0
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN TRỌNG BÌNH
KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
TRONG THỂ CHẾ NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 20
Người hướng dẫn khoa ho ̣c: GS, TS Lưu Văn Sùng
HÀ NỘI - 2012
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN TRỌNG BÌNH
KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
TRONG THỂ CHẾ NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
HÀ NỘI - 2012
3
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ....................................................................................................
1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỂ CHẾ NHÀ
NƯỚC VÀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC ......................... 11
1.1. Khái niệm và các loại hình thể chế nhà nước ...................................... 11
1.1.1. Khái niệm thể chế nhà nước ................................................... 11
1.1.2. Các loại hình thể chế nhà nước ............................................... 13
1.2. Kiểm soát quyền lực nhà nước ............................................................. 21
1.2.1. Quyền lực nhà nước ................................................................ 21
1.2.2. Tính tất yếu khách quan kiểm soát quyền lực nhà nước ........ 27
1.3. Khái niệm và các loại hình kiểm soát quyền lực nhà nước ................. 31
1.3.1. Khái niệm kiểm soát quyền lực nhà nước ............................... 31
1.3.2. Các loại hình kiểm soát quyền lực nhà nước .......................... 34
Chương 2: SO SÁNH, ĐÁNH GIÁ VỀ HIỆU QUẢ KIỂM SOÁT
QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC TRONG MỘT SỐ LOẠI HÌNH THỂ
CHẾ NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA .............................................................. 42
2.1. Kiểm soát quyền lực trong thể chế cộng hòa tổng thống ..................... 42
2.1.1. Mỹ ........................................................................................... 42
2.1.2. Nga .......................................................................................... 55
2.2. Kiểm soát quyền lực trong thể chế cộng hòa nghị viện ....................... 64
2.2.1. Anh .......................................................................................... 64
2.2.2. Nhật Bản.................................................................................. 71
2.3. Kiểm soát quyền lực trong thể chế cộng hòa lưỡng tính (Pháp)............... 82
2.4. So sánh, đánh giá chung và rút ra những giá trị tham khảo cho
Việt Nam hiện nay ..................................................................................... 93
KẾT LUẬN ................................................................................................ 113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 116
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền lực nhà nước chính là quyền lực công mà giai cấp, lực lượng
thống trị đoạt lấy để thực hiện sự thống trị của mình đối với toàn xã hội. Ở
đây nảy sinh mâu thuẫn: quyền lực công là quyền lực của cộng đồng xã hội,
của mọi người cần được sử dụng có hiệu quả để đảm bảo an sinh xã hội và tự
do cho mọi người; nhưng giai cấp thống trị, lực lượng thống trị lại có xu
hướng dùng quyền lực ấy mưu lợi cho mình, vi phạm thậm chí chà đạp lên lợi
ích của xã hội. Đa số nhân dân, các thành viên xã hội trở thành vô quyền
trước những kẻ tiếm quyền, lạm quyền, chuyên quyền. Và như vậy, nhà nước
không chỉ hoạt động kém hiệu quả, không đảm bảo an sinh xã hội, tự do của
mọi người, mà còn trở thành bộ máy quan liêu, tham nhũng, bộ máy “ký sinh
trùng” “ăn bám” xã hội. Đó là sự tha hóa của quyền lực nhà nước.
Nguyên nhân trực tiếp của sự tha hóa ấy chính là do quyền lực nhà
nước chưa thực sự được kiểm soát. Để đảm bảo cho nhà nước hoạt động có
hiệu quả, ngày càng thực hiện tốt hơn chức năng công quyền, hạn chế tha hóa,
cần phải xác lập và hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực nhà nước ngay bên
trong nhà nước và cả bên ngoài nhà nước.
Quá trình phát triển của đời sống chính trị, nhà nước cơ bản đã trải qua
các loại hình thể chế: quân chủ chuyên chế; quân chủ lập hiến và cộng hòa
(cộng hòa tổng thống; cộng hòa đại nghị; cộng hòa xô viết…). Theo
Ph.Ăngghen: “Hình thức cao nhất của nhà nước, tức chế độ cộng hòa dân chủ,
một hình thức nhà nước đang ngày càng trở thành một tất yếu không thể tránh
khỏi trong những điều kiện xã hội ngày nay của chúng ta” [46, tr.256]. Bởi vì
nó là kết quả tiến hóa của các nền dân chủ, của văn minh chính trị, trong đó
hình thành thể chế quyền lực được kiểm soát bằng quyền lực ngay bên trong
5
nhà nước; đồng thời cũng hình thành thể chế kiểm soát quyền lực nhà nước
bên ngoài nhà nước – tác động của các tập đoàn áp lực.
