường Mỹ cho mặt hàng cá tra, cá basa filê đông lạnh của Việt Nam nên hai
bên đã không đạt được thoả thuận cuối cùng.
Ngày 17/6/2003, ITC mở phiên điều trần vể vụ kiện cá tra, cá basa . Trong buổi
điều trần này, đại diện của Chính phủ Việt Nam và đại diện của VASEP đã phát biểu
11
trước ITC về vụ kiện này và yêu cầu Mỹ xem xét vụ kiện một cách khách quan. Tuy
nhiên, đến ngày 23/7/2003 ITC đưa ra phán quyết cuối cùng về vụ kiện cá tra, cá basa.
Theo đó, cơ quan này đã khẳng định các doanh nghiệp Việt Nam bán cá tra, cá basa vào
thị trường Mỹ thấp hơn giá thành, gây tổn hại tới ngành sản xuất cá da trơn của Mỹ và ấn
định mức thuế suất bán phá giá rất cao, từ 36.84-63.88%.Cụ thể như sau:
Tên công ty
Mức thuế
Agifish
44,76%
Cataco
45,55%
Nam Việt
52,90%
Vĩnh Hoàn
36,84%
Các công ty khác có tham gia vụ kiện 44,66%
Các công ty không tham gia vụ kiện
63,88%
Sau khi đưa ra phán quyết thiếu công bằng, đến ngày 7/8/2003, Bộ Thương mại
Mỹ chính thức công bố áp đặt thuế chống bán phá giá đối với 11 doanh nghiệp Việt Nam
xuất khẩu mặt hàng filê đông lạnh cá tra, cá basa vào thị trường này.Về phía Việt Nam,
sau khi lấy ý kiến, các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, basa của Việt Nam đều nhất trí tiếp
tục theo đuổi vụ kiện. VASEP sẽ nộp đơn kiện lên toà án quốc tế thương mại Mỹ.
NGUỒN: (“Tổng quan về vụ kiện cá tra cá basa của Mỹ đối với Việt Nam” https://voer.edu.vn/m/tong-quan-ve-vu-kien-ca-tra-cabasa-cua-my-doi-voi-vietnam/8aeaf36e)
Từ vụ kiện trên mà rào cản xuất khẩu cá da trơn sang thị trường Mỹ ngày càng
lớn, ngoài những rào cản kỹ thuật TBTs theo WTO ban hành thì ngày càng có những rào
cản thương mại khác đánh lên thị trường xuất khẩu cá da trơn ở Việt Nam
12
3. Những rào cản kỹ thuật xuất khẩu cá da trơn ra thị trường nước ngoài
a. Các quy định kỹ thuật, tiêu chuẩn và các thủ tục xác định sự phù hợp
Bất cứ hàng hoá nào khi nhập khẩu vào Mỹ phải đảm bảo các tiêu chuẩn như là các sản
phẩm nội địa. Nhà xuất khẩu và chế biến đều phải tuân theo các quy định của Mỹ, cụ thể
là theo Bộ luật Liên bang Mỹ CFR (Code of Federal Regulations) để đảm bảo sản phẩm
không có độc tố, an toàn sử dụng và được sản xuất trong điều kiện vệ sinh. Quy định
21CFR 103-169 nêu chi tiết các tiêu chuẩn thực phẩm của FDA. Tiêu chuẩn nhận dạng
sản phẩm (standards of identify) định nghĩa các loại thực phẩm, xác định tên gọi, các
thành phần và các yêu cầu về nhãn mác.
Với hơn 10 năm xuất khẩu cá da trơn vào tgij trường Mỹ thì có thể nói rằng cá da trơn
của Việt Nam hầu như đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn thực phẩm Mỹ đề ra.
Nếu so sánh các tiêu chuẩn trong quản lý nuôi trồng và chế biến, thì Việt Nam hiện đã áp
dụng tới 5 tiêu chuẩn quốc tế, gồm: tiêu chuẩn “thực hành nuôi trồng thủy sản tốt-BAP”
của Mỹ, tiêu chuẩn “Hội đồng quản lý nuôi trồng thủy sản-ASC” của châu Âu, tiêu chuẩn
“thực hành nông nghiệp tốt toàn cầu-Global GAP”, tiêu chuẩn “Hiệp hội các nhà bán lẻ
Anh-BRC” và tiêu chuẩn VietGap.
