Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Kinh nghiệm sử dụng đồ dùng dạy học giúp học sinh lớp 5 phát huy tính tích cực, ...

Tài liệu Kinh nghiệm sử dụng đồ dùng dạy học giúp học sinh lớp 5 phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo khi học tập môn toán

.PDF
26
22
70

Mô tả:

A/ MỞ ĐẦU I/ LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII diễn ra vào ngày 2028/1/2016, kế thừa quan điểm chỉ đạo của nhiệm kì trước, Đảng ta đưa ra đường lối đổi mới căn bản toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, xác định đây là một kế sách, quốc sách hàng đầu, tiêu điểm của sự phát triển, mang tính đột phá, khai mở con đường phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong thế kỉ XXI, khẳng định triết lí nhân sinh mới của nền giáo dục nước nhà “dạy người, dạy chữ, dạy nghề”. Nghị quyết 29- NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo chỉ ra giải pháp đó là: “ Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học; khắc khục cách truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực.”[1] Để góp phần đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, vai trò của người giáo viên là vô cùng quan trọng vì thầy cô vừa là người truyền thụ tri thức, vừa là người hướng dẫn thực hành. Với đặc điểm tâm lí lứa tuổi của học sinh tiểu học thì đồ dùng dạy học không những giúp người giáo viên dẫn dắt học sinh đi đến kiến thức mà nếu biết khai thác triệt để, sử dụng khéo léo sẽ giúp học sinh nhớ kĩ, khắc sâu kiến thức, vận dụng tốt trong đời sống hàng ngày, là khởi nguồn cho những đam mê sáng tạo của các em. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn nhiều giờ học diễn ra tẻ nhạt, học sinh ít xây dựng bài, chỉ tiếp thu kiến thức một cách thụ động và ghi chép đầy vở như một cách đối phó; hiện tượng học sinh “học trước quên sau”, ghi nhớ không bền vững, đặc biệt là học sinh vùng khó khăn là một thách thức không hề nhỏ đối với giáo viên. Một trong những nguyên nhân đó là việc sử dụng đồ dùng dạy học chưa hợp lí, chưa phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Vậy, sử dụng đồ dùng dạy học như thế nào để giúp các em phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, mang lại hiệu quả cao cho giờ học? Đó là bài toán mà mỗi người thầy tâm huyết luôn tìm câu trả lời. Với mong muốn được tìm hiểu, nghiên cứu sâu hơn về lĩnh vực sử dụng đồ dùng dạy học trong môn Toán góp phần nâng cao hiệu quả dạy học; trau dồi kinh nghiệm cho bản thân và trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp, tôi nghiên cứu đề tài : "Kinh nghiệm sử dụng đồ dùng dạy học giúp học sinh lớp 5 phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo khi học tập môn Toán" . II/ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: Là một giáo viên đứng lớp, bản thân tôi luôn mong muốn có được kĩ năng tốt trong việc sử dụng đồ dùng dạy học để giúp học sinh học tập sôi nổi, tích cực, chủ động, sáng tạo. Sau mỗi giờ học, các em sẽ lưu giữ kiến thức tốt hơn; biết vận dụng giải quyết tình huống trong học tập và vận dụng vào thực tế đời sống hàng ngày. Đó cũng chính là mục đích nghiên cứu của đề tài này. III/ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: - Nghiên cứu cơ sở lí luận về sự phát triển tâm sinh lí và đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học. - Thực trạng sử dụng đồ dùng dạy học của giáo viên, học sinh trong môn Toán lớp 5 ở trường Tiểu học Thanh Tân 1 - Như Thanh. - Tổng kết vấn đề về Kinh nghiệm sử dụng đồ dùng dạy học giúp học sinh lớp 5 phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo khi học tập môn Toán . IV/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: - Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết. - Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin. - Phương pháp nghiên cứu, rút kinh nghiệm thông qua thực hành giảng dạy. B/ NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM I/ CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: Đối tượng, sản phẩm của nghề dạy học chính là sự tiến bộ của học sinh. Ở lứa tuổi tiểu học, các em rất hồn nhiên, vô tư và trong sáng. Đây là tuổi các em đang hình thành và phát triển cả về tâm sinh lí, đang từng bước gia nhập vào các mối quan hệ xã hội. Các em sẽ dễ thích nghi với cái mới nhưng cũng thiếu độ tập trung cao; khả năng ghi nhớ và chú ý có chủ định chưa phát triển mạnh, tính hiếu động, dễ xúc động còn bộc lộ rõ nét. Trẻ nhớ nhanh và quên cũng nhanh. Trong quá trình dạy học, người giáo viên cần biết dẫn dắt, định hướng cho học sinh cách nhìn đúng đắn về sự vật hiện tượng, giúp các em có kĩ năng nhìn, xem xét, lắng nghe. Bên cạnh sự phát triển của tri giác, chú ý có chủ định của học sinh còn yếu, khả năng điều chỉnh ý chí có chú ý chưa mạnh vì vậy các em thường phân tán, làm việc riêng. Bởi vậy đồ dùng dạy học là phương tiện quan trọng để thu hút, tổ chức sự chú ý của học sinh, làm cho giờ học lôi cuốn, hấp dẫn. Ở lứa tuổi lớp 5, tư duy của các em đã chuyển dần sang tính khái quát