Kiểm soát quyền lực nhà nước là một trong những vấn đề trung tâm
của lý luận chính trị học cũng như thực tiễn đối với việc xây dựng thể chế nhà
nước cộng hòa dân chủ hiện đại. Trong những năm qua, thực hiện công cuộc
đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, quyền lực nhà
nước tập trung thống nhất không phân chia, mà chỉ phân công, phối hợp hoạt
động giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ XI khẳng định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công,
phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp” [25, tr.85]; với mục đích nâng cao hiệu lực, hiệu
quả hoạt động của nhà nước và đẩy lùi nạn quan liêu tham nhũng ở nước ta
hiện nay. Đây lại là vấn đề còn nhiều hạn chế, chưa rõ trong nhận thức và
thực hiện. Vì vậy, với việc tìm hiểu, so sánh đánh giá các phương thức kiểm
soát quyền lực nhà nước trong một số loại hình thể chế nhà nước cộng hòa:
cộng hòa tổng thống, cộng hòa nghị viện, cộng hòa lưỡng tính tham khảo cho
việc xây dựng, hoàn thiện bộ máy nhà nước, phục vụ sự nghiệp đổi mới đất
nước ta là vấn đề cần thiết. Và đây cũng chính là lí do tác giả mạnh dạn chọn
đề tài: “Kiểm soát quyền lực nhà nước trong thể chế nhà nước cộng hòa”
làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Kiểm soát quyền lực nhà nước là vấn đề mang tính phức tạp, cụ thể liên
quan đến việc kiểm soát quyền lực nhà nước của các thể chế nhà nước đương
đại, trong đó có thể chế nhà nước cộng hòa đã được nhiều nhà khoa học tập
trung nghiên cứu, làm rõ với cách tiếp cận khác nhau. Có thể khái quát một số
nhóm nội dung nghiên cứu cơ bản sau đây:
6
+ Nhóm nghiên cứu góp phần làm rõ khái niệm công cụ về thể chế
nhà nước, các loại hình thể chế nhà nước, quyền lực nhà nước và kiểm
soát quyền lực nhà nước:
- Phân viện Báo chí và Tuyên truyền – Khoa Chính trị học (2003), Thể
chế chính trị thế giới đương đại, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Công trình
này cũng giới thiệu cho chúng ta những lí luận chung về thể chế, thể chế nhà
nước ứng với nó là những loại hình thể chế nhà nước cụ thể (thể chế quân
chủ, thể chế cộng hòa, thể chế các nước ASEAN) trên thế giới và lần lượt đi
vào phân tích một số nước tiêu biểu với các loại hình thể chế đó.
- Chu Dương (2005), Thể chế nhà nước của các quốc gia trên thế giới,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội. Đây là một công trình dày công nghiên cứu không sâu
nhưng tập hợp rộng rãi, giới thiệu khái quát về thể chế nhà nước của các quốc
gia trên thế giới, trong đó chú ý đến tổ chức bộ máy nhà nước.
- Nguyễn Đăng Dung (2004), Hình thức của các nhà nước đương
đại, Nxb. Thế giới, Hà Nội. Tác giả nhìn nhận rằng, quyền lực nhà nước là
quyền lực của nhân dân nhưng do nhân dân không có khả năng thực hiện
trực tiếp nên phải ủy quyền, giao lại cho nhà nước nhưng tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước còn nhiều vấn đề đặt ra về tổ chức, tính hiệu
quả và khả năng lạm dụng quyền lực nhà nước, vì thế cần có sự kiểm soát
quyền lực nhà nước.
Ngoài ra, tác giả Nguyễn Đăng Dung trong cuốn Sự hạn chế quyền lực
nhà nước (2005), Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội đã nêu ra sự cần thiết của
nhà nước đối với xã hội, nhà nước luôn có xu hướng tha hóa quyền lực, vì
vậy, cần thiết phải kiểm soát quyền lực nhà nước; đồng thời tác giả vạch ra
các giải pháp nhằm hạn chế quyền lực nhà nước thông qua cơ chế kiểm soát
quyền lực nhà nước bên trong nhà nước và kiểm soát quyền lực nhà nước bên
ngoài nhà nước.
7
- Thang Văn Phúc – Nguyễn Minh Phương – Nguyễn Thu Huyền
(2004), Hệ thống công vụ và xu hướng cải cách của một số nước trên thế giới,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách tham khảo này giới thiệu về tổ
chức nhà nước, bộ máy hành chính, lịch sử các nền công vụ, chế độ quản lý
công chức ở tám nước trên thế giới; nó cung cấp cho người đọc nét chung về
tổ chức nhà nước – bộ máy hành chính, sự kiềm chế quyền lực giữa các cơ
quan nhà nước là điều không thể không diễn ra.
- Tô Huy Rứa (chủ biên) (2008), Mô hình tổ chức và hoạt động của hệ
thống chính trị ở một số nước trên thế giới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Khái quát khía cạnh lí luận chung về giám sát quyền lực trong bộ máy nhà
nước trong mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở một số
nước trên thế giới. Các tác giả trong công trình đã lý giải tại sao phải kiểm
soát quyền lực nhà nước, vì bản thân mỗi con người luôn tồn tại bản tính hai
mặt trong đời sống xã hội là tích cực và tiêu cực, thiện và ác nên cần phải có
những biện pháp kiểm soát tương ứng.