Trong khi đó, hiện nay quy trình nuôi cá da trơn của Mỹ mới chỉ áp dụng duy nhất một
bộ tiêu chuẩn BAP.
Trong chế biến, Mỹ đang áp dụng quy trình HAACP, còn Việt Nam, các nhà máy đã đạt
chứng nhận HACCP, ASC, BAP, BRC và ISO 22000.
b. Biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật
Quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP)
Theo luật, tất cả các loại thực phẩm sản xuất trong nước và nhập khẩu đều phải chịu
sự điều tiết của luật Liên bang như: Luật về Thực phẩm, Dược phẩm, Luật về Bao bì và
Nhãn hàng, và một số phần của luật về Dịch vụ y tế. Ngoài ra còn có các quy định riêng
của Bộ Nông nghiệp Mỹ, hoặc Cục Nghề cá biển quốc gia Mỹ. Ngoài hệ thống pháp luật
liên bang, mỗi bang hoặc khu hành chính đều có hệ thống pháp luật riêng. Pháp luật bang
và khu hành chính không được trái với Hiến pháp của Liên bang. Bất cứ hàng hoá nào khi
nhập khẩu vào Mỹ phải đảm bảo các tiêu chuẩn như là các sản phẩm nội địa. Nhà xuất
khẩu và chế biến đều phải tuân theo các quy định của Mỹ, cụ thể là theo Bộ luật Liên
13
bang Mỹ CFR (Code of Federal Regulations) để đảm bảo sản phẩm không có độc tố, an
toàn trong sử dụng và được sản xuất trong điều kiện vệ sinh.
Bộ luật liên bang Mỹ 21 CFR, quy định từ ngày 18/12/1997 chỉ có các doanh
nghiệp nước ngoài nào đã thực hiện HACCP (Hazard Analysis Control Critical Point - Hệ
thống phân tích mối nguy và điểm kiểm soát tới hạn) mới được xuất khẩu vào thị trường
Mỹ. Kế hoạch HACCP nhấn mạnh vai trò của nhà sản xuất, thường xuyên ngăn ngừa và
xử lý kịp thời những mối nguy có thể xâm nhập vào sản phẩm từ khâu nguyên liệu tới sản
phẩm cuối cùng. Quy định này yêu cầu phải phân tích, kiểm soát dây chuyền công nghệ
sản xuất tại các điểm kiểm soát trong suốt quá trình để đảm bảo sản phẩm an toàn, vệ
sinh, thay cho phương pháp kiểm soát sản phẩm cuối cùng đã được áp dụng trước đây.
Đây là một trong những rào cản lớn nhất của việc xuất khẩu cá da trơn bởi vấn đề
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, đặt an toàn của con người lên trên hết nên Việt Nam
cần phải thực hiện nghiêm túc các khâu chế biến vệ sinh đạt chuẩn an toàn, đảm bảo
chính xác về liều lượng, phần trăm các thành phần có liên quan đến khâu chế biến, ghi gõ
các mức độ phần tram dị ứng nếu có.
Mới đây ta vừa nghe được tin 20 tấn cá da trơn bị Mỹ gửi trả về Việt Nam vì phát
hiện hóa malechite green hay hai doanh nghiệp ở Việt Nam bị nhiễm hóa chất? không
bàn đến việc hai thông tin trên có đúng hay không nhưng qua đó ta thấy được yếu tố vệ
sinh an toàn thực phẩm là hết sưc quan trọng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thực
phẩm
Quy định của Mỹ về kiểm dịch.
- Phụ gia thực phẩm
Theo luật FDCA bất kỳ chất nào được sử dụng trọng sản xuất, chế tạo, đóng gói, chế
biến, xử lý, bao gói, vận chuyển, hoặc lưu giữ thực phẩm, đều có thể được coi là phụ gia
thực phẩm. Các chất loại trừ: (i) các chất được chuyên gia công nhận là an toàn; (ii) các
chất được sử dụng phù hợp với phê chuẩn trước đó của FDA theo Luật Kiểm tra Sản
phẩm Gia cầm.
- Phẩm màu thực phẩm
Trừ những trường hợp được phép đặc biệt, tất cả các loại phẩm màu phải được FDA kiểm
tra và chứng nhận trước khi đưa vào chế biến thực phẩm. Việc chứng nhận chất phẩm
màu do một cơ quan nước ngoài tiến hành không được chấp nhận thay thế cho chứng
nhận của FDA.