nên giáo viên khi sử dụng đồ dùng dạy học cần giúp học sinh quan sát đến phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa, phát triển khả năng phán đoán, suy luận, kết luận về các vấn đề trong giờ học. II/ THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: 1. Thực trạng việc sử dụng đồ dùng dạy học trong dạy học môn Toán lớp 5 ở trường Tiểu học Thanh Tân 1. Sử dụng thiết bị và đồ dùng dạy học hiệu quả luôn là con đường ngắn nhất để đạt được mục tiêu giờ học, đặc biệt là đối với học sinh tiểu học. Sử dụng đồ dùng dạy học cũng là một trong những tiêu chí đánh giá chuyên môn nghiệp vụ của người giáo viên. Đáp ứng thực tế dạy học và yêu cầu của việc đổi mới nội dung chương trình SGK, giáo viên ngày càng nhận thức được tầm quan trọng của việc sử dụng đồ dùng dạy học nên với đa số giáo viên đã có thói quen sử dụng đồ dùng mỗi giờ lên lớp. Bên cạnh việc sử dụng những đồ dùng dạy học sẵn có trong thư viện, nhiều đồng chí giáo viên tâm huyết với nghề nghiệp đã luôn có ý thức sưu tầm, thiết kế, sáng tạo ra những đồ dùng dạy học thiết thực, có ứng dụng tốt trong quá trình giảng dạy. Với mục tiêu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục “dạy học cần phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học” thì đổi mới phương pháp trong việc sử dụng đồ dùng dạy học là vô cùng thiết thực. Tuy vậy, do nhiều nguyên nhân mà việc sử dụng đồ dùng dạy học còn nhiều hạn chế. Đó là: - Vẫn còn nhiều giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học chỉ nhằm hướng dẫn lặp lại theo mẫu hoặc chỉ để minh hoạ bài học trong sách giáo khoa...tạo ra những giờ học buồn tẻ. Có những giáo viên chỉ sử dụng đồ dùng dạy học quá lạm dụng, tình trạng bảng dán đầy phiếu học tập từ đầu buổi đến cuối buổi vẫn xảy ra khi có dự giờ thăm lớp. Thậm chí có những giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học còn lúng túng, chưa đúng lúc, đúng chỗ, chưa phù hợp với nội dung bài học làm cho tiến trình giờ học trở nên phức tạp, khó hiểu. Việc chuẩn bị đồ dùng dạy học toán còn sơ sài, chiếu lệ, thiếu tính ứng dụng, thiếu tính khoa học, chưa phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả dạy học. - Việc chuẩn bị đồ dùng dạy học môn Toán thường do giáo viên đảm nhiệm, học sinh ít được giao nhiệm vụ chuẩn bị đồ dùng hoặc nếu có chỉ là những món đồ mua sẵn...điều đó sẽ hạn chế khả năng tự tìm tòi, tích cực, sáng tạo của học sinh. - Một số đồ dùng dạy học như máy tính, máy chiếu, thiết bị thu âm, băng đĩa...còn ít được sử dụng. - Một số giáo viên lớp 5 chưa coi trọng việc sử dụng đồ dùng trong dạy Toán, chưa dành thời gian để nghiên cứu, làm đồ dùng dạy học, ngại sử dụng đồ dùng dạy học vì cho rằng nó tốn kém, rườm rà; trường có nhiều khu lẻ nên việc tìm và mượn đồ dùng cũng gặp khó khăn; một số đồng chí không sử dụng các thiết bị đồ dùng dạy học mang tính ứng dụng công nghệ thông tin vì chưa biết sử dụng và ngại nghiên cứu, học tập. Năm học 2016- 2017, cùng với việc đẩy nhanh tiến độ xây dựng trường Chuẩn Quốc gia là việc xây dựng xây dựng thư viện Tiên tiến, trường Tiểu học Thanh Tân 1 chúng tôi cũng đã mua sắm, bổ sung nhiều sách, thiết bị , máy tính, máy chiếu, đồ dùng dạy học theo quy định chung của ngành. Ngoài ra thư viện nhà trường cũng được bổ sung thêm đồ dùng dạy học từ các nguồn tài trợ, từ sự đóng góp của chính giáo viên để mua bổ sung hoặc từ sự tích cực, sáng tạo đã làm ra được các đồ dùng phục vụ cho công tác giảng dạy trong năm học. 2.Thực trạng đối tượng học sinh lớp 5B. Theo sự phân công nhiệm vụ của hiệu trưởng nhà trường tôi làm chủ nhiệm và giảng dạy lớp 5B. - Đặc điểm tình hình lớp: Tổng số học sinh: 24 em. + Học sinh nam: 11 em + Học sinh nữ: 13 em. + Học sinh là con em dân tộc: 9 em. + Học sinh trái tuyến : 7 em. + Học sinh được hưởng chính sách hộ nghèo: 11em. + Học sinh thuộc diện nhà xa trường quá 4km: 12 em. - Thuận lợi: + Bản thân là giáo viên địa phương luôn yên tâm công tác, có lòng yêu nghề mến trẻ và tâm huyết với nghề nghiệp. Tôi có điều kiện thuận lợi trong việc tìm hiểu hoàn cảnh và dìu dắt các em. + Đa số học sinh hiếu động, hồn nhiên, ham hiểu biết. + Lãnh đạo nhà trường, tổ chuyên môn…thường xuyên quan tâm sát sao, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác giảng dạy. + Những năm gần đây do điều kiện kinh tế xã hội ngày càng phát triển, đa số phụ huynh học sinh ngày càng chú trọng, quan tâm việc học hành của con em . - Khó khăn: + Nhiều học sinh là con em gia đình nông dân nghèo có hoàn cảnh khó khăn, cha mẹ ốm đau, bệnh tật, đi làm ăn xa; nhiều học sinh sống xa trường, những hôm thời tiết mưa gió, đi lại khó khăn khiến các em thường xuyên nghỉ học. Mặt khác, kĩ năng giao tiếp của học sinh còn hạn chế, chưa mạnh dạn, tự tin nên các em thường tiếp thu bài thụ động, ít sự hăng hái xây dựng bài. + Có nhiều học sinh gặp khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức, qua khảo sát đầu năm còn có những em chưa hoàn thành về cả hai môn Toán, Tiếng Việt. III/ CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: 1. Thay đổi và nâng cao nhận thức của bản thân và đồng nghiệp trong việc sử dụng đồ dùng dạy học. Xuất phát từ những thực tế trong công tác giảng dạy và yêu cầu phát triển giáo dục trong giai đoạn mới, tôi nhận thức rõ vai trò của người giáo viên là lực lượng giáo dục chính, là người hướng dẫn, tổ chức quá trình hoạt động của trẻ ở nhà trường. Chính vì vậy mỗi giáo viên cần không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tự học hỏi đồng nghiệp, tự phát huy năng lực bản thân. Từ nhận thức trên tôi rèn cho mình thói quen sử dụng đồ dùng dạy học; trao đổi với đồng nghiệp về ứng dụng, phương pháp sử dụng các loại đồ dùng dạy học và những ý tưởng mới trong quá trình thực hành trên lớp. Thường xuyên nghiên cứu nội dung chương trình sách giáo khoa; tìm hiểu về các thiết bị đồ dùng dạy học; xem xét các thiết bị đó sẽ sử dụng vào bài dạy nào? Sử dụng thiết bị ở hoạt động nào? Giúp học sinh khai thác kiến thức gì? Đưa thiết bị, đồ dùng vào thời điểm nào? Cách thực hiện ra sao để phát huy được tích tích cực, tự giác và khả năng sáng tạo của học sinh?... Tích cực dự giờ thăm lớp, lắng nghe ý kiến góp ý của đồng nghiệp, tham gia đầy đủ các buổi sinh hoạt chuyên môn…từ đó phát hiện ra những đơn vị kiến thức còn thiếu sự hỗ trợ của thiết bị dạy học, cần phải sưu tầm, làm thêm hoặc có hướng suy nghĩ cải tiến một số đồ dùng dạy học còn thiếu tính ưu việt. 2. Nghiên cứu những nội dung trong chương trình Toán lớp 5 cần thiết phải sử dụng đồ dùng dạy học. Trong mỗi giờ lên lớp ta đều cần sử dụng đồ dùng dạy học. Những nội dung cơ bản mà khi dạy không thể thiếu đồ dùng, thiệt bị hỗ trợ. Đó là: Chương I, II: - Các bài Ôn tập về phân số và bài về hỗn số. - Các bài ôn tập về giải toán có lời văn. - Ôn tập về các đại lượng: Đo độ dài, đo khối lượng. - Bài học mới về đơn vị đo diện tích: Đề-ca-mét vuông, Héc-tô -mét vuông, Mili-mét vuông, bảng đơn vị đo diện tích. - Các bài về khái niệm số thập phân, cấu tạo số thập phân. - Bài về tỉ số phần trăm và giải toán về tỉ số phần trăm. Chương III: Phần hình học. - Các bài về hình tam giác, diện tích hình tam giác; hình thang, diện tích hình thang; hình tròn, đường tròn, chu vi, diện tích hình tròn; biểu đồ hình quạt. - Các bài về hình hộp chữ nhật, hình lập phương; diện tích xung quanh và diện tích toàn phần của hình hộp chữ nhật, diện tích xung quanh và diện tích toàn phần của hình lập phương. - Các bài về thể tích: Thể tích của một hình, Xăng-ti-mét khối, đề-xi-mét khối, mét khối; Thể tích của hình hộp chữ nhật, thể tích hình lập phương. - Bài giới thiệu về hình trụ, hình cầu. 3. Lập kế hoạch phấn đấu , rèn luyện nâng cao chất lượng học sinh. * Kết quả kiểm tra khảo sát đầu năm chất lượng môn Toán của lớp đạt được là : + Điểm 9,10: 2 em. + Điểm 7,8: 2 em. + Điểm 5,6: 14 em. + Điểm dưới 5: 6 em. Căn cứ vào kết quả khảo sát đầu năm, tôi lập kế hoạch chỉ tiêu phấn đấu môn Toán như sau: Giữa học kì I SL TL Hoàn thành tốt 6em 25% Hoàn thành 14 em 58,3% Cần bồi dưỡng để 4 em 16,7% hoàn thành Cuối học kì I SL TL 9 em 37,5% 13em 54,2% 2 em 8,3% Giữa học kì II SL TL 12 em 50% 11 em 45,8% 1 em 4,2% Cuối năm SL TL 14 em 58,3% 10 em 41,7% 0 0 4. Nghiên cứu chủng loại đồ dùng dạy học Toán lớp 5; sưu tầm và làm đồ dùng dạy học ; thiết kế bài dạy môn toán đảm bảo phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Trên cơ sở danh mục thiết bị và đồ dùng dạy học tối thiểu dành cho môn Toán lớp 5 ban hành( kèm theo quyết định số Quyết định số 16/2006/QĐBGDĐT ngày 05 tháng 5 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo), Thư viện nhà trường hiện có 3 bộ thiết bị dành cho giáo viên và 50 bộ dành cho học sinh. * Thiết bị, đồ dùng cho GV, mỗi bộ gồm có: Hình tròn:- Gồm 5 hình tròn đường kính 200mm, dày 2mm làm bằng nhựa HI màu trắng (Tất cả đều gắn được trên bảng từ). Trong đó: + 2 hình, mỗi hình có một mặt sơn mầu đỏ; một mặt sơn màu trắng kẻ đường chia làm 8 phần bằng nhau. + 1 hình có 2 vạch chia làm 4 phần bằng nhau, sơn màu đỏ ¾ + 1 hình có 1 vạch chia làm 2 phần bằng nhau, sơn màu đỏ 1/2. + 1 hình có 2 vạch chia làm 4 phần bằng nhau, sơn màu đỏ ¼ - Hình tròn động: gồm 2 hình tròn đường kính 200mm, độ dày 2mm (1 bằng nhựa HI trắng sứ, 1 bằng nhựa PS trong suốt, viền đen). Mỗi hình chia 8 phần, sơn màu đỏ 4/8. Hình thang:(Tất cả đều gắn được trên bảng từ) - Gồm 2 hình thang bằng nhau, kích thước đáy lớn 280mm, đáy nhỏ 200mm, cao 150mm, nhựa HI, dày 2mm(1 hình giữ nguyên, 1 hình cắt ra 4 phần ghép lại được hình tam giác). Hình tam giác: (Tất cả đều gắn được trên bảng từ) - Gồm 2 hình tam giác bằng nhau, kích thước cạnh đáy 250mm, cạnh xiên 220mm, cao 150mm, dày 2mm, bằng nhựa HI màu xanh coban: + 1 hình tam giác giữ nguyên, có kẻ đường cao màu đen. + 1 hình cắt thành 2 tam giác theo đường cao để ghép với hình trên được hình chữ nhật. Hình hộp chữ nhật: Gồm 2 hình: + 1 hình hộp chữ nhật kích thước 200 x 160 x 100mm, 4 mặt xung quanh màu trắng, 2 đáy màu đỏ, bằng nhựa HI-PS