- Trịnh Thị Xuyến (2007), Kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam
hiện nay – vấn đề và giải pháp, Luận án Tiến sĩ Chính trị học, Hà Nội. Luận
án này là cơ sở lí luận quan trọng cho việc tìm hiểu sâu về vấn đề quyền lực
nhà nước và tính tất yếu phải kiểm soát quyền lực nhà nước.
- Những công trình nghiên cứu liên quan: Rolf H.W. Theen & Frank. L.
Wilson (2008), Chính trị học so sánh, Bản dịch của Viện Khoa học Chính trị,
Hà Nội; Ngô Huy Đức (1997): Hệ thống chính trị một số nét chính tại Tây
Âu, Kỷ yếu đề tài: Chính trị học so sánh, Viện Khoa học Chính trị, Hà Nội;
Lưu Văn An (2011): Giáo trình Chính trị học so sánh, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội….. tập trung vào biểu hiện hệ thống chính trị các nước thuộc các
thể chế khác nhau, để có cái nhìn so sánh tổng quan, trong đó có mô hình tổ
chức nhà nước.
8
+ Nhóm nghiên cứu liên quan đến sự phân chia quyền lực trong tổ
chức hoạt động bộ máy nhà nước, cơ sở khẳng định việc kiểm soát quyền
lực nhà nước:
- Vũ Hồng Anh (1997), Tổ chức và hoạt động của Chính phủ ở một số
nước trên thế giới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trong tác phẩm này, tác
giả giới thiệu vị trí, vai trò, chức năng của Chính phủ trong các loại hình thể
chế nhà nước, từ đó đi vào tìm hiểu tổ chức và hoạt động của Chính phủ ở
một số nước trên thế giới.
- Nguyễn Thị Hồi (2005), Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước
với việc tổ chức bộ máy nhà nước ở một số nước, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
Tác giả làm rõ việc cần thiết phân chia quyền lực nhà nước, góp phần kiểm
soát quyền lực nhà nước, hạn chế việc lạm dụng quyền lực, chuyên quyền,
độc đoán.
- Hồ Việt Hạnh (2008), Thể chế tam quyền phân lập Nhật Bản, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội. Tác giả lập luận, làm nổi bật khái niệm quyền lực,
khái niệm thể chế để đi đến nhìn nhận thể chế tam quyền phân lập – cơ chế
kiểm soát hiệu quả quyền lực nhà nước, tiến trình xây dựng nhà nước theo thể
chế tam quyền phân lập của Nhật Bản.
- Nguyễn Văn Huyên (2007), Hệ thống chính trị Anh, Pháp, Mỹ (Mô
hình tổ chức và hoạt động), Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội. Công trình
nghiên cứu, tìm hiểu các mô hình hệ thống chính trị phát triển của Anh, Pháp,
Mỹ, tham khảo cách tổ chức và vận hành của các mô hình hệ thống chính trị
đó nhằm phục vụ cho việc xây dựng và hoàn thiện cho hệ thống chính trị Việt
Nam. Thông qua đó, việc tìm hiểu chung cho cả các chủ thể của hệ thống
chính trị nên phần tổ chức nhà nước, biểu hiện kiểm soát quyền lực trong cơ
quan nhà nước cũng được đề cập dù chưa cụ thể.
- Nguyễn Xuân Tế (2001), Thể chế chính trị các nước ASEAN, Nxb.
Tp. Hồ Chí Minh. Cuốn sách này ra đời trình bày những vấn đề cơ bản thể
9
chế chính trị các nước ASEAN, trong mỗi nước đều có đề cập đến hệ thống
hành chính và bộ máy hành chính, về vai trò chức năng của các cơ quan nhà
nước và yếu tố kiềm chế lẫn nhau, nhưng chưa làm rõ tính cần thiết kiểm soát
quyền lực, cơ chế cụ thể cho việc thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước.
- Trần Ngọc Đường (2011), Một số vấn đề về phân công, phối hợp và
kiểm soát quyền lực trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Có thể nói, GS, TS. Trần Ngọc
Đường và đội ngũ các nhà khoa phối hợp thực hiện cung cấp cho giới nghiên
cứu chính trị học tư liệu quý giá, bức tranh khá toàn diện cơ sở lí luận, thực
tiễn về quyền lực nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước trong các nhà nước
(chủ nô, phong kiến, tư sản); đáng lưu ý là làm rõ bước tiến bộ của Việt Nam
trong phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực khi xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là công trình có phần giới thiệu
chung sâu sắc về quyền lực nhà nước và sự cần thiết kiểm soát quyền lực nhà
nước, về đặc điểm các loại hình thể chế nhà nước, cụ thể đối với Việt Nam
qua các thời kỳ; đồng thời đề ra phương hướng, giải pháp hoàn thiện việc
phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước trong xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Công trình Kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay – vấn
đề và giải pháp thuộc nhóm nghiên cứu nêu trên của tác giả Trịnh Thị Xuyến
nêu ra kinh nghiệm kiểm soát quyền lực nhà nước ở một số nước trên thế giới
(các nước có hệ thống lưỡng đảng và các nước có hệ thống một đảng) và vạch
ra thực trạng, phương hướng và giải pháp kiểm soát quyền lực nhà nước ở
Việt Nam hiện nay.
- Nguyễn Đăng Dung (1998), Luật Hiến pháp nước ngoài, Nxb. Đồng
Nai. Tác giả cung cấp những kiến thức mang tính chất chính trị (Luật Hiến
pháp), trong đó đi vào làm rõ những vấn đề về hình thức nhà nước, từ đó phân
10
tích vai trò, vị trí của các nhánh quyền lực nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư
pháp) để thấy sự kiềm chế, kiểm soát lẫn nhau là điều cần thiết mang lại hiệu
quả cho tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước. Đồng thời, cung cấp phần
phụ lục Hiến pháp của các nước, tạo cơ sở pháp lý cho nhu cầu tìm hiểu về
luật pháp một số nước: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Pháp, Anh.
Bên cạnh đó, còn một số bài nghiên cứu trên tạp chí cũng bàn tới
những vấn đề, khía cạnh kiểm soát quyền lực nhà nước: Mối quan hệ giữa nội
dung và hình thức thực hiện quyền lực nhà nước với việc xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, của Mai Thị Thanh, Tạp chí Triết
học, số 10 (233), tháng 10/2010; Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền lực nhà
nước và kiểm soát quyền lực ở nước ta, của Nguyễn Hữu Đổng, Tạp chí Lý
luận Chính trị, số 1/2005; Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước và vấn đề tổ
chức bộ máy nhà nước, của Nguyễn Mạnh Kháng, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật, số 8/2003; Bàn về tính thống nhất của quyền lực nhà nước và sự phân
công, phối hợp trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, của
Lê Minh Tâm, Tạp chí Luật học, số 5/2003; Kiểm soát quyền lực nhà nước
trong nhà nước pháp quyền hiện nay, của Đinh Văn Mậu, Tạp chí Quản lí
Nhà nước, số 165 (10/2009); Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước của vương
quốc Anh, của Trịnh Thị Xuyến, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 6
(72)/2006; Nhận diện khái niệm kiểm soát quyền lực nhà nước, của Trịnh Thị
Xuyến, Thông tin Chính trị học, số 1 (32)/2007; Kinh nghiệm của một số
nước về kiểm soát quyền lực nhà nước, của Nguyễn Thị Hồi, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, số 6/2003… Các công trình vừa nêu trên đã đặt ra vấn đề,
phân tích hoặc nhận định các khía cạnh khác nhau liên quan đến quyền lực
nhà nước và kiểm soát quyền lực nhà nước.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu khoa học của các tác giả ở khía
cạnh này hoặc khía cạnh khác đã luận chứng và đi đến nhận định rằng, từ
11
quyền lực công đến quyền lực nhà nước là một bước tiến của xã hội loài
người, nhân dân là chủ thể quyền lực nhà nước nhưng nhân dân không có
khả năng thực thi nên ủy quyền cho các cá nhân, tổ chức đại diện của mình
thực hiện. Đồng thời, các tác giả cũng đề cập đến việc tránh lạm dụng
quyền lực, tha hóa quyền lực thì cần tiến hành kiểm soát quyền lực nhà
nước, “quyền lực phải được kiểm soát bằng quyền lực”, trong đó có sự
kiềm chế, đối trọng giữa các nhánh quyền lực (lập pháp, hành pháp, tư
pháp). Tuy nhiên, các công trình chỉ đi vào nghiên cứu một cách khái quát
các bức tranh chung về tổ chức hoạt động bộ máy nhà nước, trong đó có
thể chế nhà nước cộng hòa, nhưng chưa phân loại cụ thể các loại hình kiểm
soát quyền lực nhà nước, chưa có chuyên đề nghiên cứu riêng về kiểm soát
quyền lực nhà nước trong thể chế nhà nước cộng hòa, cũng như tiến hành
so sánh, đánh giá hiệu quả kiểm soát quyền lực giữa các loại hình trong thể
chế nhà nước cộng hòa (cộng hòa tổng thống, cộng hòa đại nghị, cộng hòa
lưỡng tính) nhằm tham khảo cho quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Cho nên, việc triển khai nghiên cứu đề tài Kiểm soát quyền lực nhà
nước trong thể chế nhà nước cộng hòa trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ
Chính trị học đáp ứng phần nào nhu cầu cấp thiết hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
- Mục đích, phân tích phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước trong
một số loại hình thể chế nhà nước cộng hòa, bước đầu so sánh, đánh giá, tìm
ra những giá trị tham khảo cho hoàn thiện thể chế nhà nước của Việt Nam.
- Nhiệm vụ, để đạt được mục đích trên, luận văn phải giải quyết các
nhiệm vụ sau:
+ Khái quát những vấn đề lý luận về thể chế nhà nước và kiểm soát
quyền lực nhà nước.
12
+ Phân tích các phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước trong một số
thể chế cộng hòa: cộng hòa tổng thống, cộng hòa đại nghị và cộng hòa lưỡng tính.
+ So sánh, đánh giá việc thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước trong một
số thể chế nhà nước cộng hòa, nêu ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Kiểm soát quyền lực nhà nước trong một số
loại hình thể chế nhà nước cộng hòa (cộng hòa tổng thống, cộng hòa nghị
viện, cộng hòa lưỡng tính).
- Phạm vi nghiên cứu: Kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung, kiểm
soát quyền lực nhà nước trong thể chế nhà nước cộng hòa nói riêng là vấn đề
rất rộng và phức tạp, bao gồm toàn bộ các lĩnh vực hoạt động của nhà nước,
để đạt hiệu quả cần được tiến hành kiểm soát quyền lực cả từ bên ngoài và cả
bên trong nhà nước. Trong phạm vi luận văn này, tác giả tập trung đi vào tìm
hiểu kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong nhà nước ở một số quốc gia tiêu
biểu thuộc một số loại hình thể chế nhà nước cộng hòa (cộng hòa tổng thống,
cộng hòa nghị viện, cộng hòa lưỡng tính); từ đó đánh giá, so sánh, bước đầu
nêu ra một số ý kiến tham khảo cho Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
- Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về kiểm soát quyền lực nhà
nước trong một số loại hình thể chế nhà nước cộng hòa.
- Phương pháp luận của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng tổng hợp các phương pháp:
logic – lịch sử, phân tích – tổng hợp, so sánh, nghiên cứu trường hợp…
6. Cái mới của đề tài
- Khái quát hóa hệ thống các quan điểm lý luận về thể chế nhà nước và
kiểm soát quyền lực nhà nước.
13
- Khảo sát cụ thể việc thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước bên
trong nhà nước ở một số quốc gia tiêu biểu thuộc một số loại hình thể chế nhà
nước cộng hòa; từ đó có sự so sánh, đánh giá, bước đầu nêu ra một số ý kiến
tham khảo cho Việt Nam.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Về lý luận, đề tài góp phần làm sâu sắc hơn vấn đề kiểm soát quyền
lực nhà nước trong thể chế nhà nước cộng hòa; là tài liệu tham khảo cho
những ai quan tâm đến kiểm soát quyền lực nhà nước trong một số loại hình
thể chế nhà nước cộng hòa.
- Về thực tiễn, kết quả nghiên cứu đề tài tạo cơ sở tham khảo cho những
người làm công tác tổ chức, thiết lập bộ máy nhà nước và các nhà hoạch định
chính sách.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 2 chương, 7 tiết.
14
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỂ CHẾ NHÀ NƯỚC
VÀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
1.1. Khái niệm và các loại hình thể chế nhà nước
1.1.1. Khái niệm thể chế nhà nước
Thể chế là thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong đời sống xã hội
đương đại, nhất là trong các nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn; được
xem như là khái niệm công cụ hay phạm trù trung tâm nghiên cứu xã hội, đặc
biệt là xã hội có giai cấp và nhà nước. Tác giả Nguyễn Như Ý (chủ biên) cuốn
Đại từ điển Tiếng Việt cho rằng: “Thể chế là những qui định, luật lệ của một
chế độ xã hội”; hay nhóm tác giả Minh Tân, Thanh Nghi, Xuân Lãm trong Từ
điển Tiếng Việt – ngôn ngữ học Việt Nam cũng nhận định: “Thể chế là những
qui định, luật lệ của một chế độ xã hội buộc mọi người phải tuân theo”.
Những qui định, luật lệ ấy tạo cơ sở cho sự hình thành và phương thức hoạt
động của các tổ chức xã hội, điều chỉnh hành vi của con người, chúng được
hoàn thiện cùng với sự phát triển xã hội, là kết tinh những giá trị của văn
minh nhân loại.
Trong thể chế xã hội có bộ phận là thể chế chính trị - một hiện tượng
đặc thù của xã hội có sự phân chia thành giai cấp và được tổ chức thành
nhà nước.
Chính trị là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, phản ánh đời sống
kinh tế - xã hội, sự phản ánh ấy trước hết ở hệ tư tưởng chính trị, trên cơ sở đó
định chế ra các luật lệ, các nguyên tắc hình thành tổ chức và phương thức vận
hành của các tổ chức chính trị, các nguyên tắc và phương thức hoạt động của
các chủ thể chính trị; các nguyên tắc ấy còn là kết tinh những giá trị của văn
minh chính trị trong quá trình tiến hóa phát triển xã hội.
15
Do vậy, thể chế chính trị là hệ thống các định chế, các giá trị tạo thành
các nguyên tắc tổ chức và phương thức vận hành của các tổ chức chính trị,
các nguyên tắc và phương thức hoạt động của các chủ thể chính trị.
+ Theo nghĩa hẹp, thể chế chính trị là các định chế, các giá trị tạo thành
nguyên tắc tổ chức và phương thức vận hành của các tổ chức chính trị, tạo
thành nguyên tắc và phương thức hoạt động của các chủ thể chính trị.
+ Theo nghĩa rộng, thể chế chính trị gồm cả nguyên tắc tổ chức,
phương thức vận hành của đời sống chính trị hiện thực và con người thực hiện
phù hợp với thể chế ấy.
Thể chế chính trị có cái chung, phổ biến và có cái đặc thù, cái riêng cho
mỗi một chế độ xã hội, mỗi một quốc gia dân tộc.
Đời sống chính trị được tách ra từ đời sống xã hội, diễn ra trong thời kỳ
quá độ từ xã hội nguyên thủy sang xã hội nô lệ. Ở thời kỳ cuối của xã hội
nguyên thủy, xuất hiện chế độ tư hữu khiến cho xã hội phân chia thành giai
cấp và xung đột với nhau về lợi ích không thể điều hòa được. Nhà nước xuất
hiện để giữ sự xung đột nằm trong phạm vi trật tự nhất định. Cuộc đấu tranh
giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội trong việc giành, giữ và thực thi quyền
lực nhà nước để thực hiện lợi ích của mình trở thành vấn đề trung tâm của đời
sống chính trị từ buổi ban đầu cho đến nay.
Vì vậy, thể chế chính trị cơ bản là thể chế nhà nước và trong xã hội nô
lệ, xã hội phong kiến chính là thể chế nhà nước. Nhưng xã hội hiện đại, đời
sống chính trị rất phong phú và phức tạp, thể chế chính trị bao gồm: thể chế
đảng chính trị; thể chế nhà nước (thể chế lập pháp, hành pháp, tư pháp); thể
chế chính trị - xã hội phi nhà nước; thể chế bầu cử; thể chế các phương tiện
thông tin đại chúng… Trong đó, những thể chế hợp thành một cấu trúc ổn
định với chức năng thực thi quyền lực chính trị, có khả năng tự điều chỉnh, tự
thích ứng thông qua quan hệ với môi trường xã hội thì gọi là hệ thống chính
16
trị. Theo quan điểm ở nước ta hiện nay, hệ thống chính trị bao gồm: đảng
chính trị, nhà nước và các tổ chức chính trị phi nhà nước. Tuy có nhiều loại
hình thể chế chính trị nhưng thể chế nhà nước vẫn là thể chế chính trị cơ bản
của xã hội.
Nhà nước vốn được hình thành như một tập hợp thể chế, và các thể
chế này tác động theo chiều hướng: điều tiết hành động của bản thân nhà
nước (thể chế phân quyền, thể chế giám sát, thể chế hành chính…) và điều
tiết các tác nhân phi nhà nước (các quy định, chính sách, đạo luật…) mà nhà
nước đặt ra với hy vọng điều chỉnh xã hội dân sự và thị trường đi theo quỹ
đạo mong muốn.
Thể chế nhà nước trong chính trị học được xem xét từ hai giác độ: Thứ
nhất, về bản chất, thể chế nhà nước đề cập tới tính chất cai trị, điều hành của
một nhà nước thông qua những phương pháp nhất định, phản ánh, biểu hiện
mối quan hệ giữa nhà nước với xã hội (công dân, tổ chức, cộng đồng…). Thứ
hai, từ giác độ cơ cấu, thể chế nhà nước được xem xét từ khía cạnh tổ chức bộ
máy, định rõ các vị trí, thẩm quyền, chức năng của từng cơ quan trong bộ máy
nhà nước [41, tr.73].
1.1.2. Các loại hình thể chế nhà nước
Trong đời sống chính trị xã hội, thông thường khi phân loại thể chế
chính trị, người ta dựa vào hình thái biểu hiện của thể chế nhà nước để làm
căn cứ phân loại. Tên gọi của thể chế nhà nước cũng chính là tên gọi của thể
chế chính trị. Trên thế giới hiện nay tồn tại nhiều loại hình thể chế nhà nước,
song có thể quy lại thành hai loại: thể chế nhà nước quân chủ và thể chế nhà
nước cộng hòa.
- Thể chế nhà nước quân chủ:
Thuật ngữ “quân chủ” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “Monosarchy” (được
ghép từ hai từ “Monos” có nghĩa là một và “archy” có nghĩa là chính quyền),
17
tức là chính quyền nằm trong tay một người. Trong chính thể quân chủ, nhà
vua - người đứng đầu nhà nước - được lập nên không thông qua bầu cử, mà
do thế tập truyền ngôi; các thần dân, những thành viên sống trong lãnh thổ
quốc gia đó, là những người không có quyền tham gia vào các công việc nhà
nước. Đây là mô hình phổ quát của chế độ chính trị phong kiến, và trước đó là
của chế độ chiếm hữu nô lệ. Trong đó phân ra hai loại cơ bản: quân chủ
chuyên chế, quân chủ lập hiến.