NGUỒN: (Tạp chí Khoa học và Phát triển 2014, tập 12, số 6: 869-876, RÀO CẢN KỸ
THUẬT CỦA MỸ ĐỐI VỚI TÔM VÀ CÁ DA TRƠN XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
14
-Hoàng Thị Thu Hiền, Nguyễn Tuấn Sơn, Chu Thị Kim Loan)
http://www.vnua.edu.vn:85/tc_khktnn/Upload%5C16102014-tc%20so%206%208.pdf
c. Các yêu cầu về phương pháp sản xuất, khai thác và chế biến sản phẩm
Hiệp định TBTs của WTO quy định rằng các phương pháp sản suất và chế biến
sản phẩm xuất khẩu phải phù hợp với yêu cầu từ phía quốc gia nhập khẩu. thông thường
các yeei cầu này đều hướng đến môi trường tại nơi sản xuất. Các tiêu chuẩn PPMs được
áp dụng cho giai đoạn trước khi sản phẩm được tung ra bán ở thị trường và kiểm tra xem
quá trinh sản xuất có gây ô nhiễm môi trường hay không
Bộ Nông nghiệp Mỹ áp dụng tiêu chuẩn quy định cá da trơn của Việt Nam xuất
khẩu vào thị trường Mỹ phải đáp ứng các tiêu chuẩn ngang đồng với mặt hàng này sản
xuất tại Mỹ, từ quy trình sản xuất đến việc đóng gói và xuất khẩu. Đây là một trong
những rào cản khó khan đối với các doanh nghiệp Việt Nam bởi quy trình chăn nuôi chế
biến cá da trơn ở Việt Nam và Mỹ là khác nhau. Quy định này nhằm bảo vệ tới những
người dân nuôi trồng cá da trơn tại Mỹ.
Ta xem xét quy trinh chăn nuôi cá da trơn ở Mỹ và Việt Nam
Thứ nhất Mỹ không nuôi cá dàn trải, 94% cá da trơn Mỹ được nuôi ở bang
Alabama, Arkansas, Louisiana và Mississippi. Năm 1985, số lao động trong ngành công
nghiệp cá da trơn của Mỹ tại các bang này xấp xỉ 6.000 người và tạo ra 2,1 tỷ USD cho
nền kinh tế từng bang. Tới nay, số lao động của ngành này chỉ tăng lên gần 10.000 người
và mang lại 4 tỷ USD cho nền kinh tế của mỗi bang. Trong khi đó cá da trơn ở Việt Nam
nôi chủ yếu ở sông, dọc theo dòng sông Mêkong
Thứ hai việc nuôi với quy mô nhỏ không dàn trải có thể khiến doanh nghiệp Mỹ
kiểm soát được số lượng và chất lượng thức ăn cho cá. Thành phần nhiều nhất trong thức
ăn cho cá là khô đậu, thi thoảng chế thêm ngô hoặc gạo. Nguồn thức ăn thường xuyên
được kiểm tra độ ẩm, protein, chất béo và xơ, nguyên tố vi lượng theo định kỳ nhằm đảm
bảo giá trị dinh dưỡng. Các lô thức ăn đều được kiểm tra đặc điểm vật lý, bao gồm độ nổi
của thức ăn. Cá được nuôi ở môi trường kiểm soát, trong ao đất sét chứa nước sạch bơm
từ giếng ngầm và lọc bằng tầng ngậm nước phù sa. Một ao nuôi trung bình rộng 4 - 8 ha
và sâu 1,2 - 1,8 m. Thức ăn được chế biến theo công thức khoa học, dưới dạng viên giàu
protein và nổi trên bề mặt nước. Cá da trơn Mỹ đều được nuôi theo tiêu chuẩn HACCP và
được Bộ Thương mại Mỹ kiểm tra giám sát ngay tại nhà máy chế biến trước khi dán nhãn
hay đóng gói sản phẩm. trong khi đó ở Việt Nam ba đầu việc nuôi trồng cá đơn giản cho
ăn phân hữu cơ, không đảm bảo chất lượng, nuôi trồng cá bằng nguồn nước sông chứ
không là nước bơm sạch như Mỹ khiến khó đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm
15
Thứ ba về việc chế biến đóng gói sản phẩm cá da trơn ở Mỹ có thể xem là khép
kím tuyệt đối, đáp ứng các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm. trong khi đó Việt Nam
thì nuôi nổi trôi sông hay nuôi trong ao, khó có thể kiểm soát. Đặc vấn đề như ở Mỹ nếu
cá bị nhiễm bệnh thì trong quá trình chăn nuôi cẩn thận, theo dõi suýt sao, họ có thể phát
hiện và chữa trị kịp thời không để lây hại xung quanh. Nhưng ở Việt Nam theo mô hình
nuôi cá thả sông, khó có thể bắt kịp mầm bệnh của chúng, chỉ phát hiện khi số con nhiễm
bệnh la ra diện rộng, gây nhiều tổn thất.
