VIỆN NGHIÊN CỨU TRUNG QUỐC
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU ĐÀI LOAN
=============
ĐỀ TÀI CẤP VIỆN
KINH TẾ ĐÀI LOAN TRƯỚC VÀ SAU KHI
GIA NHẬP WTO
NGƯỜI THỰC HIỆN: THS. DVL
HÀ NỘI
MỞ ĐẦU
I.
Lý do nghiên cứu
Ngày 12-11-2001, 24 giờ tiếp theo CHND Trung Hoa, Đài
Loan cũng đã trở thành thành viên của WTO. Điều đáng chú ý là,
Đài Loan gia nhập WTO không phải với tư cách một “Nhà nước có
chủ quyền” mà là “Khu vực thuế quan riêng biệt Đài Loan, Bành
Hồ, Kim Môn, Mã Tổ” (gọi tắt là Đài Bắc-Trung Quốc). Để trở
thành thành viên WTO, Đài Loan cũng đã trải qua một quá trình
đàm phán và chờ đợi kéo dài 12 năm ròng rã, trong đó 10 năm đàm
phán với các đối tác, 02 năm chờ đợi theo quy tắc “Trung Quốc
trước, Đài Loan sau”. Theo các nhà khoa học Đài Loan, việc Đài
Loan gia nhập WTO là một “thắng lợi về ngoại giao”, “một cột mốc
trong việc Đài Loan hội nhập vào xã hội quốc tế”, tuy nhiên về mặt
kinh tế-xã hội, Đài Loan sẽ gặp phải nhiều khó khăn thách thức.
Trước đây, mức độ mở cửa thị trường của Đài Loan trên một số lĩnh
vực như nông nghiệp, xe hơi, đồ điện gia dụng, rượu và thuốc lá,
ngành xây dựng, ngành dịch vụ chuyên nghiệp v.v...đều tương đối
thấp. Vì vậy, sau khi gia nhập WTO, Đài Loan đứng trước sức ép
cạnh tranh rất lớn với các sản phẩm cùng chủng loại của nước
ngoài, nhất là với Trung Quốc đại lục, tỷ lệ thất nghiệp sẽ tăng lên.
Điều đó đòi hỏi các nhà lãnh đạo Đài Loan phải có sự điều chỉnh về
mặt chính sách nhằm tái cấu trúc lại nền kinh tế trên 3 phương diện
nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.
Việt Nam và Đài Loan tuy xa cách nhau về địa lý, nhưng lại có
nhiều điểm tương đồng về lịch sử, văn hoá. Từ khi Việt Nam thực
hiện đường lối đổi mới năm 1986, nhất là từ khi ban hành Luật Đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam đến nay, mối quan hệ hợp tác phi chính
phủ giữa Việt Nam và Đài Loan trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá
đã phát triển nhanh chóng. Về mặt thương mại, Đài Loan hiện là bạn
hàng lớn thứ 4 của Việt Nam (sau Nhật Bản, Xinh-ga-po và Trung
Quốc) với kim ngạch thương mại đạt 3,349 tỷ USD (2002); Về mặt
đầu tư, Đài Loan hiện đứng thứ hai trong số các nước và vùng lãnh
thổ đầu tư trực tiếp (FDI) vào Việt Nam với 1.084 hạng mục và
5,99 tỷ USD vốn theo hiệp định. Nếu tính cả số vốn đầu tư thông
qua nước thứ 3 thì FDI của Đài Loan ở Việt Nam đứng thứ nhất
(ước khoảng 10 tỷ USD); Về mặt hợp tác lao động, Đài Loan cũng
là một trong những địa bàn có số lao động Việt Nam làm việc tại
nước ngoài đông nhất (hơn 7 vạn người) v.v...
Vì vậy, việc tìm hiểu và nghiên cứu về nền kinh tế của Đài
Loan trước và sau khi gia nhập WTO là rất cần thiết, một mặt, góp
phần cung cấp tư liệu tham khảo cho Việt Nam sau khi gia nhập
WTO; mặt khác, qua đó góp phần thúc đẩy hợp tác kinh tế (thương
mại, đầu tư ...) giữa hai bên trong thời gian tới. Trong quá trình
nghiên cứu chúng tôi cố gắng lưu ý tính đặc thù của Đài Loan nhất
là những lợi thế và bất lợi thế của lãnh thổ này khi gia nhập WTO.
II. Mục tiêu của đề tài
Đánh giá khái quát sự chuẩn bị bên trong của Đài Loan trước
khi gia nhập WTO; trình bày và phân tích những cam kết và việc
thực hiện cam kết của Đài Loan với các đối tác; những tác động tới
nền kinh tế của Đài Loan sau khi gia nhập WTO; sau đó rút ra một
số nhận xét và đánh giá.
III. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu chính bao gồm: duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, phân tích, so sánh... nhằm đáp ứng yêu
cầu và mục tiêu đặt ra.
IV. Nội dung nghiên cứu
Trên cơ sở mục tiêu đặt ra, đề tài tập trung nghiên cứu các nội
dung chủ yếu sau đây:
1. Khái quát về tình hình kinh tế, xã hội Đài Loan trước khi gia
nhập WTO. Đặc biệt chú ý tìm hiểu và nghiên cứu sự chuẩn bị các
điều kiện bên trong của Đài Loan, bao gồm phát triển kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế...để khi điều kiện chính trị cho phép là
gia nhập; phân tích những lợi thế và bất lợi thế của Đài Loan khi gia
nhập WTO.
