KINH TẾ ĐỐI NGOẠI NƯỚC TA HIỆN NAY: TÌNH HÌNH
VÀ CÁC GIẢI PHÁP
Tác giả: PGS-TSKH Võ Đại Lược
Sự phát triển kinh tế đối ngoại nước ta trong thời gian vừa qua đã
có ý nghĩa hết sức quan trọng, thậm chí là quyết định đối với sự
tăng trưởng kinh tế của nước ta. Nước ta đã đạt được nhiều thành
tựu cả về tăng trưởng xuất nhập khẩu, thu hút vốn nước ngoài và
phát triển du lịch. Bài viết này sẽ đề cập đến hai vấn đề: phân tích
hiện trạng và vấn đề; nêu ra các quan điểm phát triển và giải pháp.
I. Hiện trạng và vấn đề
Việc đổi mới chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước đã là
cơ sở cho những thành công trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại,
nhưng đồng thời thực tiễn những năm vừa qua cũng đã bộc lộ
nhiều vấn đề cần phân tích lý giải. Dưới đây xin nêu ra những
điểm chính của tình hình và một số vấn đề có thể là cấp bách.
1. Kinh tế đối ngoại đã đạt tốc độ tăng trưởng khá cao trong cả
thập kỷ 90, mặc dù có sự giảm sút tốc độ từ năm 1999
Lý do cho sự tăng trưởng cao của các lĩnh vực kinh tế đối ngoại
trên có thể là tương đối rõ, nhưng lý do cho sự sụt giảm tốc độ tăng
trưởng kinh tế đối ngoại trong những năm gần đây còn có thể có
những ý kiến khác nhau. Đúng là có lý do khách quan do suy giảm
kinh tế toàn cầu và khu vực, do giá hàng xuất khẩu của ta giảm
nghiêm trọng... Tuy nhiên, Trung Quốc cũng chịu tác động bởi
những hoàn cảnh khách quan bên ngoài như nước ta nhưng cả giá
trị xuất khẩu lẫn FDI vào Trung Quốc trong vài năm nay vẫn có
mức tăng trưởng cao. Do vậy, việc giảm tăng trưởng của cả giá trị
xuất khẩu lẫn FDI vào nước ta trong thời gian qua không chỉ do
nguyên nhân khách quan, mà có thể lại do những nguyên nhân chủ
quan là chính.
Trong các nguyên nhân chủ quan đó, có thể kể ra các nguyên nhân
chính sau đây:
Trước hết, đó là tình trạng bảo hộ mậu dịch không giảm đáng kể
mà còn gia tăng. Mức thuế suất nhập khẩu bình quân đã được giảm
từ trên 16% xuống còn trên 13% trong thời gian 1996 - 1998,
nhưng đã tăng lên tới 16% vào năm 2001. Khung thuế nhiều và
nhiều mặt hàng nhập khẩu còn chịu mức thuế cao; chỉ có 20% số
dòng thuế được áp dụng mức thuế dưới 5%. Việc hoàn thuế cho
các hàng hoá nhập để xuất có quá nhiều thủ tục phức tạp phiền hà
và kém hiệu lực. Các biện pháp phi thuế quan nhằm bảo hộ mậu
dịch vẫn còn được áp dụng đối với nhiều lĩnh vực, đặc biệt là sự
quản lý của các bộ chuyên ngành. Hàng rào bảo hộ mậu dịch cao
này tưởng như chỉ có tác dụng ngăn chặn các dòng hàng nhập
khẩu, nhưng trên thực tế chúng đã tác động tiêu cực tới toàn bộ
hoạt động kinh tế đối ngoại. Vì khi đánh thuế cao vào các hàng hoá
nhập khẩu, giá bán của chúng và các hàng hoá liên quan ở trong
nước đã tăng lên. Các nhà xuất khẩu phải sử dụng các hàng hoá giá
cao này, công nhân viên của họ cũng phải tiêu dùng các hàng hoá
nhập khẩu giá cao, mà mức cao giá này ước tính vào khoảng 20 100% tuỳ theo mặt hàng. Do vậy đã đẩy chi phí của các hàng xuất
khẩu tăng lên, giảm khả năng cạnh tranh của chúng, và tác động
xấu đến xuất khẩu. Hàng rào bảo hộ mậu dịch cao chỉ khuyến
khích sản xuất thay thế nhập khẩu, FDI cũng tự nhiên phải theo
hướng này, trong khi thị trường nội địa của ta nhỏ bé và ngày càng
bão hoà, do vậy FDI không tăng lên được và thậm chí đã chậm lại.
Hàng rào bảo hộ còn ảnh hưởng xấu tới cả du lịch, vì giá cả tiêu
dùng ở Việt Nam cao, không hấp dẫn khách du lịch.
Thứ hai, chi phí sản xuất của ta nói chung còn cao so với các quốc
gia trong khu vực, do vậy lợi thế cạnh tranh bị giảm thiểu.
Chi phí sản xuất phụ thuộc vào các yếu tố: thuế nhập khẩu, thuế
doanh thu,VAT, các phụ phí, tiền lương, giá các dịch vụ, công
nghệ được sử dụng...
Thuế nhập khẩu, kể cả hàng rào phi thuế quan, của nước ta hiện
nay có lẽ ở vào hàng cao nhất khu vực, cao hơn cả Trung Quốc,
trong khi mức thuế quan của nhiều quốc gia Đông Á hiện chỉ còn
vào khoảng 4 - 6%. Thuế doanh thu của ta ở mức 32%, cũng vào
hàng cao nhất khu vực. Thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, phụ
thu... đều ở mức cao. Thuế thu nhập đối với người nước ngoài của
ta hiện ở mức cao nhất trong khu vực, là 50%, trong khi ở
Inđônêxia là 30%, ở Thái Lan là 37%, ở Trung Quốc là 45%. Mức
thuế thu nhập cao này đã làm cho người nước ngoài không muốn
làm việc ở Việt Nam.
Tính chung chi phí lao động của nước ta hiện nay tương tự với
Indonexia, và thấp hơn các nước ASEAN-4, nhưng mức thấp này
đã giảm dần.
Giá các dịch vụ như liên lạc, viễn thông, hàng không, điện, nước...
đều ở mức cao: chi phí điện cao hơn 4 nước ASEAN: Xingapo,
Malaixia, Thái Lan, Inđônêxia; giá nước cao hơn Philipin và gần
ngang với Malaixia, Thái Lan; chi phí liên lạc, viễn thông vào loại
cao nhất khu vực; chi phí vận tải hàng không, đường biển cao hơn
cả Trung Quốc.
Công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp Việt Nam khá lạc
hậu so với các quốc gia khác trong khu vực. Ví dụ, xí nghiệp sản
xuất xi măng Sao Mai do nước ngoài đầu tư sản xuất ở nước ta 1
tấn xi măng chi phí 12 USD, trong khi các xí nghiệp sản xuất xi
măng của ta chi phí 26 USD.