Bên cạnh đó điều luật mới đưa ra áp dụng tiêu chuẩn quy định cá da trơn của Việt Nam
xuất khẩu vào thị trường Mỹ phải đáp ứng các tiêu chuẩn ngang đồng với mặt hàng này
sản xuất tại Mỹ nhưng Mỹ lại không công bố quy trình chan nuôi thật sự của mình, điều
đó tạo rào cản trở ngại lớn cho nông dân Việt phải tìm hiểu kỹ lưỡng, sáng tạo trong
phương pháp chăn nuôi của mình.
III.
Giải pháp cho việc xuất khẩu cá da trơn
1. Duy trì chất lượng đầu vào ổn định
Có thể nói rằng quy tình nôi trồng và chế biến xuất khẩu cá da trơn ở một số địa phương
là hoàn toàn cách biệt, quá trình nuôi trồng được thực hiện bởi những người dân sau đó
đem bán lại cho những nhà máy chế biến xuất khẩu. Vì vậy mà ngay từ những khâu đầu
vào đó chúng ta không đảm bảo được nguồn cá da trơn được nuôi trồng như thế nào. Đa
số là các hình thức chản nuôi rất lạc hậu, sử dụng liều lượng thuốc kháng sinh tăng, sản
xuất giống nhân tạo vì vậy mà đa số mặt bằng cá da trơn của chúng ta rất nhỏ bé so với
thị trường cá da trơn trên thế giới.
Đa số các doanh nghiệp Việt Nam chỉ chú trọng đến khâu chế biến, quan tâm đến số
lượng mà quên mất rằng tập trung từ khâu đầu vào là hết sức cần thiết. Ta phải đầu tư thật
vững chắc ở khâu đầu vào, từ những hộ nuôi trồng cá da trơn. Có thể doanh nghiệp chế
biến nhận nguồn cá da trơn ở hộ dân nào thì cung cấp những vốn nuôi trồng chất lượng
đạt chuẩn, thường xuyên mở những lớp cung cấp các kĩ năng nuôi trồng cá da trơn khoa
học, đạt chuân, thường xuyên công tác kiểm tra các hộ dân nuôi trồng cá , đầu tư, tạo điều
kiện thuận lợi cho họ để được nguồn cá da trơn đầu vào đạt chất lượng ổn định.
2. Đổi mới và nâng cao chất lượng công nghệ, chất lượng sản phẩm
Đầu vào ổn định thì khâu sản xuất chế biến đóng vai trò to lớn
Nghiên cứu, chọn tạo giống, nâng cao chất lượng đàn cá bố mẹ và con giống; sản
xuất giống, ương cá Tra giống và nuôi thương phẩm; Nghiên cứu điều kiện môi trường
nuôi, bệnh và các biện pháp phòng trị bệnh; Công nghệ sản xuất thức ăn, thuốc, chế phẩm
16
sinh học; Tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng cao và tổ chức sản xuất theo chuỗi giá
trị.
Hoàn thiện công nghệ, đầu tư sản xuất đối với các lĩnh vực: sản xuất giống và ương
nuôi cá da trơn chất lượng cao, nuôi thâm canh; Công nghệ nuôi cá Tra thâm canh an toàn
sinh học; Sản xuất các sản phẩm giá trị gia tăng và tận dụng tối đa nguồn nguyên liệu
trong chế biến cá tra.