+ Thể chế nhà nước quân chủ chuyên chế là thể chế mà ở đó quyền
chuyên chế, độc tài, không hạn chế thuộc về nhà vua. Nhà vua được thừa
nhận như thánh nhân, con của thần linh, có đầy quyền uy và phép lạ.
Ở thể chế nhà nước này, vua nắm trong tay cả quyền lập pháp, quyền
hành pháp và quyền tư pháp. Nhà vua là người duy nhất đặt ra pháp luật, là
người có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm bất kỳ quan lại cao cấp nào
trong bộ máy nhà nước, đồng thời cũng là người có quyền tối hậu trong việc
xét xử. Người dân về cơ bản không có quyền, phải phục tùng nhà vua và
chính quyền vô điều kiện. Thể chế nhà nước quân chủ chuyên chế là loại hình
nhà nước phổ biến của nhà nước chủ nô và nhà nước phong kiến. Trong xã
hội đương đại, thể chế này hầu như không có cơ sở để tồn tại, chỉ còn là tàn
dư của thời đại trước.
+ Thể chế nhà nước quân chủ lập hiến: nếu như ở thể chế nhà nước
quân chủ chuyên chế quyền lực nhà nước thuộc về nhà vua nắm giữ tuyệt đối
thì đến thể chế nhà nước quân chủ lập hiến, tổ chức quyền lực nhà nước vừa
có vua vừa có Hiến pháp, kết hợp cả hai yếu tố quân chủ và dân chủ. Ở đây,
sự xuất hiện của pháp luật làm cho quyền lực của nhà vua không còn tuyệt đối
nữa, trở thành những “ông vua lập hiến”. Có thể nói, về hình thức, đây cũng
có thể xem là hình thức quá độ chuyển sang thể chế nhà nước đại nghị (nghị
viện). Nhà vua không thực quyền “trị vì nhưng không cai trị”. Quyền lực nhà
nước chủ yếu nằm trong bộ máy hành pháp và người đứng đầu hành pháp.
18
Thể chế nhà nước quân chủ lập hiến bao gồm thể chế nhà nước quân
chủ nhị nguyên và thể chế nhà nước quân chủ đại nghị:
Thể chế nhà nước quân chủ nhị nguyên: trong hình thức chính thể này
tuy quốc gia có định ra Hiến pháp, lập ra Nghị viện nhưng vua vẫn giữ
nguyên quyền lớn như quyền uy, lập pháp, hành chính, tư pháp và quân sự
của thời đại chuyên chế vào trong tay mình, là trung tâm quyền lực và kẻ
thống trị tối cao. Hiến pháp thường là tuân theo, là phản ánh ý chí của nhà
vua. Nghị viện là cơ quan tư vấn của vua. Quyền lực lập pháp chỉ là hình
thức. Vua không chỉ có quyền phủ quyết lập pháp của Nghị viện mà còn
thông qua thẩm định hoặc chỉ định Nghị viện. Nội các là cơ quan lo việc hành
chính của vua. Thủ tướng do vua bổ nhiệm. Chế độ quân chủ nhị nguyên ra
đời ở những nước chủ nghĩa tư bản phát triển tương đối muộn, giai cấp địa
chủ phong kiến có thế lực mạnh lâu dài, là một hình thức thống trị liên hợp
chuyên chính của giai cấp tư sản với giai cấp địa chủ. So với chế độ quân chủ
theo chế độ nghị viện thì càng có nhiều sắc thái của chế độ quân chủ phong
kiến chuyên chế. Đế quốc Đức từ năm 1871 đến năm 1918 và Nhật Bản từ
năm 1889 và 1945 là nước điển hình của chế độ quân chủ nhị nguyên. Thập kỉ
80 của thế kỷ XX, một số ít nước như Vedda, Arập Xêut, Nepal, Marocco vẫn
giữ chế độ này.
Thể chế nhà nước quân chủ đại nghị: là hình thức chính thể coi Nghị
viện là cơ quan lập pháp tối cao của quốc gia, vua không trực tiếp chi phối
chính quyền quốc gia. Trong hình thức chính thể này, Nội các phải từ Nghị
viện mà ra, thông thường do đảng chiếm đa số hoặc liên minh chính đảng dân
Nội các, chịu trách nhiệm trước Nghị viện, vua chỉ làm thủ tục thẩm định.