Chi phí sản xuất của ta cao như vậy, nên khả năng cạnh tranh của
hàng Việt Nam bị giảm thiểu cả ở thị trường trong lẫn ngoài nước.
Thứ ba, chính sách tiền tệ và tín dụng hỗ trợ hoạt động kinh tế đối
ngoại yếu.
Tỷ giá giữa đồng VN với USD và các đồng tiền khác tuy đã được
nhiều lần điều chỉnh kể từ 1996, nhưng hiện vẫn còn cao. Theo
một số chuyên gia nước ngoài, mức cao này khoảng trên 10%, và
đã tác động tiêu cực đến hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị
trường ASEAN, Nhật Bản và Liên minh châu Âu, trừ Trung Quốc
và Mỹ. Đồng VN cao giá và chưa do thị trường đích thực xác định
đã tác động xấu không chỉ tới xuất khẩu mà cả tới FDI và du lịch.
Đồng tiền Việt Nam cho đến nay, chưa có thể chuyển đổi tự do.
Trong khi tổng giá trị xuất nhập khẩu của nước ta đã ngang bằng
tổng GDP, thì đây là một vấn đề rất bất lợi. Buôn bán quốc tế lớn
đến thế, mà đồng tiền không chuyển đổi tự do được, có nghĩa là
các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu của ta phải chịu các chi phí
chuyển đổi tiền với thủ tục phiền hà và tốn kém thời gian. Đã thế
họ còn phải chịu thiệt do quy định về kết hối ngoại tệ, tiền của họ
thu được do xuất khẩu, khi nhập khẩu cần ngoại tệ lại phải xin
phép ngân hàng cấp.
Cung cấp tín dụng cho xuất khẩu là một trong các yếu tố quyết
định sự thành công của xuất khẩu, thế nhưng ở nước ta việc cung
cấp các tín dụng này, đặc biệt là cung cấp vốn lưu động cho các
nhà xuất khẩu gặp nhiều trở ngại. Những trở ngại này liên quan tới
những thủ tục vay vốn phiền hà, những quy chế phức tạp về thế
chấp, nhất là trong điều kiện thị trường bất động sản hoạt động rất
kém, sự phân biệt đối xử đối với các loại hình doanh nghiệp, và
chưa có cơ chế tái chiết khấu các thương phiếu... Việc cung cấp tín
dụng yếu kém đã tác động xấu cả tới việc thu hút vốn FDI và du
lịch, vì các nhà đầu tư ít có cơ hội tiếp cận với các nguồn vốn trong
nước để phát triển kinh doanh.
Ngoài ba nguyên nhân trên còn có thể có những nguyên nhân khác
như: lao động Việt Nam ít được đào tạo, không lành nghề; thể chế
hành chính luật pháp không minh bạch; bộ máy quản lý yếu kém
và quan liêu tham nhũng và...
2. Nước ta đã trở thành nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về
gạo, cà phê, song đồng thời cũng phải chịu những tổn thất do
giá gạo và cà phê suy giảm.
Kể từ năm 1989, nước ta trở thành nước xuất khẩu gạo, sau đó là
cà phê với vị trí thứ hai, thứ ba thế giới. Song do giá cả các mặt
hàng này hạ thấp liên tục từ cuối thập kỷ 1990 đến nay đã gây cho
ngành sản xuất gạo và cà phê nước ta những tổn thất rất lớn. Ngay
trong năm 2001, giá gạo còn tiếp tục hạ thấp tới 12,2%, và giá cà
phê hạ thấp 39,9% so với năm 2000.
Thực tế của thế giới cho thấy, trong vòng vài thập kỷ gần đây, giá
cả các hàng nông phẩm và nguyên liệu bị hạ thấp liên tục và không
ổn định, do những thay đổi về công nghệ sản xuất và sử dụng cũng
như những thay đổi trong cơ cấu tiêu dùng. Trong những năm tới
đây chưa có những dự báo đảm bảo chắc chắn là giá các hàng nông
sản và nguyên liệu không giảm nữa. Việc xuất khẩu hàng nông
phẩm vào thị trường Mỹ như cá basa và tôm của ta gần đây lại còn
bị các nhà nuôi cá tôm Mỹ phản ứng và gây rắc rối nhằm bảo vệ
thị trường sản xuất của họ.
Vấn đề là thị trường thế giới cho đến nay gần như đã bão hòa, và
sản phẩm nào cũng đều đã có các ông chủ chiếm giữ thị phần.
Nước ta là một thị trường mới nổi, nên ta sản xuất thêm nhiều gạo,
cà phê, cá basa..., thì người khác phải giảm sản xuất những mặt
hàng này, nếu không sẽ dẫn tới tình trạng dư thừa, cung vượt cầu,
giá cả sẽ hạ, hoặc dẫn tới những giải pháp bảo hộ thương mại. Một
trong các lý do chủ yếu làm cho giá gạo và cà phê giảm liên tục là
nước ta đã gia tăng xuất khẩu gạo từ 2,0 triệu tấn năm 1995 lên tới
trên 4 triệu tấn năm 1999 và từ 248 ngàn tấn cà phê năm1995 lên
tới trên 500 ngàn tấn năm 2000. Cung về gạo và cà phê đã vượt
cầu, do đó giá liên tục giảm. Đứng trước tình trạng giá gạo và cà
phê giảm, những người sản xuất gạo và cà phê không có cách gì
chống đỡ, ngoài việc phải thu hẹp sản xuất. ở đây cung cầu của thị
trường đã điều tiết giá cả và sản xuất. Người sản xuất buộc phải
thu hẹp sản xuất khi giá cả thị trường đã thấp hơn chi phí sản xuất.
Trường hợp cá basa của ta xuất khẩu vào Mỹ lại có một sự khác
biệt là thị trường Mỹ có cả người tiêu dùng cá basa và người sản
xuất cá da trơn tương tự. Do cá basa của ta rẻ hơn, thâm nhập và
chiếm lĩnh thị trường Mỹ với thị phần khoảng 2% đã đặt những
người nuôi cá basa ở Mỹ trước nguy cơ phá sản. Trong trường hợp
này người dân Mỹ nuôi cá đã kiện lên chính phủ Mỹ và có thể có
ba khả năng giải quyết: Nếu Việt Nam bán phá giá thì phải chịu
mức thuế 190%; Nếu không, Chính phủ Mỹ có thể áp dụng biện
pháp hạn chế định lượng bằng cô-ta nhập khẩu cá basa; Hoặc Mỹ
sẽ tăng thuế nhập khẩu tạm thời, có thời hạn lên đến mức đủ bảo
vệ những người nuôi cá. Cuối cùng là Mỹ đã tăng thuế nhập khẩu
cá basa Việt Nam vào Mỹ.