dày 2mm, các mặt liên kết với nhau bằng màng PET 0,05mm, có thể mở ra . + 1 hình hộp chữ nhật biểu diễn cách tính thể tích, kích thước trong hộp (200 x 160 x 100)mm, bằng nhựa PS trong suốt dài 2mm. Bên trong chứa 1 tấm đáy (200 x 160 x 10)mm và 1 cột (10 x 10 x 90)mm, sơn ô vuông (10 x 10)mm. Hình lập phương: Gồm 14 hình: + 1 hình lập phương cạnh 200mm, 4 mặt xung quanh màu trắng, 2 mặt đáy màu đỏ, bằng nhựa HI-PS dày 2mm, các mặt liên kết với nhau bằng màng PET 0.05mm, có thể mở ra thành hình khai triển của hình lập phương. + 1 hình lập phương cạnh 1dm biểu diễn thể tích 1dm 3, bằng nhựa PS trong suốt, bên trong chứa 1 tấm đáy có kích thước gần bằng (100 x 100 x 10)mm và 1 cột (10 x 10 x 90)mm. + 12 hình lập phương cạnh 40mm (6 hình màu xanh coban, 6 hình màu trắng), bằng nhựa HI. Hình trụ: Bằng nhựa PS trong suốt dày 2mm, đáy có đường kính 100mm, cao 150mm. Hình cầu: 1 hình, bằng nhựa PS trong, dày 3mm, đường kính 200mm; Giá đỡ bằng nhựa PVC. Ê-ke: 1 cái, bằng nhựa AS trong suốt, các cạnh: (300 x 400 x 500)mm. Compa: Kích thước từ 300mm đến 400mm, 1 bộ. * Thiết bị, đồ dùng cho HS, mỗi bộ gồm có: Bộ hình tròn:- Gồm 4 hình tròn đường kính 40mm, dày 1,2mm, bằng nhựa HI màu trắng sứ, có viền đen rộng 0,5mm: 2 hình, một mặt sơn màu đỏ cờ; 1 hình có 2 vạch chia làm 4 phần bằng nhau, sơn màu đỏ cờ ¾; 1 hình có một vạch chia làm 2 phần bằng nhau, sơn màu đỏ cờ ½. - Hình tròn động: gồm 2 hình tròn đường kính 40mm, dày 1,2mm (1 bằng nhựa HI trắng sứ, 1 bằng nhựa PS trong suốt) chuyển động quay. Hình vuông:- Gồm 4 hình vuông cạnh 40mm, dày 1,2mm, nhựa HI trắng sứ, 0,5mm: + 2 hình: một mặt sơn xanh, 1 mặt trắng có vạch qua tâm làm 8 phần bằng nhau; 1 hình có vạch chia làm 8 phần, sơn màu xanh coban 5/8. Hình thang: Gồm 2 hình thang bằng nhau, kích thước 2 đáy 80mm và 50mm. + 1 hình thang nguyên; 1 hình thang cắt ra 2 phần ghép lại được hình tam giác. Hình tam giác: Gồm 2 hình tam giác bằng nhau, kích thước đáy 80mm, cao 40mm, 1 góc 600, nhựa HI, dày 1,2mm, màu xanh coban: + 1 hình tam giác nguyên, có kẻ đường cao; 1 hình tam giác cắt theo đường cao thành 2 tam giác để ghép với hình trên được hình chữ nhật (80 x 40)mm; 1 hình tam giác nguyên, có kẻ đường cao; 1 hình tam giác cắt theo đường cao thành 2 tam giác để ghép với hình trên được hình chữ nhật (80 x 40)mm. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân mà đồ dùng đã bị thất thoát, hư hỏng, thiếu hụt nhiều. Trường lại ở địa bàn miền núi, có nhiều điểm trường lẻ nên việc vận chuyển, trao đổi đồ dùng của các giáo viên trong trường gặp không ít khó khăn. Ngoài những loại đồ dùng có trong danh mục, tôi đã nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo, tích cực sưu tầm và làm đồ dùng dạy học. Các loại đồ dùng thường xuyên phải làm và sưu tầm như: biểu bảng, phiếu học tập, ô chữ, vòng số, đạo cụ trò chơi học tập, các mô hình hình học,… Ví dụ: Khi dạy củng cố ôn tập cho học sinh về kĩ năng tính nhẩm nhân, chia một số thập phân với 10,100,1000…và kĩ năng tính nhẩm nhân, chia một số thập phân với 0,1; 0,01; 0,001;…tôi thiết kế Vòng quay kì diệu như sau: Cấu tạo gồm: Đế vòng quay, trục quay, giá đỡ, vòng quay có các yêu cầu phép tính cần nhẩm ra kết quả, tay quay, mũi tên, các chi tiết trang trí, số và chữ … Vật liệu: Một vỏ hộp bánh Cosi ( nắp trên làm vòng quay, thân vỏ làm giá đỡ), vòng đế bằng bìa cứng có trang trí hoa lá và gắn các số thập phân, mũi tên bằng tấm tôn mỏng gắn cố định, tay quay bằng nhựa trong, đinh, ốc vít, trục đế quay là chiếc tua vít cũ, nắp trục, giấy màu, keo dán, kéo… Cách làm: Dùng ốc vít gắn cố định trục vào nắp hộp bánh và mũi tên trang trí vòng quay bằng giấy màu gắn phép tính và chữ số theo mục đích sử dụng Gắn cố định tay quay vào vòng quay gắn cố định vòng đế bằng bìa vào trục. Cách chơi: Chia lớp thành các đội chơi; mỗi đội cử 1 thành viên lên xoay vòng và được ưu tiên đưa ra kết quả, nếu trong thời gian nhất định đội đó không đưa ra được kết quả đúng thì phải nhường quyền cho đội khác; cuối cùng tính điểm xem đội nào cao điểm sẽ thắng cuộc. Lưu ý: Vòng quay kì diệu có thể ứng dụng với nhiều nội dung ôn tập khác như: tính chu vi, diện tích các hình; thực hiện 4 phép tính cơ bản; thi đố vui; thi tìm công thức đúng… Kết quả: Học sinh em nào cũng rất hào hứng tham gia chơi và nhanh chóng đưa ra kết quả đúng; lớp học sôi nổi; kĩ năng ghi nhớ và tính toán nhanh của học sinh tiến bộ rõ rệt. Sau mỗi giờ dạy, nếu đồ dùng còn sử dụng được, tôi sẽ trao đổi với đồng nghiệp để dùng chung hoặc cất vào góc thư viện của lớp. Vòng quay kì diệu( Một loại đồ dùng dạy học tự làm) Một góc thư viện của lớp 5B Phiếu học tập là một loại đồ dùng thường xuyên được sử dụng trong giờ học toán và có thể sử dụng được ở hầu hết các hoạt động như: Dùng để kiểm tra bài cũ, dùng để giúp học sinh hình thành kiến thức mới, dùng để thực hành luyện tập, kiểm tra kết quả học tập cuối giờ học, dùng cho cá nhân hoặc dùng cho nhóm…Phiếu học tập cần được thiết kế bám sát nội dung từng