Nếu Nội các mất tín nhiệm trước Nghị viện phải xem xét thông qua biểu thị ý
kiến của Nghị viện. Vua là nguyên thủ quốc gia, nhà vua phải xem xét thông
qua biểu thị ý kiến của Nghị viện. Vua là nguyên thủ có danh vị, dựa vào
19
quyền lực trên ý chí làm việc của Nội các, chủ yếu đại biểu nhà nước tiến
hành tiến hành các hoạt động nghi thức. Nhưng quân chủ vẫn giữ địa vị hiển
hách và tượng trưng tôn nghiêm cho khối đoàn kết thống nhất quốc gia; vẫn là
bộ phận cấu thành không thể thiếu được trong chế độ chính trị quốc gia. Sau
chiến tranh thế giới thứ II, thực hiện chính thể này, ngoài nước Anh còn có
các nước Tây Ban Nha, Hà Lan, Lucxembua, Bỉ, Thụy Điển, Na Uy, Canada,
Thái Lan, Malaixia.
Hình thức thể chế nhà nước này tiến gần đến cộng hòa đại nghị. Ở một
số nước thực chất là cộng hòa đại nghị, song vẫn mang dấu ấn của quân chủ
đại nghị.
- Thể chế nhà nước cộng hòa:
Thuật ngữ “cộng hoà” có nguồn gốc từ thành ngữ Hy Lạp “Respublica
est res populi”, có nghĩa là “Nhà nước là công việc của nhân dân”. Mô hình tổ
chức nhà nước này xuất hiện từ thời cổ đại La Mã - Hy Lạp. Nhưng sang đến
chế độ chính trị phong kiến nó bị loại dần, mãi đến chế độ chính trị tư bản
mới trở thành mô hình phổ biến. Chế độ chính trị cộng hoà còn được gọi là
chế độ chính trị dân chủ. Dân chủ cũng là thuật ngữ có nguồn gốc từ cổ Hy
Lạp, “Democrat” có nghĩa là quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Ở các
nước tư bản chủ nghĩa, nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tam quyền
phân lập, theo đó, trên thực tế, có một số loại hình thể chế nhà nước cộng hòa:
cộng hòa tổng thống, cộng hòa đại nghị, cộng hòa lưỡng tính.
+ Thể chế cộng hòa tổng thống:
Điển hình cho thể chế cộng hòa tổng thống là thể chế chính trị ở Mỹ, các
nước châu Mỹ latinh, Liên bang Nga… Đặc trưng tiêu biểu của thể chế này:
Quyền lực nhà nước tập trung vào trong tay Tổng thống do dân bầu ra.
Tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia vừa là người đứng đầu cơ quan hành
pháp, nắm trọn quyền hành pháp.
20
Đặc trưng của chế độ cộng hòa tổng thống là ở chỗ không những cơ
quan lập pháp do nhân dân bầu ra mà cả những người đứng đầu chính quyền
hành pháp cũng do nhân dân bầu ra. Do không phải Nghị viện trực tiếp tấn
phong mà do nhân dân thông qua các đại cử tri tấn phong nên người đứng đầu
nhà nước ở đây có một địa vị pháp lý bề thế mà không giống bất cứ mô hình
nhà nước hiện đại nào. Sự phân chia quyền lực một cách rạch ròi và sự kiềm
chế, đối trọng thể hiện rất rõ trong thể chế này. Việc hai cơ quan thực hiện
quyền lập pháp và hành pháp cao nhất đều do dân bầu ra làm cho chúng có vị
trí độc lập với nhau. Quốc hội không có quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm để giải
tán Chính phủ. Tổng thống tự thành lập Chính phủ, các thành viên Chính phủ
do Tổng thống cử ra và chịu trách nhiệm trước Tổng thống. Chính phủ, Tổng
thống không chịu trách nhiệm trước Quốc hội, song Tổng thống cũng không
có quyền giải tán Quốc hội. Tuy vậy, chúng lại có thể kiềm chế lẫn nhau để
chống lại sự lạm dụng quyền lực. Tổng thống có quyền phủ quyết các dự luật
do hai viện của Quốc hội đã thông qua. Muốn khắc phục quyền phủ quyết của
Tổng thống, Quốc hội phải thảo luận lại dự luật và chỉ có thể thông qua khi bỏ
phiếu đạt ít nhất là 2/3 số nghị sĩ của cả hai viện bỏ phiếu thuận.
Quyền tư pháp được thực hiện độc lập với quyền lập pháp và hành
pháp không những bởi quy định của Hiến pháp về việc trao toàn bộ quyền tư
pháp cho Pháp viện tối cao và các tòa án các cấp mà còn bởi các thẩm phán
được bổ nhiệm suốt đời và không bị cách chức chừng nào họ giữ được nhân
cách tốt, không vi phạm pháp luật.
Trong thể chế này, quyền hành pháp thường lấn át quyền lập pháp và
quyền tư pháp. Nhưng như ở Mỹ, do thi hành chế độ lưỡng viện cân bằng và
Quốc hội không bị giải tán bởi Tổng thống, nên Quốc hội có thực quyền và
trở thành đối trọng, kiềm chế Tổng thống. Còn ở thể chế chính trị Liên bang
Nga, Tổng thống có quyền giải tán Đuma, mặc dù Đuma do dân bầu ra, có
quyền hơn Hội đồng liên bang. Trong trường hợp Đuma ba lần không thông
- Xem thêm -