Từ hai trường hợp trên đây ta có thể thấy rằng việc nghiên cứu tìm
hiểu thị trường, xác định dung lượng các thị trường, các giới hạn
của thị trường và khả năng thâm nhập tối đa của hàng Việt Nam
vào các thị trường đó là một vấn đề rất quan trọng. Nước ta đã xuất
khẩu cà phê vào thị trường Mỹ mà không gặp trở ngại gì, vì người
Mỹ không trồng cà phê, nhưng giới hạn lại là tổng cầu về cà phê
trên thế giới. Không có sự nghiên cứu đánh giá chính xác tổng cầu
này chắc sẽ gây ra những tổn hại cho ta khi gia tăng quá mức một
mặt hàng xuất khẩu nào đó.
3. Sự phát triển vượt trội của khu vực kinh tế đối ngoại
Kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta năm 2001 đã đạt tới 31,2 tỷ
USD, nghĩa là xấp xỉ với tổng giá trị GDP, trong đó giá trị xuất
khẩu khoảng 15 tỷ. Trước thập kỷ 1990, tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu so với GDP của nước ta chỉ vào khoảng 30%. Tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu so với GDP của Trung Quốc hiện nay cũng
chỉ vào khoảng trên 30%. Các nước Xingapo, Malaixia, Thái Lan
đã có tỷ trọng so sánh giữa giá trị xuất nhập khẩu và GDP cao hơn
ta.
Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đăng ký vào Việt Nam
đến năm 2001 là 38,8 tỷ USD. Tỷ trọng của vốn FDI được thực
hiện trong tổng đầu tư xã hội trong khoảng 20% - 32%, tức là năm
cao nhất (1996) đã đạt tới trên 32%; những năm đạt thấp vào
khoảng trên 20%. Nếu tính cả các nguồn vốn nước ngoài khác như
vốn ODA và vốn vay thương mại, thì nguồn vốn nước ngoài đã
chiếm khoảng gần 50% tổng đầu tư xã hội vào giữa những năm
1990 (những năm sau tỷ trọng này đã giảm).
Ngành du lịch Việt Nam đã có bước phát triển đáng kể. Số khách
du lịch quốc tế vào Việt Nam đã tăng đều, năm 2001, đạt 2,3 triệu
khách và hiện có hàng trăm ngàn lao động Việt Nam đang làm việc
ở nước ngoài, đem lại nguồn thu nhập hàng tỷ USD hàng năm cho
đất nước.
Vấn đề đặt ra là một khi giá trị xuất nhập khẩu xấp xỉ bằng tổng
GDP, vốn FDI và các nguồn vốn nước ngoài khác đã chiếm tới gần
50% tổng vốn đầu tư xã hội, số khách du lịch vào Việt Nam lên tới
2,3 triệu người, thì các thể chế kinh tế nước ta không thể vẫn mang
nặng tính chất hướng nội như trước được. Đồng tiền Việt Nam
không chuyển đổi được đã gây thiệt hại cho cả hoạt động xuất
nhập khẩu, đầu tư nước ngoài và du lịch. Người nước ngoài và cả
người Việt Nam kinh doanh đối ngoại sẽ nản lòng vì việc chuyển
đổi ngoại tệ khó khăn, tốn kém. Các vấn đề về tỷ giá, thuế quan,
hải quan, những quy chế về đầu tư nước ngoài, chính sách xuất
nhập cảnh... cần được xem xét lại và đổi mới thích hợp với những
điều kiện mới của khu vực kinh tế đối ngoại đã gia tăng vượt trội.
Kinh tế đối ngoại và đối nội thực chất chỉ là hai mặt của một nền
kinh tế, vì vậy những thay đổi về kinh tế đối ngoại đòi hỏi kinh tế
đối nội phải thay đổi theo. Chính sự tiến triển không kịp của kinh
tế đối nội sẽ cản trở kinh tế đối ngoại phát triển và ngược lại. Nước
ta đang ở thời điểm kinh tế đối nội không phát triển kịp, cản trở
kinh tế đối ngoại - luật pháp thay đổi chậm, các công ty chậm đổi
mới và yếu kém, điều hành của bộ máy quản lý kém hiệu lực...
4. Đội ngũ các doanh nghiệp hoạt động kinh tế đối ngoại đã
tăng cả về số lượng và chất lượng nhưng vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay
Trước những năm 1990 các doanh nghiệp hoạt động kinh tế đối
ngoại chỉ có mấy trăm công ty xuất nhập khẩu và du lịch quốc tế
và tất cả đều là của quốc doanh. Nay đội ngũ doanh nghiệp hoạt
động kinh tế đối ngoại đã lên đến hàng nghìn gồm cả quốc doanh,
tư nhân và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đó là một
bước tiến to lớn cần phải khẳng định.
Đội ngũ các doanh nghiệp hoạt động kinh tế đối ngoại có một vai
trò rất quan trọng, nếu không nói là quyết định đối với sự phát triển
kinh tế đất nước. Thực tế thế giới cho thấy các doanh nghiệp này
hoạt động rất đa dạng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, từ sản xuất,
thương mại dịch vụ đến bảo hiểm... Chính tính đa dạng này mới
đảm bảo cho hoạt động kinh tế đối ngoại có hiệu quả. Một doanh
nghiệp sản xuất xuất khẩu muốn có hiệu quả cần phải vay mượn
vốn nước ngoài (vì vốn trong nước không đủ và nhiều khi quá đắt),
cần phải có dịch vụ tư vấn nước ngoài (vì tư vấn trong nước chưa
đủ trình độ), cần chuyển đổi ngoại tệ, cần bảo hiểm rủi ro, cần thuê
mướn chuyên gia, cần marketing quốc tế... Ở nước ta các doanh
nghiệp hoạt động kinh tế đối ngoại thường mới hoạt động ở hai
lĩnh vực: sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu, ở các lĩnh vực
khác ta chưa có, nhưng cũng chưa cho phép các công ty nước
ngoài hoạt động.
Hoạt động của các công ty kinh doanh đối ngoại phải là xuyên
quốc gia, để có thể lợi dụng được những lợi thế so sánh của các
nước khác. Công ty Honda của Nhật đã có chi nhánh ở nhiều nước,
vì tại mỗi một nước đó Honda có thể tận dụng được lợi thế hoặc về
tài nguyên, hoặc về lao động, hoặc về vị trí địa lý..., do vậy có thể
giảm thiểu các chi phí. Các công ty hoạt động xuất khẩu của ta nói
chung chưa hoạt động xuyên quốc gia. Đã thế ta còn có chính sách
nội địa hóa bắt buộc, ép các công ty nước ngoài phải sản xuất càng
nhiều các linh kiện ở Việt Nam càng tốt. Chính sách này đã triệt
tiêu mất lợi thế hoạt động của các công ty xuyên quốc gia. Vì các
công ty này chỉ muốn lợi dụng lao động rẻ và vị trí thuận lợi của
Việt Nam để lắp ráp rồi xuất vào Đông Nam Á. Nếu ta ép họ phải
nội địa hóa cao, có nghĩa là ta ép họ phải sản xuất những thứ linh
kiện mà nước ta không có lợi thế, do vậy là đi ngược lại lợi ích của
họ. Kinh nghiệm của nhiều nước châu Á cho thấy để có một đội
ngũ các công ty hoạt động xuyên quốc gia cần nhiều thời gian.