2. Quá trình đàm phán và cam kết của Đài Loan với các đối tác
và với WTO. Phần này tập trung tìm hiểu và phân tích những cam
kết và lộ trình thực hiện những cam kết đó của Đài Loan, nhất là
trong lĩnh vực nông nghiệp và một số ngành thuộc lĩnh vực dịch vụ.
3. Đánh giá tác động của việc gia nhập WTO đối với kinh tế,
xã hội Đài Loan.
4. Nhận xét, đánh giá mang tính so sánh nền kinh tế Đài Loan
trước và sau khi gia nhập WTO.
Trên đây, chúng tôi đã trình bày rõ lý do, mục tiêu, phương
pháp và những nội dung nghiên cứu chủ yếu của đề tài. Có thể thấy
rằng, đây là một đề tài còn ít được tìm hiểu và nghiên cứu ở Việt
Nam, duy chỉ có đề tài cấp bộ năm 2005 “Sự điều chỉnh chính sách
của Đài Loan sau khi gia nhập WTO và bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam” do TS. Đỗ Tiến Sâm làm chủ nhiệm mà chúng tôi cũng
là thành viên đã tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề này. Dựa trên
đề tài cấp bộ đó chúng tôi đã tiến hành điều chỉnh và bổ sung cho
phù hợp với yêu cầu của một đề tài cấp viện. Còn ở Đài Loan, đây
cũng là vấn đề vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu và tranh luận với
nhiều ý kiến khác nhau. Tuy vậy, trong thời gian ngắn, tập thể tác
giả chúng tôi, đã hết sức cố gắng sưu tầm tài liệu để bổ sung và
chỉnh lý để hoàn thiện đề tài này. Chúng tôi ý thức sâu sắc rằng, dù
có cố gắng nhưng cũng không tránh khỏi thiếu sót và hạn chế, rất
mong nhận được những ý kiến đóng góp của các nhà nghiên cứu và
các bạn đồng nghiệp.
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU ĐÀI
LOAN
NỘI DUNG:
CHƯƠNG I
BỐI CẢNH KINH TẾ QUỐC TẾ
Thế giới đã bước sang thiên niên kỷ thứ ba với những biến
động và chuyển đổi rất phức tạp. Việc nghiên cứu động thái và
chiều hướng phát triển của kinh tế thế giới trong những năm đầu của
thiên niên kỷ mới không những giúp chúng ta có cái nhìn xác đáng
về nền kinh tế thế giới mà còn thấy được sự tác động trực tiếp hay
gián tiếp của nền kinh tế thế giới đối với các nước và khu vực. Phần
này chúng tôi chủ yếu dựa trên những thành quả nghiên cứu của các
học giả trong và ngoài nước như cuốn “Kinh tế thế giới 2003-2004
đặc điểm và triển vọng” và một số tạp chí nghiên cứu kinh tế
chuyên ngành khác,1 nhằm giúp người đọc có thể hình dung bức
tranh chung về kinh tế thế giới từ đó có những so sánh đối chiếu với
nền kinh tế Đài Loan trong những phần sau.
I. TỔNG QUAN
Năm 2000 nền kinh tế thế giới có bước phát triển khởi sắc sau
một năm chậm lại vì bị ảnh hưởng tiêu cực bởi cuộc khủng hoảng tài
chính-tiền tệ châu Á thời kỳ 1997-1998. Theo đánh giá của Quỹ Tiền
tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB) và hầu hết các cơ quan
nghiên cứu kinh tế quốc tế, cải thiện này trước hết là do có sự phục
hồi dần của nền kinh tế Nhật Bản, khởi sắc của kinh tế Liên minh
châu Âu (EU) và tăng trưởng kỷ lục của kinh tế Mỹ, ba nền kinh tế
1
Kim Ngọc chủ biên: Kinh tế thế giới 2003-2004 đặc điểm và triển vọng, Nxb Chính trị Quốc
gia, 5-2004; Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới các số năm 2001, 2002, 2003, 2004; Tạp
chí Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương các số năm 2001, 2002, 2003, 2004.
chiếm quá nửa GDP của thế giới và là những lực đẩy chính tạo đà cho
kinh tế thế giới năm 2000 phục hồi. Nhưng từ cuối năm 2000, đầu
năm 2001, kinh tế của cả ba trung tâm lớn này đều đã bắt đầu có dấu
hiệu suy giảm, nhất là sự suy giảm của nền kinh tế Nhật và Mỹ, kéo
theo suy giảm chung của nền kinh tế thế giới, của các lĩnh vực hoạt
động kinh tế quốc tế chủ yếu như thương mại, đầu tư, tài chính, cũng
như của nhiều nều kinh tế quốc gia và khu vực khác.
Trái với những dự báo về sự phục hồi mạnh mẽ của kinh tế thế
giới được đưa ra hồi cuối năm 2001, năm thứ hai của thế kỷ XXI,
kinh tế thế giới lại phục hồi chậm chạp trong những bất ổn gia tăng.