hoạt động trong bài. Chữ ghi trong phiếu phải to, rõ, trình bày khoa học. Các dạng bài tập trong phiếu cần đảm bảo tính phân loại các đối tượng học sinh, đồng thời nâng dần yêu cầu với từng loại đối tượng, giúp học sinh có độ “vươn” cần thiết. Cũng như tất cả các loại đồ dùng dạy học khác, khi sử dụng các loại phiếu học tập chúng ta cần tránh lạm dụng như: sử dụng phiếu trong nhiều hoạt động, phiếu được dán khắp nơi, che kín bảng…tạo nên sự phản cảm trong giờ học. Trong dạy học, ta thường phải chấp nhận khả năng tiếp thu và trình độ học sinh không đồng đều. Dạy học cá thể hóa các đối tượng học sinh sẽ đảm bảo cho tất cả học sinh đều tiến bộ. Ngoài việc nắm vững đặc điểm học sinh của lớp, khi thiết kế bài dạy giáo viên cần lưu ý đến khả năng tiếp thu của tất cả các đối tượng học sinh. Sẽ không có một khuôn mẫu cho việc thiết kế một giáo án chuẩn, tuy nhiên tùy vào nội dung kiến thức, tùy vào lớp học mà người giáo viên dự kiến được công việc và chuẩn bị đồ dùng cho một giờ dạy. Ví dụ: Thiết kế bài Diện tích hình thang I/ Mục tiêu:Giúp HS: - Hình thành công thức tính diện tích hình thang. - Nhớ và vận dụng đúng công thức tính diện tích hình thang để giải các bài toán có liên quan. II/ Đồ dùng dạy học: - Bảng phụ, một số mô hình hình học( hình chữ nhật, hình tam giác, hình bình hành, hình thoi, hình thang); phiếu hướng dẫn cắt ghép hình, giấy màu kẻ ô vuông để cắt các hình thang ABCD như trong SGK (6 nhóm học sinh tự phân công chuẩn bị), hình thang nhựa trong bộ đồ dùng Toán 5, kéo. III/ Hoạt động dạy - học chủ yếu: 1. Kiểm tra bài cũ: - GV cho HS quan sát một số mô hình hình học, yêu cầu HS tìm ra hình thang. - GV hỏi để HS chỉ rõ: đáy lớn, đáy bé, chiều cao của hình thang vừa tìm được. - Hỏi: Hình thang vuông có đặc điểm gì?( Hình thang vuông là hình thang có một cạnh bên vuông góc với hai đáy). 2. Dạy, học bài mới: 2.1 Giới thiệu bài: Ở lớp 5 các em đã biết tính diện tích hình tam giác dựa vào việc cắt ghép hình để tìm ra công thức tính. Vậy muốn tính diện tích hình thang ta phải làm như thế nào? Bài học hôm nay chúng ta sẽ cùng tìm hiểu. 2.2 Hướng dẫn cắt ghép hình và xây dựng công thức tính diện tích hình thang : * Cắt ghép hình(làm việc theo nhóm) - GV chia lớp thành 6 nhóm, phát phiếu hướng dẫn cách cắt, ghép hình. - GV yêu cầu HS tự đọc các bước, thảo luận, cắt, ghép và đặt tên hình theo trình tự các bước. Bước 1: Lấy một trong hai hình thang đã chuẩn bị, đặt tên hình là ABCD (Ghi các đỉnh lên hình), AB là đáy bé, DC là đáy lớn. Bước 2: Xác định trung điểm M của cạnh BC. (Dùng thước đo xác định trung điểm M, đánh dấu trên hình - có thể gấp đôi cạnh BC và lấy điểm giữa), nối A với M. Bước 3: Vẽ đường cao AH của hình thang ABCD. H Bước 4: Dùng kéo cắt hình thang ABCD thành hai mảnh theo đường AM. A B C D H Bước 5: Xếp 2 mảnh hình thang thành hình tam giác như hình vẽ và đặt tên cho hình mới. A D H C (B) K(A) - GV đi tới các nhóm, gợi ý, giúp đỡ nếu các em gặp khó khăn. - GV cho HS các nhóm thi trình bày thao tác trước lớp. HS quan sát, nhận xét xem nhóm nào cắt ghép chính xác, nhanh chóng, thuyết minh lưu loát. - GV sử hình thang đã chuẩn bị để mô tả củng cố lại quá trình HS vừa thực hiện và dán hình mẫu lên bảng từ. * So sánh đối chiếu các yếu tố hình học giữa hình thang ABCD và hình tam giác ADK(làm việc cả lớp). - GV chỉ vào hình, yêu cầu HS quan sát hình thang còn lại và hình tam giác ghép được để so sánh: + Diện tích hình thang ABCD như thế nào so với diện tích tam giác ADK?( HS quan sát, so sánh và nêu: Diện tích hình thang ABCD bằng diện tích của hình tam giác ADK). + Muốn tính diện tích hình tam giác ADK ta làm thế nào? (HS: Diện tích tam giác ADK là: S = \f(DKxAH,2 ). + So sánh độ dài DK với DC và CK em thấy thế nào?( HS: độ dài DK = DC + CK). + So sánh độ dài CK với AB em thấy thế nào? (HS: Độ dài CK = AB) + So sánh độ dài DK với độ dài của DC và AB. ( HS: Độ dài DK = (DC + AB) + Biết DK = ( DC + AB), em có thể thay thế vào công thức tính diện tích tam giác vừa tìm được để có cách tính khác. Em nào có thể làm được? ( HS xung phong viết: S = \f(,2 ) + GV nói: Vì diện tích hình thang ABCD bằng diện tích tam giác ADK nên ta có diện tích hình thang ABCD là: S = \f(,2 + GV cho HS nhắc lại. *Rút ra công thức và quy tắc tính diện tích hình thang( thực hiện như sách GV). - GV lần lượt nêu các câu hỏi gợi ý: + DC và AB là gì của hình thang ABCD? (DC và AB là đáy lớn và đáy bé của hình thang ABCD). + AH là gì của hình thang ABCD? ( AH là đường cao của hình thang ABCD). + Vậy, muốn tính diện tích hình thang ta làm thế nào? HS trả lời: Muốn tính diện tích hình thang ta lấy tổng độ dài hai đáy nhân với chiều cao, ( cùng đơn vị đo) rồi chia cho 2. + GV giới thiệu tên gọi: gọi a và b lần lượt là đáy lớn và đáy bé của hình thang, h là chiều cao của hình thang thì công thức tính diện tích hình thang được viết như thế nào? + GV cho HS viết công thức tính vào vở nháp, 1 em lên viết bảng. + GV nhận xét, kết luận. (a+b )×h 2 + Cho HS ghi nhớ công thức tính diện tích hình thang: S = 2.3 Luyện tập - thực hành: - GV nêu các bài tập cần làm. ( Bài 1a, 2a), lưu ý học sinh có thể làm thêm bài tập 1b, 2b, 3 nếu còn thời gian. - Cho HS làm bài tập vào vở. GV theo dõi, giúp đỡ để HS hoàn thành bài tập. - Hướng dẫn HS chữa bài( Sau khi hầu hết các em đã hoàn thành). + Gọi 2 HS lên bảng chữa bài 1a và 2a. + GV gọi HS yêu cầu bài tập, gọi các em khác nêu cách làm của mình. + Gọi HS nhận xét bài của bạn. + GV nhận xét, kết luận, nhấn mạnh nội dung kiến thức cần ghi nhớ. - GV có thể cho HS chữa một số bài làm thêm( nếu còn thời gian). 