Bước đi đầu tiên là thu hút các công ty xuyên quốc gia nước ngoài
vào hoạt động ở nước ta, biến họ thành các công ty của ta. Những
công ty này chính là hình mẫu để các công ty của ta đi theo và phát
triển. Nước ta đang đi theo hướng này, nhưng chúng ta mới chỉ cho
phép họ xuất nhập khẩu những gì họ đã đăng ký kinh doanh. Trong
thời gian tới phải cho họ hoạt động toàn diện hơn.
Các công ty kinh doanh đối ngoại của các quốc gia hiện nay đều là
những công ty xuyên quốc gia tư nhân, hoặc cổ phần có tiềm năng
to lớn về cả kinh tế, kỹ thuật, nhân lực, thị trường... Trong khi các
công ty kinh doanh đối ngoại của ta cho đến nay chủ yếu vẫn là
các công ty quốc doanh, hoặc là quốc doanh liên doanh với nước
ngoài. Các công ty tư nhân và nhất là tư nhân 100% vốn trong
nước còn bị phân biệt đối xử trong hoạt động kinh tế đối ngoại,
mặc dù gần đây Nhà nước ta đã cho phép khu vực tư nhân được
hoạt động xuất nhập khẩu và liên doanh liên kết với nước ngoài.
Có thể nói, nếu các công ty hoạt động kinh tế đối ngoại của nước
ta vẫn chủ yếu là các công ty quốc doanh, không hoạt động xuyên
quốc gia, không đa dạng hóa các hoạt động... thì lợi thế so sánh
của các công ty này trên thị trường quốc tế chắc chắn sẽ khó tránh
khỏi thua kém các công ty xuyên quốc gia của các nước khác.
II. Các quan điểm và giải pháp
1. Các quan hệ kinh tế đối ngoại là quan hệ thị trường
Các quan hệ bên trong nền kinh tế nước ta hiện nay là quan hệ thị
trường, còn các quan hệ phi thị trường thì rất ít và có lẽ chỉ tồn tại
trong viện trợ ODA, viện trợ không hoàn lại, tài trợ của các loại
quỹ tư nhân... Tính chất thị trường đậm nét của các quan hệ kinh tế
quốc tế đã buộc các quan hệ kinh tế đối ngoại của mọi quốc gia
trước hết phải tuân thủ các nguyên tắc của thị trường: sản xuất lưu
thông phải theo cung cầu của thị trường thế giới; tỷ giá giữa các
đồng tiền cũng do thị trường thế giới quy định, giá cả của các hàng
hoá và dịch vụ lưu thông trên thị trường thế giới là giá cả thị
trường thế giới; giá chứng khoán, công trái... cũng phải do thị
trường quy định. Chính phủ quốc gia có thể điều tiết, có khi khá
chặt chẽ, các quan hệ kinh tế bên trong của một quốc gia, nhưng
chỉ có thể điều tiết một cách rất hạn chế những quan hệ kinh tế
quốc tế, chúng có một không gian rộng rãi hơn để tự do vận động.
Thực tế của thế giới cho thấy, các quan hệ kinh tế đối ngoại của
một quốc gia càng vận động theo các nguyên tắc của thị trường thì
nền kinh tế của quốc gia ấy càng có thể tham gia sâu rộng và có
hiệu quả vào quá trình hội nhập toàn cầu. Thực tế của các nước
ASEAN và Đông Á đã cho thấy điều đó: giá cả trong nước càng
sát với giá thị trường thế giới, người tiêu dùng trong nước càng
được hưởng lợi do mua hàng không phải chịu thuế nhập khẩu cao,
các lợi thế cạnh tranh của quốc gia được phát huy; tỷ giá thị trường
đảm bảo mức giá của đồng tiền quốc gia phù hợp với giá thực tế,
sẽ tạo điều kiện đảm bảo sức cạnh tranh của nền kinh tế; giá chứng
khoán, cổ phiếu có tính thị trường quốc tế sẽ tạo điều kiện khai
thông dòng vốn quốc tế đi vào trong nước...
Do vậy, ta cần có một lộ trình chủ động và tích cực để chuyển các
quan hệ kinh tế đối ngoại vận động theo các nguyên tắc của thị
trường. Chúng tôi cho rằng, nếu năm 2006 ta thực hiện đầy đủ các
cam kết với AFTA và các cam kết chủ yếu trong Hiệp định thương
mại với Hoa Kỳ, nếu 2004 nước ta được gia nhập WTO, thì lộ
trình chuyển các quan hệ kinh tế đối ngoại nước ta vận động đầy
đủ theo các nguyên tắc của thị trường phải hoàn tất vào cuối năm
2006. Vì những cam kết quốc tế này buộc nước ta phải xoá bỏ
hàng rào phi thuế quan và hạ thấp thuế quan xuống vào khoảng 5 10%, thừa nhận rộng rãi các quyền kinh doanh của các công ty
nước ngoài tại nước ta trên nhiều lĩnh vực, kể cả dịch vụ. Trong
tình hình đó, nếu giá các hàng hoá và dịch vụ nước ta không theo
sát giá thế giới, tỷ giá vẫn không do thị trường định, đồng VN vẫn
không chuyển đổi được, thị trường vốn chưa khai thông với thị
trường thế giới, các chủ kinh doanh của ta vẫn không có đủ các
quyền kinh doanh..., thì nền kinh tế nước ta sẽ hội nhập vào nền
kinh tế thế giới với những khiếm khuyết và hạn chế to lớn, làm
giảm thiểu vị thế cạnh tranh so với các nền kinh tế trong khu vực.
2. Bảo hộ mậu dịch và phát triển kinh tế đối ngoại
Có quan điểm cho rằng có thể thực thi chính sách bảo hộ mậu dịch,
đồng thời đẩy mạnh xuất khẩu và thu hút các nguồn vốn nước
ngoài. Thực tế thế giới hiện nay không cho phép các quốc gia thực
hiện chính sách này. Một nguyên tắc gần như phổ biến trong các
quan hệ quốc tế hiện nay là: một quốc gia muốn mở cửa thị trường
nước khác thì đồng thời phải mở cửa thị trường nước mình. Các
nước phát triển đến cuối thập kỷ 1990 đã mở cửa nền kinh tế của
họ ở mức rất cao: thuế quan trung bình chỉ còn khoảng 2 - 4%,
hàng rào phi thuế quan bị bãi bỏ về cơ bản. Nếu một nước nào đó
muốn đặt mức thuế quan cao cho một sản phẩm nhập khẩu, lập tức
sẽ bị các nước đối tác kiện ra WTO và có thể bị trả đũa. Việc Mỹ
năm 2002 đơn phương tăng thuế nhập khẩu thép lên 30% là một ví
dụ.
Bảo hộ mậu dịch trên thực tế đã có hại cho sự phát triển kinh tế đối
ngoại: việc tăng giá các sản phẩm trong nước đã làm tăng chi phí
đối với cả sản xuất xuất khẩu cũng như phục vụ nhu cầu trong
nước; che chở cho các doanh nghiệp trong nước sản xuất kém hiệu
quả mở rộng sản xuất - chống lại các giải pháp hội nhập quốc tế;
khuyến khích xu hướng thay thế nhập khẩu - giảm thiểu cơ hội mở
rộng khả năng thu hút đầu tư nước ngoài...
Song có quan điểm cho rằng các nước kém phát triển cần một lộ
trình bảo hộ mậu dịch để tham gia có hiệu quả vào hội nhập quốc
tế; lộ trình này càng dài càng tốt, vì các doanh nghiệp trong nước
càng có nhiều thời gian trưởng thành để đua tranh trên thương
trường quốc tế. Đúng là các nước kém phát triển cần có một lộ
trình hội nhập quốc tế, nhưng lộ trình này không phải là một lộ
trình gia tăng chính sách bảo hộ mậu dịch để rồi xoá bỏ nó, mà là
một lộ trình bãi bỏ dần các hàng rào bảo hộ.
Thường lộ trình này kéo dài 2 - 5 năm, tuỳ theo từng ngành kinh tế
kỹ thuật. Xét về hiệu quả kinh tế thuần tuý, thì không cần đến lộ
trình này, lý thuyết kinh tế học hiện đại và thực tế hàng chục năm
qua đã chứng minh cho luận điểm này. Nhưng xét về mặt chính trị
và xã hội, thì lại cần có một lộ trình như vậy để đổi mới cơ cấu sản
xuất, giải quyết tình trạng thất nghiệp, đào tạo lại nghề nghiệp, giữ
ổn định xã hội... Một nhà nước càng có năng lực giải quyết tốt các
vấn đề trên, thì lộ trình hội nhập quốc tế càng được rút ngắn và
ngược lại.
Có người lo ngại rằng việc giảm thuế nhập khẩu sẽ làm giảm
nguồn thu ngân sách. Thực tế của thế giới cho thấy ở những quốc
gia giảm thuế nhập khẩu, nguồn thu ngân sách không những không
giảm mà còn tăng, do diện thu thuế tăng, do tình trạng trốn lậu
thuế, tham nhũng giảm...
Dựa vào những phân tích trên đây, nước ta cần có một lộ trình hội
nhập quốc tế chủ động và tích cực phù hợp với thực tế. Lộ trình
này một mặt tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước tự
vươn lên, mặt khác dùng sức ép của việc giảm dần hàng rào bảo hộ
để buộc các doanh nghiệp phải vươn lên, nếu không sẽ bị đào thải.
Thực tế lịch sử cho thấy các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp tư
nhân, không mấy khi tự đổi mới để vươn lên, mà thường chỉ đổi
mới khi có sức ép bên ngoài đặt họ trước sự lựa chọn - hoặc phải
phá sản hoặc phải đổi mới. Một lộ trình hội nhập quốc tế tích cực,
giảm hàng rào bảo hộ chính là sức ép cần thiết bên ngoài đó.
3. Xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng là một tiền đề để
mở rộng kinh tế đối ngoại
Các cơ sở hạ tầng cần cho hoạt động kinh tế đối ngoại là các cảng
biển, đặc biệt là cảng trung chuyển quốc tế, sân bay quốc tế, các
đường cao tốc nối từ các trung tâm kinh tế đến sân bay và cảng
biển, hệ thống liên lạc, viễn thông, cung cấp điện,...
Về cảng biển, theo các chuyên gia nước ngoài, hiệu suất cảng biển
Việt Nam được xếp thứ bảy trong số 9 nước Đông Á mà họ đánh
giá, Việt Nam xếp sau Xingapo, Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc,
Thái Lan, chỉ xếp trên Trung Quốc và Inđônêxia. Phải nói thêm là
phần lớn hàng xuất khẩu của Trung Quốc đều qua cảng Hồng
Kông, nên Việt Nam chỉ hơn Inđônêxia. Các hãng vận tải biển
nước ngoài xếp cảng Việt Nam vào nhóm độc quyền kiểu "Cácten"
vì tất cả các cảng do nhà nước sở hữu và vận hành. Nước ta chưa
có cảng trung chuyển quốc tế, nên hàng xuất khẩu của ta phải trung
chuyển qua các cảng Hồng Kông, Xingapo, làm tăng thêm chi phí
khoảng 20 - 30%. Phí cảng của ta do Ban vật giá chính phủ định
hiện là rất cao, trong khi công nghệ bốc dỡ kém, quản lý lạc hậu,
thời gian giải phóng tàu lâu, càng làm tăng thêm chi phí cho người
xuất khẩu.
Về hàng không, ta có 2 sân bay quốc tế ở Hà Nội và thành phố Hồ
Chí Minh, nhưng đều kém các sân bay quốc tế trong khu vực. Theo
quy định hiện nay các hãng hàng không nước ngoài không được
phép có "quyền tự do thứ năm" trong việc mang hàng vào và ra
khỏi Việt Nam từ các điểm trung chuyển như Băng Cốc, Hồng
Kông, do vậy công suất đều thừa, không sử dụng hết. Giá vé máy
bay của ta hiện còn cao so với khu vực, cùng với tình trạng luôn
phải chậm giờ bay, hoãn chuyến càng làm giảm sức hấp dẫn của
hàng không Việt Nam.
Về đường cao tốc, nước ta mới có được vài trăm km đường cao tốc
- một con số quá bé nhỏ so với các quốc gia trong khu vực. Số
lượng đường cao tốc ít ỏi đã làm cho hàng hoá chậm đến cảng và
sân bay quốc tế, làm tăng thêm chi phí và thời gian.
Về cung cấp điện, tiêu dùng điện theo đầu người ở nước ta hiện
vào khoảng 232 Kwh, dưới mức trung bình của các nước có thu
nhập thấp 363 Kwh, dưới xa mức trung bình của các nước khu vực
châu Á - Thái Bình Dương - 787 Kwh. Tình trạng bị cắt điện và
tăng giảm điện áp đã gây thiệt hại đáng kể cho các nhà máy sản
xuất hàng xuất khẩu. Giá điện của Việt Nam bán cho các nhà sản
xuất được xếp vào loại cao so với khu vực.
Về liên lạc, viễn thông, tuy đã có nhiều tiến bộ, nhưng còn những
hạn chế sau: giá dịch vụ viễn thông quá đắt so với khu vực; giá
thuê bao đường truyền được quốc tế đánh giá là cực kỳ cao với
nhiều thủ tục phiền hà; tốc độ truy cập Internet quá chậm; thương
mại điện tử không phát triển.
Các cơ sở hạ tầng của kinh tế đối ngoại có ý nghĩa cực kỳ quan
trọng đối với sự phát triển hiệu quả của nó. Người ta đã tính rằng
có đến trên 70% những khác biệt về giá trị xuất khẩu trên đầu
người là phụ thuộc vào trình độ phát triển của cơ sở hạ tầng. Nếu
không có đủ cảng, sân bay quốc tế, điện, đường... thì có nghĩa là
chỉ có một bộ phận dân cư tham gia kinh tế đối ngoại
Những yếu tố của cơ sở hạ tầng không những phải được xây dựng
hiện đại mà còn phải đồng bộ, và trong một thời hạn càng ngắn
càng tốt. Chỉ cần một trong các yếu tố trên khiếm khuyết cũng đủ
gây tổn hại cho các hoạt động kinh tế đối ngoại. Và nếu chúng
được xây dựng với một thời hạn quá dài hàng chục năm, trong khi
các cam kết hội nhập quốc tế của ta có thời hạn ngắn hơn, thì như
vậy chúng ta sẽ bỏ lỡ thời cơ tận dụng những lợi thế do các cam
kết quốc tế mang lại.
Do vậy, trong thời gian trước mắt, ta phải tập trung đầu tư xây
dựng các cơ sở hạ tầng cần thiết cho kinh tế đối ngoại như: vệ tinh
viễn thông, hệ thống đường cáp quang truyền dẫn; xây dựng một
cảng trung chuyển quốc tế, hiện đại hoá các sân bay quốc tế; mở
rộng các đường cao tốc ở các vùng trọng điểm; tăng cường việc
xây dựng các nhà máy điện và hiện đại hoá hệ thống truyền dẫn,
giảm tiêu hao thất thoát điện; gia tăng các cơ sở sản xuất nước và
hiện đại hoá hệ thống cung cấp nước...
Cần phải có hàng chục tỷ USD để xây dựng những cơ sở hạ tầng
trên đây. Vốn ngân sách nhà nước, kể cả nguồn vốn ODA cũng
không thể đủ đáp ứng các nhu cầu to lớn này. Do vậy cần phải có
quy hoạch tổng thể về cơ sở hạ tầng, nhà nước có thể tạm thời
chuyển vốn đầu tư xây dựng các nhà máy sản xuất công nghiệp
sang xây dựng cơ sở hạ tầng. Mở rộng các hình thức huy động vốn
đa dạng, cần có chính sách để mọi thành phần kinh tế có thể tham
gia kinh doanh cơ sở hạ tầng. Ngay những nước giàu như Mỹ,
Nhật, nhà nước cũng không đủ tiền xây dựng các cơ sở hạ tầng, mà
phải huy động các thành phần kinh tế khác. Nước ta nghèo hơn nên
càng phải sử dụng các thành phần ngoài nhà nước.
Kinh doanh cơ sở hạ tầng trong nhiều năm trước đây thường do
các công ty nhà nước độc quyền đảm nhận, kể cả ở các nước
phương Tây. Nhưng thực tế cho thấy tình trạng độc quyền của các
công ty nhà nước đã dẫn tới những hậu quả tiêu cực - chi phí cao,
phiền hà, lãng phí, tham nhũng... Do vậy trong những năm gần
đây, xu hướng cho phép khu vực tư nhân tham gia kinh doanh hạ
tầng cơ sở đã ngày càng phổ biến ở nhiều nước. Nước ta cũng
không thể tránh được xu hướng này. Hiện ta đã cho phép một số
công ty nước ngoài xây dựng các nhà máy điện dưới hình thức
BOOT (xaa, có thể cần phải mở rộng hơn hình thức này sang nhiều
lĩnh vực khác.
4. Khai thông các nguồn vốn cung ứng cho hoạt động kinh tế
đối ngoại
Các hoạt động kinh tế đối ngoại từ xuất nhập khẩu, du lịch đến đầu
tư nước ngoài đều cần đến những nguồn vốn to lớn. Không có đủ
vốn, cũng có nghĩa là kinh tế đối ngoại không hoạt động được.
Những nguồn vốn này hiện đang dư thừa cả trong và ngoài nước.
Hàng năm, hàng tỷ USD tiền gửi tiết kiệm đã không sử dụng được
ở trong nước phải gửi ra các ngân hàng ở nước ngoài, nếu tính cả
số tiền gửi ra nước ngoài qua các kênh không chính thức thì số tiền
đó còn lớn hơn. Nguồn vốn tích trữ trong dân dưới nhiều dạng của
cải khác nhau còn khá lớn. Nguồn vốn dư thừa trên thế giới phải
tính đến hàng ngàn tỷ USD. Vấn đề là chúng ta chưa có một cơ chế
thích hợp để thu hút nguồn vốn này cho hoạt động kinh tế đối
ngoại.
Cơ chế và bộ máy huy động và phân bổ các nguồn vốn của nước ta
hiện quá lạc hậu và vẫn theo cơ chế mệnh lệnh và bao cấp. Các
ngân hàng thương mại quốc doanh là những chủ thể huy động và
cho vay các nguồn vốn trong nước nhưng họ vẫn phải hoạt động
theo chỉ lệnh là chính, các ngân hàng cổ phần nhỏ bé, các ngân
hàng nước ngoài hoạt động rất hạn chế. Thị trường vốn trong nước
mới manh nha và còn nhỏ bé. Việc huy động và phân bổ vốn ở
nước ta hiện chủ yếu vẫn do các ngân hàng thương mại quốc doanh
đảm nhận với rất nhiều hạn chế. Các ngân hàng này yếu đến mức
không cung ứng được các yêu cầu về vốn cho các doanh nghiệp
hoạt động phục vụ nhu cầu nội địa, nói gì đến các nhu cầu của kinh
tế đối ngoại
Hơn nữa, hoạt động kinh tế đối ngoại đòi hỏi các ngân hàng cung
ứng phải am hiểu thị trường thế giới, phải dám chấp nhận rủi ro,
phải có năng lực không những thẩm định các dự án cho vay, mà
còn đưa ra được các dự án kinh doanh đối ngoại có hiệu quả thích
hợp với các nhà đầu tư. Các ngân hàng thương mại của ta, kể cả
ngân hàng ngoại thương, nói chung đã không có được những khả
năng đó. Hơn nữa, những quy định về thế chấp hiện hành là một
hạn chế lớn đối với việc cung ứng vốn cho hoạt động kinh tế đối
ngoại.
Những hạn chế trên đây cho thấy, nếu không sớm đổi mới, khai
thông các luồng vốn cung cứng cho hoạt động kinh tế đối ngoại,
thì khó có thể đáp ứng được yêu cầu vốn để mở rộng hoạt động
kinh tế đối ngoại. Nhưng những đổi mới này sẽ đi theo hướng nào?
Trước hết cần mạnh dạn cho phép một số ngân hàng thương mại
của ta liên doanh với ngân hàng nước ngoài và cho phép các ngân
hàng nước ngoài mở rộng dịch vụ kinh doanh nội và ngoại tệ, cung
ứng tín dụng cho hoạt động kinh tế đối ngoại cho các công ty Việt
Nam và công ty nước ngoài. Đây là một giải pháp quan trọng, vì
các ngân hàng nước ngoài hiểu biết thị trường thế giới hơn, có
nhiều năng lực thẩm định và đề xuất các dự án kinh doanh có hiệu
quả hơn... Các ngân hàng nước ngoài gia tăng hoạt động sẽ tạo ra
một áp lực cạnh tranh lớn hơn, do vậy hoạt động ngân hàng nước
ta sẽ có hiệu quả hơn.
Thứ hai, thúc đẩy thị trường vốn hoạt động tốt hơn theo hướng một mặt mở rộng diện cổ phần hoá và cho phép các công ty cổ
phần được bán cổ phiếu; đồng thời cho phép các công ty chưa cổ
phần hoá nhưng kinh doanh tốt có thể bán trái phiếu; cho phép các
công ty hoạt động đối ngoại có thể huy động vốn theo các dự án
trên thị trường chứng khoán... Mặt khác, cần cho phép các công ty
nước ngoài, người nước ngoài được mua bán các loại chứng khoán
trên thị trường. Thị trường chứng khoán nước ta mới hoạt động
trong một thời gian ngắn ngủi, cần có những tổng kết và đánh giá,
mời các nhà tư vấn nước ngoài có kinh nghiệm tham kiến để có thể
có những giải pháp phù hợp nhằm hoàn thiện và phát triển thị
trường.
Thứ ba, nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng các loại hình kinh
doanh vốn rủi ro ở các nước, để có thể xây dựng các quy chế, tạo
ra các điều kiện cho phép các loại công ty kinh doanh vốn rủi ro kể
cả các công ty nước ngoài có thể ra đời và hoạt động ở Việt Nam.
Hoạt động kinh tế đối ngoại là một hoạt động dễ có những rủi ro,
nhất là kinh doanh công nghệ cao. Do vậy các công ty kinh doanh
vốn rủi ro là rất cần thiết.
Thứ tư, xây dựng khu kinh tế mở. Nước ta đã có các khu chế xuất,
các khu công nghiệp, đang xây dựng các khu công nghệ cao,
nhưng chưa có khu kinh tế mở với các tiêu chí hiện đại - ở một địa
điểm có cảng nước sâu danh tiếng trên thế giới được nhiều nhà đầu
tư nước ngoài quan tâm; có một thể chế kinh tế, hành chính thông
thoáng phù hợp với các thông lệ quốc tế... Khu kinh tế mở này sẽ
có khả năng thu hút và sử dụng hiệu quả các dòng vốn bên ngoài
và cả bên trong. Chỉ một đặc khu kinh tế Thẩm Quyến của Trung
Quốc trong nhiều năm đã thu hút được một khối lượng vốn FDI
gần như bằng cả tổng giá trị FDI của Việt Nam. Cần có một
chương trình xây dựng một số khu kinh tế mở ở Việt Nam.
5. Các ngành dịch vụ phải được phát triển và hội nhập quốc tế
Các ngành dịch vụ, theo cách tính của WTO, hiện có khoảng 155
ngành, bao gồm các hoạt động ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, viễn
thông, hàng không, du lịch, tư vấn... Ở các nước phát triển, các
ngành dịch vụ đã chiếm khoảng 60 - 70% GDP. Vai trò của nó cực
kỳ quan trọng đối với toàn bộ sự phát triển của nền kinh tế, đặc
biệt là trong thời đại chuyển sang nền kinh tế tri thức. Ở nước ta
các ngành dịch vụ hiện đại rất kém phát triển. Không những thế,
quan niệm của xã hội ta vẫn xem trọng sản xuất vật chất hơn dịch
vụ, vẫn có xu hướng tập trung các nguồn lực cho sản xuất vật chất,
kể cả các nguồn lực bên ngoài. Sản xuất vật chất là quan trọng,
không ai phủ nhận, nhưng tầm quan trọng của nó không thể lấn át
dịch vụ. Nếu ta tập trung đầu tư vào sản xuất thép, xi măng...
nhưng không đầu tư thích đáng vào các dịch vụ tài chính, ngân
hàng, bảo hiểm, tư vấn... thì sản xuất thép, xi măng... sẽ rơi vào
tình trạng chi phí cao, chất lượng thấp, thiếu thị trường... Một nhà
đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chỉ được khuyến khích đầu tư vào
sản xuất vật chất khi họ bí, cần tư vấn không có, cần vay vốn lại
khó khăn, cần bảo hiểm lại quá phức tạp, cần liên lạc viễn thông lại
quá đắt... Do vậy đã có nhà đầu tư nước ngoài nhận xét rằng phải
có lòng dũng cảm mới dám đầu tư vào Việt Nam. Môi trường dịch
vụ hoạt động kém là một cản trở lớn đối với các nhà đầu tư từ các
nước phát triển, vì họ đã quen với môi trường đầu tư có hoạt động
dịch vụ rất tốt. Điều đó giải thích tại sao các nhà đầu tư Âu, Mỹ,
Nhật lại do dự khi đầu tư vào Việt Nam.
6. Cơ cấu nhập khẩu phải phù hợp với định hướng xuất khẩu
và sự phát triển có hiệu quả của nền kinh tế đất nước
Cơ cấu nhập khẩu của mỗi nước khác nhau có thể khác nhau tùy
theo trình độ phát triển và các điều kiện lịch sử kinh tế, văn hóa, tự
nhiên khác nhau. Trong điều kiện hiện nay, cơ cấu này phải phù
hợp với cơ cấu xuất khẩu, phù hợp với nhu cầu của thị trường thế
giới và trong nước. Nghĩa là nó phải nhập những thứ để có thể sản
xuất, gia công và xuất khẩu có hiệu quả và do vậy đương nhiên là
có thể đáp ứng nhu cầu thay thế nhập khẩu.
Một cơ cấu nhập khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu thay thế nhập khẩu
sẽ rất khó đáp ứng cho yêu cầu xuất khẩu. Song dù khác nhau thế
nào đi nữa, thì một cơ cấu nhập khẩu có hiệu quả và hiện đại
thường bao gồm 5 nhóm hàng hóa sau: bằng phát minh sáng chế;
máy móc thiết bị; nguyên nhiên vật liệu; hàng tiêu dùng và dịch
vụ. Cơ cấu nhập khẩu của các nước phát triển thường có đủ cả 5
nhóm hàng hóa trên đây, tuy có thể khác nhau về tỷ trọng. Cơ cấu
nhập khẩu của các nước đang và kém phát triển thường chỉ bao
gồm 3 nhóm hàng hóa: máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu và
hàng tiêu dùng. Có rất ít nước đang phát triển có một cơ cấu nhập
khẩu đủ cả 5 nhóm hàng hóa. Cơ cấu nhập khẩu có 3 nhóm hàng
hóa là một cơ cấu chỉ phù hợp với nền kinh tế hướng nội, thay thế
nhập khẩu. Ở những nước này, người ta nhập máy móc thiết bị
cùng với nguyên nhiên vật liệu trong nước không có để sản xuất ra
hàng hoá tiêu dùng trong nước cần; và để có tiền nhập khẩu, những
nước này đã xuất khẩu tài nguyên của họ như: dầu mỏ, các loại
quặng, nông, lâm, hải sản... Cần lưu ý là nếu chỉ dùng ngoại tệ do
xuất khẩu tài nguyên để mua máy móc thiết bị, công nghệ, thì
thường rơi vào tình thế phải mua máy móc thiết bị cũ - đất nước sẽ
thành “bãi thải công nghệ". Cơ cấu nhập khẩu có đủ 5 nhóm hàng
hóa sẽ phù hợp với hướng xuất khẩu và hội nhập quốc tế, bởi vì
nhờ có nhập khẩu bằng phát minh sáng chế và dịch vụ, nên các
máy móc thiết bị và nguyên vật liệu nhập khẩu được sử dụng có
hiệu quả, có sức cạnh tranh quốc tế. Nhật Bản là một ví dụ nổi bật.
Năm 1950, Nhật Bản chưa phải là một nước phát triển, chưa có các
công nghệ nguồn, nên Nhật Bản đã thực thi chính sách chú trọng
nhập khẩu kỹ thuật nước ngoài. Trong thời kỳ 1950 - 1974 tổng số
vụ nhập khẩu kỹ thuật của Nhật Bản là 15.289, trong đó gần 70%
từ Mỹ, do vậy tỷ trọng hàng chế tạo theo bằng sáng chế phát minh
nước ngoài của Nhật Bản đã ở mức cao nhất thế giới và tính đến
năm 1968, nhờ nhập khẩu kỹ thuật và các dịch vụ cần thiết, Nhật
Bản đã tiết kiệm được trên 100 tỷ USD và đưa ngành công nghiệp
chế tạo của Nhật Bản lên ngang tầm thế giới.
Cơ cấu nhập khẩu của nước ta hiện là cơ cấu nhập khẩu 3 nhóm
hàng hóa - máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu và hàng tiêu
dùng; hầu như không có nhập khẩu bằng phát minh sáng chế và
dịch vụ. Trong ba nhóm hàng hoá trên, nhóm hàng tiêu dùng
thường chiếm một tỷ trọng nhỏ và giảm dần trong những năm gần
đây. Năm 1995, hàng tiêu dùng còn chiếm 15,2% tổng giá trị nhập
khẩu, nhưng đến năm 2001, đã giảm xuống chỉ còn 5,3%.[3] Trong
nhiều năm ta tỏ ra rất yên tâm về cơ cấu nhập khẩu này, vì cho
rằng ta chỉ nhập máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu cần cho
phát triển sản xuất trong nước. Một cơ cấu cần cho phát triển sản
xuất trong nước hẳn phải là một cơ cấu tiến bộ. Song thực tế đã
không hẳn như vậy. Việc ta chỉ nhập khẩu ít hàng tiêu dùng khoảng 10% tổng giá trị nhập khẩu - là điều không bình thường.
Thường các nước ở trình độ phát triển thấp như ta, kể cả Nhật Bản
thời kỳ những năm 1950, tỷ lệ nhập khẩu hàng tiêu dùng cũng vào
khoảng 20% tổng giá trị hàng nhập khẩu. Ở nước ta, vì nhập khẩu
hàng tiêu dùng chính thức chịu mức thuế cao và nhiều cấm đoán,
nên tình trạng buôn lậu mới trở thành quốc nạn, và kèm theo nó là
nạn tham nhũng. Nếu cộng cả giá trị hàng nhập lậu nữa, thì tỷ
trọng nhập khẩu hàng tiêu dùng chắc đã không kém 20% tổng giá
trị nhập khẩu.
Việc ta không nhập khẩu bằng phát minh sáng chế là một khiếm
khuyết lớn. Nước ta chỉ xuất khẩu dầu thô, nông hải sản, khó đủ
vốn mua được máy móc thiết bị hiện đại, do vậy phải mua máy
móc thiết bị cũ - xuất hiện nguy cơ biến nước ta thành "bãi thải
công nghệ cũ". Do ta không nhập bằng phát minh sáng chế để hiện
đại hóa các máy móc cũ, nên phải dùng máy móc cũ, công nghệ lạc
hậu, tiêu xài nhiều nguyên, nhiên liệu vật liệu nhập khẩu - làm gia
tăng chi phí. Ta cũng không nhập khẩu các dịch vụ cần cho phát
triển công nghiệp như các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm,
viễn thông, tư vấn v.v.. nên các máy móc thiết bị và nguyên nhiên
vật liệu nhập khẩu về được sử dụng càng kém hiệu quả.
Lý thuyết kinh tế học hiện đại chú trọng xuất khẩu để thu ngoại tệ,
nhưng cũng đặc biệt chú trọng nhập khẩu - nhập khẩu những thứ
để có thể hiện đại hóa kinh tế đất nước và phù hợp với định hướng
xuất khẩu.
Những phân tích trên đây cho thấy nước ta đã đến lúc phải đổi mới
cơ cấu nhập khẩu, và phải từ đổi mới cơ cấu nhập khẩu mới có thể
đổi mới được cơ cấu xuất khẩu. Những hướng đổi mới chính là gia
tăng nhập khẩu bằng phát minh sáng chế, các công nghệ mới, cây
con mới; chú trọng nhập khẩu ngay các dịch vụ cần cho phát triển
kinh tế đối ngoại, trước mắt như các dịch vụ tư vấn, các dịch vụ
cung ứng vốn, các dịch vụ bảo hiểm, các dịch vụ viễn thông; tăng
tỷ trọng nhập khẩu hàng tiêu dùng, giảm bớt hàng rào bảo hộ.
7. Tập trung đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho kinh tế đối
ngoại
Các lĩnh vực kinh tế đối ngoại cần những nguồn nhân lực gì? Đó là
các nhà chuyên đàm phán kinh tế trên các diễn đàn song và đa
phương để mở cửa thị trường; những nhà nghiên cứu đánh giá tình
hình thế giới, tìm kiếm thông tin, hoạch định chính sách, tìm hiểu
thị trường, môi giới, quảng bá đầu tư; những nhà quản lý kinh
doanh đối ngoại; những công nhân, kỹ sư, kỹ thuật viên lành
nghề...
- Xem thêm -