Trong Báo cáo đánh giá triển vọng kinh tế thế giới hàng năm, IMF
và Tổ chức Hợp tác Phát triển Kinh tế (OECD) cho rằng, năm 2002
kinh tế thế giới không phục hồi tốt như dự đoán. Tốc độ tăng trưởng
của kinh tế thế giới chỉ đạt 2,8%, tăng 0,6% so với mức 2,2% năm
2001, thấp hơn 1,9% so với mức tăng 4,7% năm 2000. Liên hợp
quốc đánh giá nền kinh tế toàn cầu phát triển chậm lại, với mức tăng
GDP đạt 1,7%, giảm 0,1% so với mức tăng 1,8% đưa ra hồi tháng
4-2002. Các nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật Bản, EU đều phát triển
không vững chắc, chưa tạo được đà thúc đẩy các nền kinh tế khác
tăng trưởng. Tại diễn đàn G-20 (nhóm 20 nước, bao gồm cả G8) bàn
về việc thúc đẩy nền kinh tế thế giới hiện nay, IMF, WB và nhiều
quan chức của nhóm G7 (nhóm 7 nước công nghiệp phát triển chủ
chốt) đều thống nhất nhận định, mảng xám của nền kinh tế thế giới
ngày càng bị tô đậm thêm khi mà cả ba đầu tầu kinh tế: châu Âu,
Nhật Bản và Mỹ đều trong tình trạng “chết máy”. Tổng giám đốc
IMF, ông Horst Koehler đã phải thốt lên rằng, hàng loạt các định
chế tài chính của tổ chức này và WB đang áp dụng cho sự tăng
trưởng kinh tế của nhiều nước chỉ thu được một con số không tròn
trĩnh.
Khác với năm 2001 và năm 2002, năm 2003 kinh tế thế giới đã
không rơi vào khủng hoảng như những dự báo đưa ra hồi cuối năm
2002 bất chấp cuộc chiến tranh Irắc, dịch bệnh viêm đường hô hấp
cấp (SARS) và “dư âm” của sự kiện 11-9. Từ năm 2003, kinh tế thế
giới tiếp tục phục hồi và phát triển. Tuy nhiên, do những nhân tố
đặc thù về địa lý, kinh tế và chính trị, sự phục hồi kinh tế ở mỗi
quốc gia, khu vực rất khác nhau, tạo nên bức tranh toàn cảnh của
kinh tế thế giới với những gam mầu sáng đa dạng.
Chiến tranh I-rắc kết thúc nhanh chóng làm các nhà kinh tế thở
phào. Giá dầu trở lại mức bình thường, nền kinh tế thế giới đã
không phải trải qua cuộc khủng hoảng. Hội nghị Bộ trưởng Tài
chính và Thống đốc Ngân hàng nhóm G-20 nhận định, nền kinh tế
thế giới đang trong quá trình phục hồi. Các chính sách kinh tế hiệu
quả của nhiều nước đã góp phần tạo nên sự phục hồi này. Uỷ ban
châu Âu và IMF đánh giá GDP thế giới tăng 3,2% năm 2003 (đúng
với dự đoán đưa ra hồi đầu năm), tăng 0,4% so với mức tăng 2,8%
năm 2002 và tăng 1% so với mức tăng 2,2% năm 2001. Trong đó,
tốc độ tăng trưởng kinh tế tại các nước đang phát triển khả quan
hơn, đạt 5% năm 2003 (WB đánh giá 4%), tăng 0,4% so với mức
4,6% năm 2002 và 0,9% so với mức tăng 4,1% năm 2001; tốc độ
tăng trưởng kinh tế của các nước công nghiệp phát triển ở mức
1,8% (con số của WB là 1,5%), mực dù cao hơn 0,8% so với mức
1% năm 2001, nhưng chỉ ngang bằng với mức của năm 2002.
Báo cáo triển vọng kinh tế toàn cầu của WB cho rằng: nền kinh
tế thế giới đang trong quá trình phục hồi, tuy mức độ và đặc điểm
phát triển thể hiện rất khác nhau và không đồng đều giữa các quốc
gia, khu vực, song các xu thế hiện nay cho thấy nền kinh tế thế giới
sẽ tiếp tục phát triển mạnh hơn do những nỗ lực của các chính phủ
trong việc chi tiêu, kiềm chế lạm phát và mở cửa hơn trong thương
mại.
II. KINH TẾ MỸ
Từ quý IV năm 2000, những dấu hiệu suy giảm của nền kinh tế
Mỹ đã bộc lộ khá rõ nét. Theo báo cáo của Bộ Thương mại Mỹ
ngày 31-1-2001, trong ba tháng cuối của năm 2000, kinh tế Mỹ chỉ
tăng trưởng 1,4%, thấp hơn nhiều so với mức tăng 2,2% trong quý
III và là mức thấp nhất kể từ quý II năm 1995. Chi tiêu của các
doanh nghiệp và người tiêu dùng giảm xuống mức thấp nhất kể từ 5
năm trước đó. Tỷ lệ thất nghiệp đến cuối năm 2000 đã tăng lên tới
4,2%, mức cao nhất trong vòng 16 tháng. Kinh tế tăng trưởng chậm
lại đã dẫn đến những vụ sa thải nhân công lớn trong ngành công
nghiệp ôtô và nhiều ngành sản xuất khác.
Xu thế này tiếp tục kéo dài sang nửa đầu năm 2001. GDP của
Mỹ trong quý I-2001 chỉ tăng 2% so với 5% cùng kỳ năm 2000.
Kinh tế sa sút, hàng loạt công ty bị thua lỗ, nhiều công ty phải cắt
giảm chi tiêu cho các dự án đầu tư. Thị trường chứng khoán bị đảo
lộn, giá cổ phiếu của các doanh nghiệp giảm sút, thất nghiệp tăng
nhanh. Nền kinh tế Mỹ hiện đang tiềm ẩn nhiều mất cân đối khó
giải quyết như tiết kiệm tư nhân giảm, nợ cá nhân và công ty lớn,
thâm hụt tài khoản vãng lai và thâm hụt thương mại tăng kỷ lục.