3. Củng cố, dặn dò: - Gọi HS nêu cách tính diện tích hình thang. - Nhắc HS về học thuộc công thức tính và xem lại bài đã học. * Sau quá trình dạy thực nghiệm, tôi được đồng nghiệp nhận xét : + Giờ học diễn ra sôi nổi, đảm bảo đầy đủ kiến thức, kĩ năng cần thiết. + HS cảm thấy hào hứng vì được thao tác trên đồ dùng - những tờ giấy màu rực rỡ, đẹp mắt. + HS bước vào tìm hiểu kiến thức một cách tự nhiên, vui vẻ, hào hứng. + HS bất ngờ, thú vị khi thấy có thể dựa vào cách cắt ghép, từ một hình thang chuyển thành 1 hình tam giác có cùng diện tích và dựa vào đó để tính diện tích hình mới. + HS thao tác tốt trên đồ dùng, biết phân công nhiệm vụ, các thành viên đều được hoạt động trao đổi học hỏi lẫn nhau. + HS rút ra được công thức tính, áp dụng tốt vào giải quyết bài tập và khắc sâu nội dung bài học. + 100% HS tính được diện tích hình thang và biết vận dụng. + Giờ học vẫn đảm bảo về mặt thời gian. 5. Giúp học sinh sử dụng sách giáo khoa một cách tích cực, chủ động, sáng tạo và hiệu quả. Trái với suy nghĩ của nhiều người: sách giáo khoa không phải là đồ dùng học tập thì với tôi sách giáo khoa là một loại đồ dùng vô cùng quan trọng, nó chiếm giữ vai trò độc tôn mà không một tài liệu học tập nào có thể thay thế. Nội dung SGK Toán lớp 5 chứa đựng kiến thức số học, các số tự nhiên, phân số, số thập phân; các đại lượng thông dụng; một số yếu tố hình học và thống kê đơn giản. Mỗi bài học đều có một mục tiêu cụ thể nhằm hướng tới mục tiêu khái quát mang tính tổng hợp ở cấp độ cao hơn của chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Toán. Sách giáo khoa Toán 5 là một tài liệu dễ sử dụng. Bất kỳ HS nào cũng có thể dễ nhận biết được những gì cần học và cần thực hành trong mỗi quyển SGK Toán, và vì vậy nó trở thành “người bạn”, “người thầy” của HS trong quá trình tự học. Ở lớp 5 học sinh đã đọc thông, viết thạo, hiểu và khái quát được văn bản. Tư duy trừu tượng đã phát triển nên việc để học sinh tự nghiên cứu, trao đổi, tìm tòi kiến thức là điều cần thiết. Thay vì áp đặt lối hướng dẫn truyền thống, ở một số bài học kiến thức mới tôi mạnh dạn cho học sinh đọc sách và trao đổi cách thực hiện dưới sự chủ trì của giáo viên. Ví dụ: Hướng dẫn nhân một số thập phân với một số thập phân (Bài : Nhân một số thập phân với một số thập phân) - GV cho HS đọc thầm ví dụ 1( SGK) và trao đổi nhóm đôi theo yêu cầu sau: + Trong ví dụ, người ta sử dụng phép nhân 6,4 x 4,8 để làm gì? ( Để tính diện tích mảnh vườn). + Em hãy cho biết: có mấy cách thực hiện phép nhân 6,4 x 4,8? Nêu cụ thể từng cách thực hiện. HS nêu: Ta phải thực hiện phép đổi: 6,4m = 64dm; 4,8m = 48dm. Cách 1: Thực hiện phép nhân số tự nhiên: 64 x 48 = 3072 ( dm2). Đổi: 3072 dm2 = 30,72 m2. Ghi kết quả: 6,4 x 4,8 = 30,72 (m2) Cách 2:( Cách thông thường) Ta đặt tính và thực hiện nhân như nhân số tự nhiên. Đếm trong phần thập phân của cả hai thừa số có tất cả 2 chữ số rồi dùng dấu phẩy tách ra ở tích 2 chữ số kể từ phải sang trái. Ghi kết quả: 6,4 x 4,8 = 30,72 (m2). + GV gọi vài HS khác nhận xét, nêu thắc mắc về cách thực hiện( nếu có). + Cho HS thực hiện vào vở nháp, gọi 1 em lên bảng thực hiện cách làm và nêu rõ các bước thực hiện tính. 6,4 * Tích riêng thứ nhất: 8 nhân 4 bằng 32, viết 2 nhớ 3. x 4,8 8 nhân 6 bằng 48, nhớ 3 là 51, viết 51. 512 * Tích riêng thứ 2: 4 nhân 4 bằng 16, viết 6 nhớ 1. 256 4 nhân 6 bằng 24, nhớ 1 là 25, viết 25. 2 30,72 (m ) * Cộng hai tích riêng bằng 3072. * Đếm trong phần thập phân của cả hai thừa số có tất cả 2 chữ số rồi dùng dấu phẩy tách ra ở tích 2 chữ số kể từ phải sang trái. * Kết quả: 6,4 x 4,8 = 30,72 (m2). - GV cho HS thực hiện tương tự với ví dụ 2: 4,75 x 1,3 = ? - Cho HS rút ra quy tắc và nhắc lại nhiều lần.Yêu cầu HS so sánh cách thực hiện nhân một số thập phân với một số thập phân và nhân 2 số tự nhiên; nhân một số thập phân với một số thập phân và nhân một số thập phân với một số tự nhiên. Nhận xét: Ưu điểm:Quá trình HS tự đọc sách, thảo luận và thực hiện diễn ra sôi nổi, học sinh tự tìm ra kiến thức, ghi nhớ và khắc sâu kiến thức. HS biết so sánh, đối chiếu với cách làm cũ, nhận ra sự khác biệt giữa các phép nhân. Hạn chế: Còn một số ít HS gặp khó khăn trong học tập, việc đọc văn bản còn chậm nên việc thực hiện chậm hơn các bạn. Khắc phục: GV cần cho những HS này lên bảng thực hiện và gợi ý, giúp đỡ để các em nắm được cách làm. Học sinh đọc sách giáo khoa và mô tả bài toán chuyển động cùng chiều. 