Thương mại hóa và phát triển thị trường: Tăng cường thông tin thị trường, dự báo thị
trường nội địa và xuất khẩu cá Tra; xây dựng và quảng bá thương hiệu; Nâng cao năng
lực thương mại; Hỗ trợ đầu tư nâng cao năng lực nghiên cứu và phát triển công nghệ
( http://www.fistenet.gov.vn/e-nuoi-trong-thuy-san/b-nuoi-thuy-san/111e-an-khungsan-pham-quoc-gia-201cca-da-tron-viet-nam-chat-luong-cao-va-cac-san-pham-che-bientu-ca-da-tron201d/)
a. Nâng cao trình độ kĩ thuật của đội ngũ cán bộ, công nhân viên
Như chúng ta thấy rõ thời huy hoàng của xuất khẩu cá da trơn như những năm
2000, 2001 đã không còn nữa, các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng phải đối mặt với
nguy cơ lượng cá xuất khẩu di ngày càng thấp so với cùng kì năm trước, đối mặt với
những nguy cơ gửi trả hàng hóa xuất khẩu cá da trơn từ Mỹ với lkys do chưa đạt chuẩn,
dư thừa hóa chất cho phép… Chính vì vậy mà các doanh nghiệp Việt phải luôn trau dồi
trình độ kĩ năng chuyên môn của mình, gửi các phái đoàn nhân viên sang các nước học
tập công nghệ cao tiên tiến áp dụng cho nền sản xuất công nghệ ở Việt Nam. Có những
chính sách đãi ngộ khen thưởng, đánh giá đúng với năng suất chất lượng làm việc của
nhân viên giúp họ ngày càng có động cơ thăng tiến phát triển, đóng góp sức lực hết mình.
Bên cạnh đó cũng nên có những chính sách đãi ngộ giúp đỡ đối với những hộ nuôi
trồng cá da trơn. Ví dụ nếu con em của những hộ đó học giỏi, lại vốn thường xuyên tiếp
cận nuôi trồng cá da trơn với bố mẹ chúng nên sẽ rất am hiểu về cá da trơn, ta có thể đầu
tư, tạo điều kiện giúp đỡ chúng sang học tập ở nước ngoài nhằm tạo được nguồn cán bộ
công nhân viên có chất lượng sau này
PHẦN KẾT LUẬN
17
Gần 10 năm trước, cá tra được mệnh danh là “cá vàng” của Việt Nam khi sản lượng xuất
khẩu chiếm đến 99,9% thế giới. Lúc đó, cá tra tăng trưởng rất mạnh, các Việt Nam chế
biến và xuất khẩu cá tra ồ ạt thành lập, doanh thu xuất khẩu cá tra hàng năm lên đến cả tỉ
USD. Thế nhưng, từ năm 2011 đến nay, hình ảnh con cá tra Việt Nam không còn “sáng”
trên bản đồ thị trường thủy sản thế giới. Bởi cạnh tranh thị trường ngày càng khắc nghiệt,
ngoài Việt Nam thì còn có rất nhiều nước cung cấp cá da trơn chất lượng , yêu cầu tiêu
dùng ngày càng cao, trong khi đó, cả người nuôi và người chế biến vẫn đi sau một nhịp
với yêu cầu của nhà nhập khẩu.
Ngoài những hàng rào kĩ thuật thì bên cạnh đó là những hàng rào chống bán phá giá,
những rào cản khắc nghiệt klhacs cho các doanh nghiệp Việt Nam như theo chương trình
giám sát cá da trơn đối với cá tra từ Việt Nam mà phía Mỹ mới đưa ra, đến tháng 9/2017,
nếu các nước không nộp danh sách doanh nghiệp xuất khẩu vào Mỹ và các chứng minh
về chương trình an toàn vệ sinh thực phẩm quốc gia theo yêu cầu của Cục Thanh tra và
An toàn thực phẩm Mỹ (FSIS) thì sẽ không được tiếp tục xuất khẩu. Khó khăn tram bề
khiến các doanh nghiệp Việt phải hết sức thận trọng, đầu tư tập trung phát triển chuyên
môn trước sự phát triển kinh tế hội nhập, làm giàu không khó nhưng phải trải qua những
thử thách đầy khắc nghiệt gian nan.
Chính phủ và nhà nước cần có những chính sách thiết thực giúp tạo cơ hội cho những
donh nghiệp xuất khẩu phát triển, cần có những chương trình, những đề án giúp đỡ nâng
cao tay nghề của các hộ dân nuôi trồng cá, có những chính sách giúp đỡ cải thiện cuộc
sống bởi khi đảm bảo được cuộc sống của những hộ dân nuôi trồng cá da trơn được đầy
đủ thì quá trình nuôi trồng của họ mới được phát huy hết tác dụng bởi khi điều kiện vật
chất đã đầy đủ thì con người ta sẽ chú trọng đến các vấn đề an toàn, tôn trọng vì thế mà
chất lượng đầu vào cá da trơn sẽ ổn định và chất lượng hơn
18
19
- Xem thêm -