Năm 2002, nền kinh tế Mỹ - đầu tầu kinh tế thứ nhất, mặc dù
đã bắt phục hồi sau thời kỳ suy thoái năm 2001, song sự phục hồi
này vẫn còn rất “uể oải”. IMF đánh giá mức tăng trưởng của kinh tế
Mỹ “vẫn thấp hơn tiềm năng cho đến khi phục hồi hoàn toàn vào
năm 2004”. Theo đó, GDP chỉ tăng 2,2%, mặc dù cao hơn năm
2001 là 1,1%, song vẫn còn thấp hơn nhiều so với mức tăng trưởng
ngoạn mục 5,2% năm 2000 và các năm trước đó (con số của OECD
là 2,3% năm 2002). Thất nghiệp ở mức 5,9% - mức cao nhất trong
gần một thập kỷ qua. Tại cuộc họp nội các vào trung tuần tháng 112002, Tổng thống Mỹ G. Bush đã bày tỏ lo ngại trước thực trạng
phát triển không vững chắc của nền kinh tế Mỹ. Ông Bush cam kết
sẽ thảo luận với các nghị sĩ về cách thức kích thích phát triển nền
kinh tế khi Quốc hội mới khóa 108 do đảng Cộng hòa kiểm soát bắt
đầu đi vào hoạt động từ tháng 1-2003. Trong đó có đề xuất mới, cắt
giảm thuế hơn nữa để kích thích tăng trưởng kinh tế.
Sang năm 2003, sau khi tăng trưởng chậm lại trong sáu tháng
đầu năm do bị ảnh hưởng của cuộc chiến trang ở I-rắc, kinh tế Mỹ
đã lấy lại được đà tăng trưởng trong sáu tháng cuối năm. Tốc độ
tăng trưởng GDP đạt 8,2% trong quý III, vượt xa dự đoán của các
nhà phân tích kinh tế và là mức kỷ lục trong 19 năm qua, kể từ quý I
- 1984. Điều đó dẫn tới tăng trưởng GDP của Mỹ trong năm 2003
đạt 2,6% (đây là số liệu của IMF). Mặc dù mức tăng trưởng này chỉ
bằng một nửa so với mức tăng ngoạn mục năm 2000 (5,2%), song
vẫn cao hơn 0,4% so với mức tăng 2,2% năm 2002 và cao hơn 1,5%
so với mức tăng 1,1% năm 2001. Sau gần hai năm suy yếu và bất
ổn, thị trường lao động ở Mỹ đã và đang có nhiều dấu hiệu phục
hồi. Tỷ lệ thất nghiệp tuy còn ở mức cao, song đã giảm dần. Sự tăng
trưởng kinh tế Mỹ khiến nhiều nhà phân tích kinh tế trên thế giới hy
vọng nền kinh tế Mỹ sẽ lấy lại được sự phát triển nhanh chóng trước
đây.
III. KINH TẾ NHẬT BẢN
Nền kinh tế Nhật Bản cũng ngày càng khó khăn hơn. Tính đến
cuối tháng 3-2001, tổng nợ công của chính phủ Nhật Bản đã lên đến
khoảng 5,5 nghìn tỷ USD, tương đương 130% GDP của Nhật. Các
khoản vay khó đòi của hệ thống ngân hàng Nhật Bản đã lên tới 150
nghìn tỷ yên (1,2 nghìn tỷ USD), chiếm 22% tổng số tiền cho vay,
trong đó 1/4 là thuộc về các công ty có nguy cơ phá sản. Chỉ số
Nikkei trung bình giảm 1,35% xuống còn 13.864,76 điểm, mức thấp
nhất trong 16 năm qua, còn đồng yên thì xuống giá tới mức 123,85
yên/USD.
Theo Bộ Tài chính Nhật Bản, xuất siêu của nước này trong
tháng 3-2001 giảm 17,2% so với cùng kỳ năm ngoái, xuống còn 915
tỷ yên (7,5 tỷ USD). Đây là tháng thứ 9 liên tiếp mức xuất siêu của
Nhật Bản giảm, chủ yếu là do kinh tế Mỹ suy giảm đã kéo theo sự
yếu kém của các nền kinh tế châu Á, trong đó có kinh tế Nhật (Mỹ
và châu Á chiếm 2/3 hàng xuất khẩu của Nhật Bản). Theo nhận xét
của ông T. Aso, một trong bốn ứng cử viên vào chức Chủ tịch Đảng
Dân chủ Tự do (LDP), nếu GDP của Mỹ giảm 1 điểm % thì tốc độ
tăng trưởng của Nhật Bản sẽ giảm 0,2 điểm %, làm cho sản xuất
công nghiệp của Nhật Bản bị thu hẹp, thất nghiệp tăng 4,8%, giải
ngân vốn chậm và các khoản tiêu dùng quan trọng khác chiếm hơn
1/2 sản lượng kinh tế bị ứ đọng.
Nhật Bản sau nhiều cuộc cải tổ để lột xác nhưng vẫn còn dang
dở. Kể từ sau khi nền kinh tế “bong bóng” của Nhật bị sụp đổ từ
đầu những năm 1990, nước Nhật dường như chưa tìm ra được lối
thoát cho sự trì trệ về kinh tế kéo dài nhất trong lịch sử kể từ sau
chiến tranh thế giới thứ hai. OECD, IMF và Ngân hàng Nhật Bản
(BOJ) đều thống nhất đánh giá, nền kinh tế Nhật Bản đang ở giai
đoạn hết sức khó khăn, cần có những biện pháp mạnh mẽ toàn diện
và nhanh chóng mới vực dậy được. Hàng năm, Nhật Bản phải dành
1/5 ngân sách nhà nước chỉ để trả nợ và lãi, mặc dù Ngân hàng
Trung ương đã giảm lãi suất xuống gần bằng 0. Vấn đề quan trọng
là Nhật Bản phải có những chính sách tài chính và tiền tệ đồng bộ
giải quyết dứt điểm và triệt để những khoản nợ khó đòi của các
ngân hàng Nhật Bản và chấm dứt giảm phát. Mức lạm phát của
Nhật Bản là -0,1% năm 2002, so với mức -0,7% năm 2001 và -0,8%
năm 2000.
Sau nhiều năm quẩn quanh bên đáy vực, nền kinh tế Nhật Bản
đã bắt đầu phục hồi vào năm 2003. IMF đánh giá GDP tăng 2%, cao
hơn 10 lần so với mức tăng 0,2% năm 2002 và hơn 5 lần so với tăng
0,4% năm 2001. Ba chỉ số kinh tế cơ bản của Nhật Bản là chỉ số giá
cổ phiếu, tỷ giá đông yên và giá chứng khoán đều tăng. Kinh tế
Nhật Bản đã có sự cải thiện đáng kể nhờ cấu trúc lại công ty, cải
thiện đầu tư và tạo được nhiều việc làm. Xuất khẩu tăng dưới tác
động của sự tăng trưởng kinh tế Mỹ và Trung Quốc, giúp GDP tăng
0,2%. Các nhà kinh tế cho rằng, sự phục hồi mạnh mẽ của kinh tế
Mỹ và nhu cầu gia tăng ở châu Á đang tiếp sức cho sự phục hồi của
nền kinh tế Nhật Bản.
Những chính sách kinh tế của chính phủ Nhật Bản bước đầu đã
có hiệu quả và được lòng dân. Tại cuộc họp báo mở đầu một nhiệm
kỳ mới, Thủ tướng Nhật Bản, ông J. Koizumi tuyên bố tiếp tục công
cuộc cải cách kinh tế để đưa kinh tế Nhật Bản tăng trưởng, giảm bớt
một số quy định phiền hà và tư nhân hóa một số tổ chức kinh tế như
bưu điện và hệ thống đường cao tốc, hạn chế chi tiêu chưa cần thiết.
Tuy vậy, theo nhận định của các nhà kinh tế, những gì mà Nhật Bản
đang phải đương đầu không chỉ là sự điều chỉnh mang tính chu kỳ
mà là cả một sự quá độ qua trọng mang tính lịch sử, một kỷ nguyên
của “sự điều chỉnh hợp chất” kinh tế xã hội, không chỉ ảnh hưởng
đến nền kinh tế mà còn đến cả hệ thống chính trị và xã hội nói
chung.
IV. KINH TẾ LIÊN MINH CHÂU ÂU (EU)
Đầu tầu kinh tế Liên minh châu Âu tuy không lao vào vòng
xoáy của cuộc suy thoái như Nhật Bản, nhưng mức tăng trưởng của
khu vực này cũng giảm mạnh. IMF, OECD và Ngân hàng Trung
ương châu Âu (ECB) đánh giá, tăng trưởng GDP của EU chỉ đạt
1,1% năm 2002, giảm 0,6% so với mức tăng 1,7% năm 2001 và
2,5% so với mức tăng 3,6% năm 2000. Trong đó, tốc độ tăng trưởng
GDP của khu vực đồng EURO là 0,75%. Theo IMF, tình hình kinh
tế khu vực đồng EURO năm 2002 là “đáng thất vọng”, và khu vực
này đã đóng góp thêm vào những mối lo ngại sẽ xảy ra sự suy thoái
kép của thế giới với hoạt động kinh tế có vẻ đã mất đà sau sự phục
hồi đầy hứa hẹn vào đầu năm 2002. ECB đưa ra những nguyên nhân
chính dẫn đến sự suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế là do sự phát
triển chậm lại của nền kinh tế thế giới. Xuất khẩu - một yếu tố quan
trọng dẫn đến tăng trưởng cũng bị chững lại và điều này dẫn đến
giảm sút đầu tư. Thêm vào đó, những vụ bê bối kế toán công ty và
các thị trường chứng khoán sụp đổ cũng làm xói mòn lòng tin. Tăng
trưởng kinh tế của các nước lớn trong EU đều bị giảm sút mạnh.
Trục Đức-Pháp là đầu tầu kinh tế của khu vực này đều gặp rất nhiều
khó khăn, thâm hụt ngân sách lớn.
Tại Đức, tăng trưởng GDP chỉ đạt 0,2% năm 2002, thấp hơn
0,55% so với mức tăng 0,75% năm 2001 và thấp hơn 2,7% so với
mức tăng 2,9% năm 2000. Thâm hụt ngân sách của Đức là 3,7%
GDP. Tại nước đầu tầu kinh tế châu Âu này, ngành công nghiệp
đang rơi vào suy thoái, nạn thất nghiệp ngày càng trở nên trầm trọng
và đi kèm là sự giảm sút trong tiêu dùng. Trong khi đó kinh tế Pháp
cũng phát triển chậm lại, GDP tăng 1,2% năm 2002, giảm 0,8% so
với mức 2% năm 2001 và giảm 2,3% so với mức 3,5% năm 2000.
Thâm hụt ngân sách cũng đáng lo ngại, 2,7% GDP. Pháp gặp nhiều
khó khăn trong vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động.
Tăng trưởng kinh tế chậm lại, gây khó khăn cho thị trường việc
làm của EU. Tỷ lệ thất nghiệp tăng từ 7,4% năm 2001 lên 7,7% năm
2002, trong đó khu vực đồng EURO tăng từ 8% năm 2001 lên 8,4%
năm 2002. Tỷ lệ lạm phát trung bình của 15 nước EU là 2,1% năm
2002, thấp hơn 0,5% so với mức 2,6% năm 2001.
Năm 2003 vẫn là năm “ảm đạm” của nền kinh tế EU. Tăng
trưởng kinh tế của EU năm 2003 chỉ đạt 0,8%, giảm 0,3% so năm
2002, trong đó khu vực đồng EURO đạt mức tăng trưởng kinh tế
0,5% giảm 0,25% so với năm 2002. Vấn đề thất nghiệp vẫn tiếp tục
gây đau đầu cho các nhà lãnh đạo EU. Năm 2003, thất nghiệp chiếm
8,1% lực lượng lao động trong toàn EU, tăng 0,4% so với mức tăng
7,7% năm 2002. Trong đó, khu vực đồng EURO tăng lên 9,1% năm
2003. Thâm hụt ngân sách của 15 nước EU gia tăng với mức 2,7%
so với mức 1,9% năm 2002.
V. KINH TẾ KHU VỰC CHÂU Á
Theo IMF, mặc dù các nền kinh tế châu Á phải đối mặt với
những cú sốc bất ngờ: khủng hoảng của thời hậu chiến I-rắc, sự
bùng phát dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp (SARS), sự định trệ
sâu nhất và dài nhất của khu vực điện tử toàn cầu, song tốc độ tăng
tưởng của các nền kinh tế đang phát triển ở châu Á vẫn đạt mức cao
nhất thế giới. Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) đánh giá, tăng
trưởng kinh tế của châu Á năm 2003 đạt 5,7% (con số của IMF là
6,4%), mặc dù chỉ tăng hơn một chút so với mức tăng 5,6% năm
2002, song tăng mạnh hơn 0,4% so với dự đoán đưa ra hồi tháng 42003. Tại Đông Á và Thái Bình Dương, tăng trưởng kinh tế đạt
6,7% so với mức 6,1% năm 2002. Trong đó, kinh tế các nước Asean
tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng GDP khá cao 4,5% so với
mức tăng 4,1% năm 2002: Thái Lan đạt tốc độ tăng GDP 6%,
Inđônêxia 3,5%, Malaixia 4,2%, Phillipin 4%. Riêng các NIE châu
Á đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế kém nhất trong khu vực, GDP bình
quân chỉ tăng 2,2%, mặc dù cao hơn nhiều so với mức tăng trưởng
-0,9% năm 2001, song lại thấp hơn 2 lần so với mức tăng 4,7% năm
2002: Xingapo do bị ảnh hưởng nặng bởi dịch bệnh SARS nên tăng
trưởng kinh tế chỉ đạt khoảng 1%, vượt qua mục tiêu chính thức,
nhưng tỉ lệ thất nghiệp lại ở mức cao nhất trong hơn 20 năm qua,
khoảng 5%; Hàn Quốc phải đối phó với tình trạng khan hiếm tín
dụng, các cuộc bãi công trên toàn quốc và thiên tai nên GDP chỉ
tăng 3,1%; Kinh tế Hồng Kông rơi vào tình trạng suy thoái với GDP
tăng 2,1%. Các nước Nam Á đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân
5,5%. Trong đó, kinh tế Ấn Độ vững mạnh và vẫn duy trì được tốc
độ tăng trưởng cao.
Trong các nền kinh tế châu Á, Trung Quốc đạt tốc độ tăng
trưởng GDP cao nhất. Phó Chủ tịch Quốc hội Trung Quốc, ông Ngô
Bang Quốc đánh giá Trung Quốc vẫn duy trì được động lực thúc
đẩy kinh tế phát triển. Mặc dù bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch viêm
đường hô hấp cấp, nhưng những nhân tố cơ bản của nền kinh tế
Trung Quốc vẫn không thay đổi. Năm 2003, tăng trưởng kinh tế của
Trung Quốc vẫn đạt mức cao 8,5% và đứng đầu khu vực châu Á Thái Bình Dương. Các ngành công nghiệp trụ cột như công nghiệp
chế tạo thiết bị thông tin điện tử, cơ điện, chế tạo máy, chế tạo
phương tiện giao thông vận tải... tăng trưởng nhanh và đóng góp tới
50,7% đối với toàn bộ ngành công nghiệp nói chung. Điều đó cho
thấy, sự phát triển kinh tế của Trung Quốc đang bước vào thời kỳ
mới “công nghiệp nặng hóa” của công nghiệp hóa. Sự phát triển
nhanh chóng của ngành công nghiệp trụ cột và ngành kinh doanh
bất động sản, có liên quan mật thiết với sự nâng cấp cơ cấu tiêu
dùng và cơ chế của thị trường trong nước. Đây sẽ là nguồn lực chủ
yếu để kinh tế Trung Quốc tăng trưởng liên tục bền vững trong
mười năm tới. Kim ngạch ngoại thương của Trung Quốc tiếp tục gia
tăng. Trong ba quý đầu năm 2003, xuất khẩu tăng 32,2% đạt 308 tỷ
USD, nhập khẩu tăng 40,5% đạt 299 tỷ USD so với cùng kỳ năm
2002. Dự trữ ngoại hối của Trung Quốc tính tới cuối tháng 9 đã lên
tới 383,9 tỷ USD, tăng 97,5 tỷ USD so với đầu năm.
Sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ của Trung Quốc đã giúp cho
kinh tế châu Á tiếp tục dẫn đầu thế giới. Tuy vậy, vấn đề đối với
châu Á hiện nay là châu Á phải cải cách cơ cấu kinh tế ở từng nước
cho phù hợp với tự do đầu tư và thương mại; tăng cường hỗ trợ và
bổ sung cho nhau; đẩy mạnh thương mại trong và ngoài khối.
Như vậy có thể thấy, nền kinh tế thế giới trong những năm qua
đã trải qua nhiều biến động khó lường. Năm 2001 và 2002 là hai
năm tụt dốc của nền kinh tế thế giới đặc biệt là của ba trung tâm
kinh tế lớn: Mỹ, Nhật Bản và Liên minh châu Âu, từ năm 2003 nền
kinh tế thế giới bắt đầu khởi sắc và phục hồi trở lại. Tuy nhiên, sự
phục hồi kinh tế ở mỗi quốc gia và khu vực rất khác nhau, tạo nên
bức tranh toàn cảnh của kinh tế thế giới với những gam mầu sáng đa
dạng. Đài Loan là một nền kinh tế hướng ngoại, đặc biệt trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khi Đài Loan đã trở thành thành
viên WTO thì cũng không tránh khỏi những tác động tích cực và
tiêu cực đến nền kinh tế. Tác động này được thể hiện rõ nét qua tốc
độ tăng trưởng của kinh tế Đài Loan trong những năm qua.
CHƯƠNG II
KINH TẾ ĐÀI LOAN TRƯỚC KHI GIA NHẬP WTO
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, nền kinh tế Đài Loan lâm
vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng: sản xuất đình đốn, hàng
hóa khan hiếm, tốc độ lạm phát cao chưa từng thấy, đời sống nhân
dân vô cùng khó khăn, thiếu thốn. Năm 1948, sản xuất nông
nghiệp chỉ đạt 59% so với năm 1941, không đủ cung cấp lương
thực cho người dân trên đảo 2. Sản xuất công nghiệp còn bi đát, trì
trệ hơn nhiều. Các ngành công nghiệp nặng không có điều kiện
phát triển đã đành, các ngành công nghiệp nhẹ truyền thống cũng
rơi vào tình trạng thụt lùi hoặc dậm chân tại chỗ. Tỷ lệ lạm phát là
thử thách lớn nhất đối với Đài Loan khi đó. Theo thống kê, khối
lượng tiền do Ngân hàng Đài Loan phát hành vào năm 1946 là 5,3
tỷ; năm 1947: 17,1 tỷ; năm 1948: 142 tỷ và năm 1949 là 527 tỷ
Đài tệ 3. Nền kinh tế Đài Loan khi đó được ví như một cơ thể ốm
yếu, chênh vênh bên bờ vực thẳm, chỉ đôi chút sai lầm là vô
phương cứu vãn.
Sau khi rời đại lục ra lập chính quyền tại Đài Loan vào tháng
12-1949, chính quyền Quốc Dân đảng đã thực thi chính sách khôi
phục và phát triển kinh tế đúng đắn, đưa Đài Loan thoát khỏi đói
nghèo, vươn dậy mạnh mẽ và trở thành một trong những nền công
nghiệp mới phát triển vào thập kỷ 70 thế kỷ XX. Trong quá trình
xây dựng và phát triển, Đài Loan đã tích cực thực hiện chiến lược
2
3
Chương Thắng Nham: Lịch sử khai phát Đài Loan. Đại học Không Trung (Đài Loan), 1996,
tr.30.
Ngô Vinh nghĩa: Sách lược phát triển công nghiệp Đài Loan. Hội nghiên cứu quốc tế về
phát triển kinh tế xã hội người Hoa, 1986, tr.120.
quốc tế hóa, từng bước hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế
toàn cầu. Đây cũng chính là nguyên nhân quan trọng tạo nên “kỳ
tích” kinh tế Đài Loan. Có thể nói, với chính sách hướng ngoại
thiết thực, đầy hiệu quả, nền kinh tế Đài Loan đã có sự chuẩn bị
khá kỹ càng trước khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, phù
hợp với những yêu cầu nghiêm ngặt của tổ chức này.
I. CÁC CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ ĐÀI LOAN
TỪ NĂM 1949 ĐẾN NĂM 2002
Những thành quả mà Đài Loan giành được trong lĩnh vực kinh
tế đã chứng minh rõ tính đúng đắn, sáng tạo của hệ thống chính sách
được thực thi suốt chặng đường dài một phần hai thế kỷ, trước khi
khu vực này chính thức trở thành thành viên Tổ chức Thương mại
thế giới. Có thể khẳng định, chính quyền Đài Loan không chỉ xác
định đúng đắn chiến lược phát triển kinh tế lâu dài, mà còn định ra
những bước đi cũng hết sức hợp lý trong mỗi thời kỳ, phù hợp với
yêu cầu và trình độ xây dựng kinh tế - xã hội từng giai đoạn. Nhìn
lại hệ thống chính sách kinh tế được áp dụng ở Đài Loan, chúng ta
có thể nhận thấy chính quyền Đài Loan đã thành công ở chỗ biết
căn cứ vào những đặc điểm cơ bản nhất, những điểm mạnh có thể
khai thác, tạo cơ sở chắc chắn cho mục tiêu xây dựng và phát triển
kinh tế trong từng giai đoạn; đồng thời Đài Loan còn biết khai thác
tối đa những kết quả đã đạt được trong giai đoạn trước để phục vụ
nhu cầu phát triển kinh tế trong giai đoạn sau. Sau đây chúng tôi xin
trình bày và phân tích các chính sách phát triển kinh tế Đài Loan từ
sau năm 1949 đến trước ngày gia nhập WTO.
1. Khôi phục và ổn định kinh tế (1949-1953)
Đứng trước tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng của nền kinh
tế sau chiến tranh, chính quyền Quốc Dân đảng xác định cần tiến
hành một số biện pháp cải cách nhằm mục tiêu quan trọng trước hết
là phục hồi nền kinh tế, đưa Đài Loan thoát khỏi nguy cơ sụp đổ.
Hai nội dung cải cách quan trọng nhất được thực hiện trong giai
đoạn này là:
1.1. Cải cách ruộng đất
Đài Loan là khu vực kinh tế nông nghiệp, vì thế ruộng đất là
khâu cực kỳ quan trọng, cần được giải quyết căn bản ngay từ giai
đoạn đầu. Trong thời kỳ Nhật Bản thống trị, ruộng đất chủ yếu tập
trung trong tay người Nhật và giai cấp địa chủ Đài Loan (chiếm tới
77,6%)4. Để đặt nền móng cho sự phát triển nông nghiệp, chính
quyền Đài Loan đã tiến hành cải cách ruộng đất, bắt đầu từ năm
1949 và cơ bản hoàn thành vào năm 1953. Cuộc cải cách ruộng đất
ở Đài Loan được chia làm 3 bước:
Bước thứ nhất: giảm tô 375
Trước khi Tưởng Giới Thạch đem quân từ đại lục ra nắm chính
quyền, người nông dân Đài Loan hàng năm phải nộp tô từ 50-70%
sản lượng lương thực thu hoạch trên mảnh ruộng cày thuê cho địa
chủ. Với chủ trương giảm gánh nặng sưu thuế cho nông dân, chính
quyền Đài Loan quy định mức thu tô nhất loạt không được vượt quá
37,5% tổng sản lượng thu hoạch nông phẩm chính vụ; những nơi
đang có mức thu tô thấp hơn tỷ lệ đó không được điều chỉnh cao
4
Lí Nhân, Lí Tùng Lâm (chủ biên): Bốn mươi năm Đài Loan. Nxb Nhân dân Sơn Tây, 1992,
tr.66.
hơn. Tính đến năm 1952 đã có trên 29% đất canh tác được giảm tô,
với 43% số nông dân có cuộc sống được cải thiện hơn rất nhiều5.
Bước thứ hai: phóng lĩnh đất công
Tính đến năm 1952, diện tích đất công ở Đài Loan có khoảng
181 ngàn héc-ta, xấp xỉ 21% tổng diện tích đất canh tác toàn đảo 6.
Nhằm từng bước xác lập quyền sở hữu ruộng đất của người nông
dân, tháng 6-1951, chính quyền Đài Loan ban hành văn bản “Biện
pháp phóng lĩnh đất công cho nông dân tự canh”, với nội dung cụ
thể như sau: ngoài những phần đất cần giữ lại vì mục đích bảo vệ
nguồn nước hoặc xây dựng công trình công cộng, số còn lại sẽ bán
cho nông dân; giá đất bán được tính bằng giá trị sản phẩm thu
hoạch cả năm trên mảnh ruộng đó nhân với 2,5; người mua đất trả
tiền trong 10 năm, định kỳ mỗi năm 2 lần, sau khi trả đủ tiền, quyền
sở hữu ruộng đất thuộc về người mua. Từ năm 1951 đến năm 1964,
chính quyền Đài Loan đã bán 110 ngàn ha ruộng cho 246 ngàn hộ
nông dân, bình quân mỗi hộ được quyền sử dụng 0,49 ha.
Bước thứ ba: thực hiện người cày có ruộng
Đây là mục tiêu cuối cùng, cũng là mục tiêu đích thực của công
cuộc cải cách ruộng đất. Tháng 1-1953, chính quyền Đài Loan công
bố “Điều lệ thực hiện người cày có ruộng”, với 3 nguyên tắc cơ
bản: đưa lại ruộng đất cho nông dân; chiếu cố lợi ích của địa chủ và
chuyển vốn bán ruộng của địa chủ vào các ngành sản xuất công
nghiệp trọng điểm. Giá bán đất và kỳ hạn trả tiền được áp dụng như
quy định “phóng lĩnh đất công”. Giá đất địa chủ bán cho chính
5
6
Cao Hy Quân, Lí Thành (chủ biên): Bốn mươi năm kinh nghiệm Đài Loan. Nxb , Hà Nội
1992, tr.97. (sách dịch)
Lí Nhân, Lí, Tùng Lâm (chủ biên): Bốn mươi năm Đài Loan. Nxb Nhân dân Sơn Tây, 1992,
tr.69.
- Xem thêm -