6.Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Toán 5. Cùng với việc đổi mới phương pháp dạy học, bản thân tôi luôn chủ động cập nhật các kiến thức, kĩ năng về ứng dụng các đồ dùng, thiết bị dạy học mới, chủ động ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học toán. Các phần mềm có thể ứng dụng như: phần mềm Powerpoint, Sketchpad, Violet, Microsoft Word, Excel, phần mềm Equation and Calculation 3.0 … Hiện nay, giáo án điện tử đã được đón nhận ở nhiều nơi và hỗ trợ đắc lực cho việc dạy học môn Toán. Với ưu điểm thu hút sự chú ý của học sinh, học sinh thực sự làm chủ trong tiết học. Khi dạy bằng giáo án điện tử, giáo viên đỡ vất vả hơn nhiều. Thay bằng các thao tác gắn các đồ dùng lên bảng, viết, vẽ, kẻ, nối… thì giáo viên chỉ việc “click” chuột sẽ có ngay hình ảnh, đồ dùng cần sử dụng. Dạy học bằng giáo án điện tử, học sinh sẽ được hiểu kĩ hơn các yêu cầu cần đạt vì đã có sự hỗ trợ về tư liệu, hình ảnh, các hình đồng dạng, các hình ứng dụng mà tư liệu SGK không có được. Đối với môn Toán, ta có thể sử dụng được ở rất nhiều công đoạn trong một giờ học. Mỗi bài toán, đề mục, hình ảnh, ý chính, ghi nhớ, đều được đưa lên màn hình lớn để học sinh quan sát, từ đó giáo viên có thể giúp học sinh chú ý, nắm bắt bài học một cách dễ dàng. Những bài toán hình học, biểu đồ… ta có thể đưa lên màn hình lớn, tô những phần cần thiết, cắt ghép hình, lựa chọn hình theo yêu cầu. Ví dụ: Để hướng dẫn cách cắt hình, tính thể tích hình hộp chữ nhật( Bài Thể tích hình hộp chữ nhật), tôi đã thiết kế trên Powerpoint các cách cắt hình trong bài tập 2 như sau: Ta cũng có thể tạo ra hứng thú học tập, kích thích sự tò mò, ưa khám phá của học sinh bằng cách đưa ra những hình ảnh giới thiệu bài sinh động như: Hình ảnh hai ô tô cùng đi trên một đoạn đường, đi ngược chiều với vận tốc khác nhau, ốc sên, sư tử, kăng-gu-ru, mô hình triển khai của hình hộp chữ nhật, hình lập phương…Các hình ảnh này ta có thể vẽ, thiết kế hay lấy trên mạng để phục vụ giờ học. Ngoài ra, ta có thể thiết kế các trò chơi học tập như: Ai nhanh, ai đúng?; Thử tài đoán nhanh; Nhanh tay, nhanh mắt…hoặc các loại biểu bảng linh động theo từng bước đi của bài dạy. Tuy nhiên, khi sử dụng loại đồ dùng này giáo viên cần chú ý: + Đảm bảo tính chính xác về chính tả, ngôn ngữ khoa học, phù hợp với đặc trưng bộ môn và nội dung bài dạy, thể hiện được sự nổi bật của bài học, khơi gợi được tính tò mò, tích cực, sáng tạo của học sinh. + Nội dung logich, đảm bảo tính thẩm mĩ nhưng không gây phân tán sự chú ý của học sinh. + Các phần mềm giáo khoa và các slide, các phim, tư liệu( nếu có) phải làm rõ và thể hiện nội dung bài học, đạt hiệu quả cao cho minh họa khám phá, hệ thống hóa, khắc sâu và chốt kiến thức( đặc biệt phần nội dung trọng tâm của bài học). + Trắc nghiệm phải sinh động, đạt hiệu quả củng cố, luyện tập, đánh giá đúng kết quả tiết học. + Không sử dụng bài giảng điện tử có sẵn trên internet mà chưa qua chỉnh sửa. + Không lạm dụng đồ dùng. Giờ học Toán của lớp 5B 7. Giao nhiệm vụ để học sinh tự sưu tầm và làm đồ dùng học tập là một cách giúp các em tích cực, chủ động, sáng tạo, tạo điều kiện cho học sinh vận dụng kiến thức vào thực tế đời sống. Tôi thấy rằng: Ở lứa tuổi học sinh lớp 5, các em biết tự phục vụ bản thân, biết làm những việc nhỏ để giúp đỡ gia đình và người khác. Ngoài ra các em đã được tham gia rất nhiều các hoạt động ở trường, nhiều em còn là thành viên tích cực trong hoạt động Đội và phong trào của nhà trường. Với đặc điểm thích tìm tòi, khám phá và ham hiểu biết, với trí tuệ thông minh của lớp người tuổi trẻ thì tự làm đồ dùng học tập là một cách giúp các em tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập, tạo điều kiện cho học sinh vận dụng kiến thức vào thực tế đời sống. Chẳng hạn: - Có thể yêu cầu các em sưu tầm lịch cuốn, các loại đồng hồ, làm thời gian biểu, sưu tầm tranh ảnh về các hiện vật, nhân vật lịch sử qua từng thời kì…khi dạy bài Bảng đơn vị đo thời gian. - Dạy bảng đơn vị đo khối lượng, có thể yêu cầu các em quan sát trước và tập cân một số vật khi ở nhà, cân kiểm tra sức khỏe xem em nặng bao nhiêu ki-lôgam? Hoặc yêu cầu học sinh nghiên cứu và tự lập bảng đơn vị đo khối lượng, sau đó thảo luận nhóm, so sánh kết quả, thống nhất kết quả. - Dạy Bảng đơn vị đo độ dài, đo diện tích, có thể cho các em tìm hỏi bố mẹ xem: Nhà em có mấy héc ta mía( sắn, ngô..)? Đường từ nhà em đến trường khoảng mấy ki-lô-mét?.. - Khi dạy bài Thể tích của một hình (Toán - trang 114), các đồ dùng học sinh có thể tự sưu tầm được như: Chai đầu gội đầu có thể tích 200ml, chai dầu dưỡng tóc có thể tích 120ml, hộp sữa tươi em hay uống có thể tích 200ml, cốc thuỷ tinh chứa nước, cho một quả chanh vào cốc nước thì phần nước dâng lên là thể tích của quả chanh...v.v… Học sinh làm thí nghiệm trong bài Thể tích của một hình. Lớp học là không gian gần gũi, thân thuộc, như ngôi nhà chung của các em. Tôi luôn khuyến khích học sinh trang trí lớp học bằng những sản phẩm sinh động, đẹp mắt với những bảng ghi nhớ kiến thức ( do các em tự làm) sẽ giúp các em nhanh thuộc, nhớ lâu và vận dụng tốt trong thực tế. Muốn học sinh tự làm được đồ dùng học tập với mục đích như trên, giáo viên cần đảm bảo các yêu cầu sau: - Xác định đúng nội dung dạy học cần sử dụng đồ dùng và loại đồ dùng cần làm cho tiết học. - Có sự gợi ý, yêu cầu tìm hiểu sách giáo khoa hoặc yêu cầu làm theo sự hướng dẫn của giáo viên. - Cần có sự đánh giá, nhận xét khách quan, động viên khuyến khích để học sinh say mê sáng tạo. - Giáo viên chuẩn bị hệ thống câu hỏi thảo luận phù hợp để giúp học sinh phát hiện kiến thức. IV/ HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC, VỚI BẢN THÂN, ĐỒNG NGHIỆP VÀ NHÀ TRƯỜNG: Nhờ sự nỗ lực cố gắng hết mình của bản thân trong việc tìm tòi, nghiên cứu, đổi mới phương pháp dạy học; sự giúp đỡ của đồng nghiệp, chuyên môn nhà trường, tôi đã thu được kết quả giảng dạy môn Toán lớp 5B như sau: Cuối học kì I SL 12 em 11 em 1 em TL 50% 45,8% 4,2% Hoàn thành tốt Hoàn thành Cần bồi dưỡng để hoàn thành Về giáo viên: - Với kết quả như trên, tôi đã hoàn thành vượt mức mục tiêu, kế hoạch đề ra. - Một lần nữa khẳng định những suy nghĩ, tìm tòi, vận dụng của bản thân vào thực tế dạy học là hoàn toàn đúng đắn. - Có thêm kinh nghiệm trong lĩnh vực sử dụng đồ dùng dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo khi dạy học môn toán lớp 5, góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy và giáo dục học sinh. Về học sinh: - Học sinh thực sự yêu thích môn Toán, hăng hái xây dựng bài, lớp học sôi nổi, hiệu quả học tập ngày càng rõ rệt. - Học sinh có thói quen suy nghĩ độc lập, tự giác, tích cực trong mọi hoạt động của giờ học. Ngoài ra các em cũng rất tự tin khi phát biểu ý kiến, tìm kiếm sự giúp đỡ từ thầy cô, bạn bè. - Tạo ra thói quen đọc sách, nghiên cứu bài trước khi đến lớp; thói quen sưu tầm và làm đồ dùng học tập. Về phía đồng nghiệp và nhà trường: - Tạo nên phong trào học tập, nghiên cứu, sử dụng và làm đồ dùng dạy học thường xuyên trong nhà trường. - Có thêm nhiều đồ dùng dạy học bổ sung vào thư viện trường, phục vụ tốt cho việc dạy học. - Góp phần nâng cao kết quả dạy học và giáo dục trong nhà trường. C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ I/ KẾT LUẬN: Đồ dùng dạy học có vai trò quan trọng trong dạy học ở Tiểu học nói chung và dạy học môn Toán lớp 5 - nói riêng. Sử dụng đồ dùng dạy học để tạo ra những giờ học đầy hứng thú, giúp các em tích cực tìm tòi, khám phá, say mê sáng tạo, chiếm lĩnh tri thức toán học là một việc làm đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, trau dồi nghiêm túc của người giáo viên đứng lớp. Người thầy với vai trò của người thiết kế, tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh cần xác định: không làm thay cho học sinh, phải tạo điều kiện để học sinh tự làm, tự cố gắng, học tập tích cực. Vì vậy cần phải sử dụng đồ dùng để tạo ra tình huống học tập sao cho hấp dẫn, vừa sức với học sinh. Đồ dùng trực quan là phương tiện dạy học có chức năng khơi dậy, dẫn truyền và làm tăng sức mạnh tác động của giáo viên lên học sinh để nâng cao hiệu quả dạy học, tất yếu phải nâng cao tính hiện đại của các phương tiện dạy học. Những biện pháp tôi đưa ra có thể chưa phù hợp với nhiều địa phương song đã được áp dụng, mang lại hiệu quả cao trong dạy học môn Toán lớp 5 tại trường Tiểu học Thanh Tân 1. Góp phần nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục học sinh, đảm bảo các tiêu chí của Trường chuẩn Quốc Gia và ngày càng hoàn thiện, tiến tới vươn cao hơn nữa. II/ KIẾN NGHỊ: Để nâng cao hiệu quả giảng dạy và giáo dục học sinh, góp phần đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, tôi xin được kiến nghị: * Đối với đồng nghiệp: - Cần tạo thói quen thường xuyên sử dụng đồ dùng trong dạy học toán lớp 5. - Tích cực sưu tầm và làm đồ dùng dạy học để bổ sung sự thiếu hụt, hư hỏng và phù hợp với cách truyền đạt của bản thân người dạy. - Mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. - Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, nghiên cứu, học tập để sử dụng các đồ dùng dạy học hiện đại, tự thiết kế, xây dựng kế hoạch dạy học cho riêng mình. - Thường xuyên trao đổi, góp ý, tiếp thu ý kiến để trau dồi chuyên môn, nghiệp vụ. * Kiến nghị với nhà trường: - Cần tham mưu với các cấp lãnh đạo, chính quyền địa phương, hội phụ huynh học sinh để xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm, bổ sung thêm các loại đồ dùng dạy học ứng dụng nghệ thông tin như máy tính, máy chiếu…phục vụ cho việc dạy học. * Kiến nghị với Phòng Giáo dục- Đào tạo: - Tổ chức các chuyên đề, hội thảo về sử dụng đồ dùng trong dạy học, đổi mới phương pháp dạy học…để giáo viên được giao lưu, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, nhân rộng các mô hình sáng kiến kinh nghiệm đã được các cấp công nhận. Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi trong việc sử dụng đồ dùng dạy
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan