VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN CHÍ LINH
KIỂM SOÁT HẢI QUAN ĐỐI VỚI PHẾ LIỆU NHẬP
KHẨU LÀM NGUYÊN LIỆU SẢN XUẤT THEO PHÁP
LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI, 2020
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN CHÍ LINH
KIỂM SOÁT HẢI QUAN ĐỐI VỚI PHẾ LIỆU NHẬP
KHẨU LÀM NGUYÊN LIỆU SẢN XUẤT THEO PHÁP
LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. Nguyễn Thị Thương Huyền
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví
dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Chí Linh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................................................................1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT HẢI QUAN ĐỐI VỚI
PHẾ LIỆU NHẬP KHẨU LÀM NGUYÊN LIỆU SẢN XUẤT....................................6
1.1. Khái quát về kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu............................6
1.2. Pháp luật về kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm
nguyên liệu sản xuất...................................................................................................................10
1.3. Kinh nghiệm của hải quan một số nước trong kiểm soát phế liệu nhập
khẩu làm nguyên liệu sản xuất và bài học cho Việt Nam..........................................16
Chương 2: THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT HẢI QUAN ĐỐI VỚI PHẾ
LIỆU NHẬP KHẨU LÀM NGUYÊN LIỆU SẢN XUẤT THEO PHÁP
LUẬT VIỆT NAM................................................................................................................................24
2.1. Thực trạng phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất trong thời
gian qua ở Việt Nam...................................................................................................................24
2.2. Thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về kiểm soát hải quan
đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất..................................................25
2.3. Thực trạng kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên
liệu sản xuất trong thời gian qua ở Việt Nam.................................................................31
2.4. Đánh giá thực trạng công tác kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập
khẩu làm nguyên liệu sản xuất theo pháp luật Việt Nam...........................................42
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM SOÁT HẢI
QUAN THEO PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI PHẾ LIỆU NHẬP KHẨU LÀM
NGUYÊN LIỆU SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM.........................................................................56
3.1. Quan điểm và định hướng kiểm soát hải quan đối phế liệu nhập khẩu
làm nguyên liệu sản xuất ở Việt Nam trong thời gian tới..........................................56
3.2. Những thuận lợi và thách thức của công tác kiểm soát Hải quan đối
với mặt hàng phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất.....................................58
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát hải quan đối
với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất..........................................................61
3.4. Một số đề xuất và kiến nghị...........................................................................................72
KẾT LUẬN...............................................................................................................................................80
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................................81
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
EU: European Union - Liên minh châu Âu
WTO: World Trade Organization - Tổ chức Thương mại Thế giới
GATT: General Agreement on Tariffs and Trade - Hiệp ước chung
về thuế quan và mậu dịch
DANH MỤC CÁC HÌNH, BIỂU ĐỒ, BẢNG
Hình 1.2: Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan với nhau..........................................................21
Bảng 2.1. Số liệu nhập khẩu phế liệu năm 2017, 2018 và 2019........................................25
Biểu đồ 2.4. Kết quả xử lý hình sự Ngành hải quan................................................................41
Hình 3.1. Mô hình dữ liệu tập trung...............................................................................................65
Biểu đồ 2.1. Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2015-2019............84
Biểu đồ 2.2. Số lượng container phế liệu nhập khẩu vào Việt Nam 2015-8/2018....84
Bảng 2.2. Số liệu nhập khẩu phế liệu nhựa năm 2017 và 2018.........................................85
Bảng 2.4. Phối hợp với lực lượng công an qua các năm.......................................................85
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Việc tái chế, sử dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất được bắt đầu từ rất
sớm ở trên thế giới, ngày nay với nguồn tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá
mức cùng với xu hướng phát triển bền vững trên khắp toàn cầu, việc tái sử dụng
phế liệu làm nguyên liệu sản xuất được khuyến khích và xem xét là một trong
những chính sách bền vững trong phát triển. Do đó, nhiều nước trên thế giới cho
phép nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất. Tuy nhiên, bên cạnh những mục
đích nêu trên một số hoạt động của các doanh nghiệp hiện nay đang lợi dụng danh
nghĩa xuất, nhập khẩu phế liệu để chuyển chất thải vào các quốc gia khác đặc biệt
các quốc gia đang phát triển.
Tại Việt Nam đang trong quá trình xây dựng, phát triển kinh tế nên vẫn cần
một số loại phế liệu như nhựa, giấy...để tái chế, phục vụ hoạt động sản xuất trong
khi nguồn nguyên liệu, phế liệu trong nước không đủ để đáp ứng nhu cầu của một
số ngành sản xuất nên việc nhập khẩu phế liệu từ nước ngoài về làm nguyên liệu
sản xuất là một nhu cầu thực tế, phù hợp với thông lệ quốc tế và quy định của pháp
luật Việt Nam.
Hải quan Việt Nam là cơ quan quản lý Nhà nước có nhiệm vụ kiểm tra, giám
sát, kiểm soát về hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, phương tiện vận
tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh Việt Nam; phòng, chống buôn lậu, vận chuyển
trái phép hàng hóa qua biên giới; tổ chức thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng
hóa xuất khẩu, nhập khẩu; kiến nghị chủ trương, biện pháp quản lý nhà nước về hải
quan đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và
chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
Ngày 25/3/2011, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 448/QĐ-TTg
phê duyệt chiến lược phát triển hải quan đến năm 2020. Đối với công tác kiểm soát
hải quan, Thủ tướng nhấn mạnh cần hoàn thiện và đổi mới công tác chống buôn lậu
và gian lận thương mại hướng tới xây dựng lực lượng chống buôn lậu tinh nhuệ đáp
ứng tình hình mới.
Ngày 19/7/2016, Bộ Trưởng Bộ Tài chính đã ban hành quyết định số
1614/QĐ-BTC về kế hoạch cải cách, phát triển và hiện đại hóa ngành Hải quan giai
đoạn 2016-2020. Kế hoạch đã chỉ ra những tồn tại, hạn chế của công tác kiểm soát
1
hải quan về công tác cán bộ, điều kiện bảo đảm và việc áp dụng các biện pháp
nghiệp vụ trong công tác đấu tranh phòng chống buôn lậu.
Trước tình hình trên, Chính phủ yêu cầu Bộ Tài chính (Cơ quan hải quan)
cần đưa ra các giải pháp về chính sách quản lý mặt hàng này đó là tạo điều kiện, hỗ
trợ doanh nghiệp trong hoạt động nhập khẩu phế liệu đủ điều kiện vào phục vụ sản
xuất đồng thời kiểm soát chặt chẽ và xử lý nghiêm các hành vi nhằm đưa rác thải,
chất thải vào nước ta, gây ô nhiễm môi trường, không để Việt Nam trở thành “bãi
rác” của nước khác và của thế giới. Do đó, việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng
công tác kiểm soát hải quan đối với phế liệu làm nguyên liệu sản xuất từ đó đưa ra
các giải pháp tăng cường công tác kiểm soát hải quan đối với mặt hàng này là vấn
đề vừa có tính thời sự, khoa học và thực tiễn.
Do vậy tôi đã chọn “Kiểm soát Hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên
liệu sản xuất theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu là một vấn đề khó và mang tính
chất chuyên sâu, vì vậy có ít công trình khoa học nghiên cứu. Qua tìm hiểu tình hình
nghiên cứu cho thấy trong thời gian qua chưa có luận văn, công trình nghiên cứu nào
về công tác kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất.
Tuy nhiên có một số công trình nghiên cứu tiêu biểu liên quan đến đề tài như sau:
- “Các giải pháp tăng cường quản lý thuế của cục Hải quan Thanh Hóa đối
với hoạt động nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất hàng xuất khẩu” của Đỗ Thị
Hồng và Luận văn thạc sỹ 2017. Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động quản lý
thuế của cơ quan hải quan đối với hoạt động nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất
hàng xuất khẩu. Đối với nguyên liệu này chủ yếu là linh kiện, phụ kiện, nguyên vật
liệu (mới) cho hoạt động sản xuất hàng hóa xuất khẩu và chỉ một phần nhỏ là phế
liệu. Luận văn có phạm vi nghiên cứu hẹp chỉ ở một đơn vị là Cục Hải quan tỉnh
Thanh Hóa.
- Nguyễn Thị Khánh Ly - Luận văn thạc sỹ 2015 “Quản lý nhà nước về hoạt
động nhập khẩu thép phế liệu ”. Luận văn tập trung nghiên cứu, đánh giá về hoạt
động quản lý nhà nước đối với mặt hàng thép phế liệu giai đoạn 2009-2014. Đối
với cơ quan quản lý nhà nước Luận văn tập trung chủ yếu cơ quan đó là Bộ tài
nguyên và Môi trường. Các văn bản pháp luật Luận văn nghiên cứu hiện nay cơ bản
đã hết hiệu lực thi hành hoặc đã sửa đổi, bổ sung.
2
- Nguyễn Xuân Tạo - Luận án thạc sỹ 2017 “Pháp luật môi trường trong hoạt
động nhập khẩu phế liệu ở Việt Nam”. Luận văn tập trung nghiên cứu làm rõ vai trò
của pháp luật về bảo vệ môi trường đối với hoạt động nhập khẩu phế liệu; thực
trạng pháp luật môi trường trong hoạt động nhập khẩu phế liệu ở Việt Nam và khái
quá tình hình thực thi pháp luật môi trường giai đoạn 2015-2017.
- Nguyễn Văn Cẩn - Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2017 “Hoàn thiện thể chế
nâng cao hiệu qủa công tác điều tra hình sự của cơ quan hải quan”. Đề tài tập trung
vào công tác điều tra hình sự của cơ quan hải quan, trong đó có phân tích một số thủ
đoạn của đối tượng buôn lậu, vận chuyển trái phép phế liệu nhập khẩu.
Ngoài ra, còn một số công trình nghiên cứu khác như Luận văn Tiến sỹ năm
2007 của Nguyễn Văn Phương “Pháp luật về môi trường về hoạt động nhập khẩu
phế liệu của Việt Nam”; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở năm 2009 của TS.
Nguyễn Anh Tuấn “Nghiên cứu cơ sở khoa học về tiêu chuẩn phế liệu và đề xuất
các giải pháp kiểm soát ô nhiễm trong hoạt động nhập khẩu phế liệu làm nguyên
liệu sản xuất” ... và các bài báo, bài viết liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước
đối với hoạt động nhập khẩu phế liệu
Qua nghiên cứu tác giả nhận thấy các công trình đã được nghiên cứu tập
chung nghiên cứu các khía cạnh như thuế, điều kiện nhập khẩu mà chưa nghiên
cứu, đánh giá tổng thể về công tác kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu
làm nguyên liệu sản xuất. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, các văn bản pháp
luật về quản lý nhà nước về hoạt động nhập khẩu phế liệu cơ bản đã có sự thay đổi.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của
công tác kiểm soát hải quan đối với đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản
xuất theo pháp luật Việt Nam.
Nhiệm vụ cụ thể:
- Hệ thống hóa và làm rõ thêm những vấn đề lý luận về kiểm soát hải quan
đối với đối với phế liệu nhập khẩu và pháp luật về kiểm soát hải quan đối với đối
với phế liệu nhập khẩu.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về kiểm
soát Hải quan đối với phế liệu nhập khẩu và thực tiễn kiểm soát Hải quan đối với
phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất theo pháp luật ở Việt Nam.
3
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác
kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất theo pháp
luật ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Các quy định pháp luật điều chỉnh đối với phế liệu
nhập khẩu và các quy định của pháp luật về kiểm soát hải quan đối với phế liệu
nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất.
- Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động kiểm soát của hải quan Việt Nam đối với
phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật và
các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về quản lý nhà nước đối với
phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất.
Các phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu hệ thống văn bản pháp luật, thu thập, nghiên cứu
các tài liệu trong và ngoài nước về các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của Luận
văn để làm rõ những khoảng trống cần nghiên cứu của luận văn;
- Phương pháp hệ thống hóa, phân tích, tổng hợp được sử dụng chủ yếu ở
chương 1 để làm rõ các vấn đề lý luận về kiểm soát hải quan đối với đối với phế liệu
nhập khẩu và pháp luật về kiểm soát hải quan đối với đối với phế liệu nhập khẩu.;
- Phương pháp thu thập, thống kê số liệu (từ các website về cơ sở dữ liệu luật
như:http://www.luatvietnam.vn;http://moj.gov.vn;http://quochoi.vn;
http://chinhphu.vn;http://congbao.chinhphu.vn;
https://www.customs.gov.vn/default.aspx; Số liệu thống kê từ Cục Điều tra chống
buôn lậu, Cục giám sát quản lý về hải quan, Cục Công nghệ thông tin và Thống kê
thuộc Tổng cục Hải quan, Bộ Tài nguyên và Môi trường….);
- Phương pháp so sánh, đối chiếu, đánh giá được sử dụng chủ yếu ở chương 2
nhằm phân tích, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về kiểm soát
Hải quan đối với phế liệu nhập khẩu và thực tiễn kiểm soát Hải quan đối với phế
liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất theo pháp luật ở Việt Nam;
- Phương pháp phân tích, luận giải, tổng hợp được sử dụng chủ yếu ở chương
3 nhằm đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác
4
kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất theo pháp
luật ở Việt Nam trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Luận văn góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý luận về kiểm
soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu và pháp luật kiểm soát hải quan đối với
phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất.
Về mặt thực tiễn: Góp phần làm rõ thực trạng pháp luật điều chỉnh đối với phế
liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất và thực tiễn kiểm soát hải quan đối với phế
liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất ở Việt Nam. Đồng thời đưa ra một số giải
pháp hữu hiệu nâng cao hiệu quả của công tác kiểm soát hải quan đối với đối với
phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất theo pháp luật ở Việt Nam cho hải
quan Việt Nam
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết
cấu thành 03 chương, cụ thể:
Chương 1. Cơ sở lý luận về kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm
nguyên liệu sản xuất theo pháp luật Việt Nam.
Chương 2. Thực trạng kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm
nguyên liệu sản xuất theo pháp luật Việt Nam
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm soát hải quan theo pháp luật đối
với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất ở Việt Nam
5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT HẢI QUAN ĐỐI VỚI PHẾ LIỆU NHẬP
KHẨU LÀM NGUYÊN LIỆU SẢN XUẤT
1.1. Khái quát về kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu
1.1.1. Sự cần thiết khách quan kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu
Phế liệu là một trong những loại hàng hóa đặc biệt, tùy thuộc vào trình độ phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia mà Nhà nước có những chính sách ngoại thương đặc
thù với loại hàng hóa này. Trong những năm qua, bên cạnh việc tái chế chất thải, tận
dụng phế liệu phát sinh trong nước làm nguyên liệu sản xuất, để đáp ứng nhu cầu
nguyên liệu của một số ngành sản xuất, Nhà nước đã cho phép nhập khẩu phế liệu
với các điều kiện quy định cụ thể tại Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản hướng
dẫn thi hành.
Tuy nhiên, việc nhập khẩu và sử dụng phế liệu nhập khẩu nếu không được
quản lý, kiểm soát chặt chẽ sẽ bị lợi dụng để đưa chất thải vào nước ta, gây ô nhiễm
môi trường. Trước thực tế một số nước (là thị trường nhập khẩu phế liệu lớn của thế
giới) đã hạn chế, cấm nhập khẩu một số loại phế liệu tạo nên sự dịch chuyển lượng
lớn phế liệu nhập khẩu vào các nước trong khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt
Nam và việc kiểm soát quy trình nhập khẩu, trung chuyển, quá cảnh hàng hóa là phế
liệu chưa chặt chẽ dẫn đến tồn đọng lượng lớn lô hàng phế liệu nhập khẩu không
xác định được chủ hàng tại các cảng biển nước ta, nhất là tại cảng Hải Phòng và Tân
Cảng Thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, việc nhập khẩu phế liệu, dây chuyền
công nghệ sản xuất, tái chế nếu không được kiểm soát chặt chẽ sẽ là kẽ hở để nước
ta có nguy cơ trở thành nơi tiếp nhận chất thải và công nghệ sản xuất, tái chế lạc
hậu, gây ô nhiễm môi trường từ các nước khác trên thế giới.
Do đó cần thiết phải tăng cường quản lý hoạt động nhập khẩu, sử dụng phế
liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất, thực hiện có hiệu quả các biện pháp phòng
vệ thương mại, kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu phế liệu từ xa, giảm thiểu nguy
cơ gây ô nhiễm môi trường
Mặt khác, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, thủ tục hải quan là một
trong những vấn đề được các Nhà nước quan tâm và tiến hành cải cách thủ tục hành
chính, xem đó như là một biện pháp để thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại, thu
hút đầu tư nước ngoài và tạo điều kiện cho doanh nghiệp. Thủ tục hải quan ngày
6
càng đơn giản hoá, thông thoáng hơn nhằm tạo điều kiện cho hoạt động xuất nhập
khẩu. Lợi dụng các thủ tục thông thoáng về Hải quan trong xuất khẩu, nhập khẩu
hàng hoá, những đối tượng buôn lậu luôn tìm mọi cách để buôn lậu, vận chuyển trái
phép phế liệu qua biên giới, bằng nhiều phương thức và thủ đoạn ngày càng tinh vi
như làm giả giấy phép, thông báo phế liệu nhập khẩu, nhập khẩu phế liệu không đáp
ứng điều kiện, tiêu chuẩn,... gây thiệt hại nghiêm trọng cho lợi ích của Nhà nước và
ảnh hưởng đến môi trường, đời sống nhân dân.
Hải quan với nhiệm vụ là cơ quan “bảo vệ biên giới” thực hiện nhiệm vụ “gác
cổng cho nền kinh tế, bảo vệ chủ quyền, an ninh kinh tế, trật tự pháp luật trong lĩnh
vực xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh phương tiện
vận tải. Theo quy định của pháp luật Việt Nam phế liệu là loại hàng hóa nhập khẩu
có điều kiện, chịu sự kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ của cơ quan hải quan.
Để kịp thời phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động
nhập khẩu phế liệu, giảm thiểu nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, tác động tiêu cực
đến nền kinh tế thì cần thiết phải kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu.
1.1.2. Khái niệm kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu
Trước đây, khái niệm kiểm soát hải quan được hiểu thuần túy là hoạt động
chống buôn lậu, gian lận thương mại của lực lượng hải quan. Theo đó, trong một
thời gian dài, khái niệm kiểm soát hải quan đồng nghĩa với công tác chống buôn lậu,
vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới.
Theo từ điển tiếng Việt, kiểm soát hải quan có hai nghĩa: xem xét để phát
hiện, ngăn chặn những gì trái quy định; đặt trong quyền hạn của mình.
Theo Công ước của Tổ chức Hải quan thế giới (WCO) – Công ước về đơn
giản hóa, hài hòa hóa thủ tục hải quan có khái niệm: “Kiểm soát hải quan (Customs
control) là các biện pháp được cơ quan hải quan tiến hành nhằm bảo đảm thực thi
pháp luật hải quan.”
Theo khái niệm này, công tác kiểm soát hải quan có phạm vi hoạt động rất rộng,
bao gồm tất cả các hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, có mục đích đảm bảo cho các
đối tượng chịu sự quản lý về hải quan tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp
luật hải quan. Ở một số nước, trong một số trường hợp, thuật ngữ “customs control”
còn được dùng trong ngôn ngữ thông thường với hàm nghĩa “việc Nhà nước tiến hành
các thủ tục, biện pháp cần thiết để đảm bảo hàng hóa, phương tiện được xuất ra hay
nhập vào một quốc gia theo đúng các quy định hiện hành”.
7
Theo quy định tại khoản 11 Điều 4 Luật Hải quan năm 2014, “Kiểm soát hải
quan là biện pháp tuần tra, điều tra, xác minh hoặc biện pháp nghiệp vụ khác do cơ
quan hải quan áp dụng để phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa
qua biên giới và hành vi khác vi phạm pháp luật về hải quan.”
Theo quan niệm trên thì kiểm soát hải quan là một hoạt động không phải chỉ
là một biện pháp nghiệp vụ hải quan cụ thể mà nó là một số các biện pháp nghiệp vụ
của cơ quan hải quan để thực hiện nhiệm vụ phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái
phép hàng hóa qua biên giới và các hành vi vi phạm pháp luật hải quan.
So với Công ước Kyoto sửa đổi năm 1999, khái niệm về kiểm soát hải quan
của Hải quan Việt Nam cụ thể, rõ ràng hơn và chỉ tập trung vào hoạt động của
ngành Hải quan nhằm phòng, chống buôn lậu và các hành vi vi phạm pháp luật hải
quan mà không bao hàm các hoạt động mang tính quản lý nhà nước như kiểm tra
hải quan, giám sát hải quan.
Như vậy, kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu là việc cơ quan hải
quan áp dụng các biện pháp nghiệp vụ kiểm soát hải quan đối với hoạt động nhập
khẩu phế liệu, tiến hành điều tra, xác minh và xử lý vi phạm (nếu có) đảm bảo chính
sách quản lý nhà nước đối với mặt hàng này được thực thi trên thực tế.
1.1.3. Đặc điểm kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu
Hiện nay, mặt hàng phế liệu là một trong những mặt hàng trọng điểm chịu sự
kiểm tra, kiểm soát nghiêm ngặt trong quá trình làm thủ tục hải quan có một số đặc
điểm chính sau:
Thứ nhất, hoạt động kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu đảm bảo
cho hoạt động nhập khẩu phế liệu được thực hiện đúng theo quy định pháp luật. Với
chức năng, nhiệm vụ là cơ quan thực thi pháp luật, hoạt động kiểm soát hải quan
đảm bảo chính sách quản lý của nhà nước đối với mặt hàng phế liệu khi nhập khẩu
được thực thi trên thực tế, đảm bảo nhập khẩu phế liệu đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo
quy định, đúng mục đích và đúng tối tượng có nhu cầu.
Thứ hai, tổ chức và tiến hành các hoạt động nghiệp vụ để phát hiện, bắt giữ
và xử lý các hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới và các
hành vi vi phạm khác thuộc chức năng đấu tranh của lực lượng kiểm soát hải quan
trong đó có các hành vi vi phạm pháp luật hải quan, pháp luật bảo vệ môi trường đối
với hoạt động nhập khẩu phế liệu.
8
Nhiệm vụ phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép qua biên giới là một
trong những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng đã được Luật Hải quan 2014 giao cho cơ
quan hải quan các cấp tổ chức thực hiện và việc thực hiện nhiệm vụ này được giao
cho lực lượng chuyên trách thực hiện đó là lực lượng kiểm soát hải quan.
Để thực hiện thẩm quyền của cơ quan hải quan trong việc áp dụng các biện
pháp phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, Điều 89
Luật Hải quan năm 2014 trao cho cơ quan hải quan những thẩm quyền như tổ chức
lực lượng, xây dựng cơ sở dữ liệu, áp dụng biện pháp nghiệp vụ kiểm soát hải quan,
thu thập thông tin trong nước và ngoài nước liên quan đến hoạt động hải quan để
chủ động phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, phục
vụ thông quan hàng hóa và kiểm tra sau thông quan; phối hợp với các cơ quan hữu
quan bảo vệ bí mật về người cung cấp thông tin các vụ buôn lậu, vận chuyển trái
phép hàng hóa qua biên giới theo quy định của pháp luật; thực hiện kiểm soát hải
quan đối với hàng hóa, phương tiện vận tải; chủ trì, phối hợp với cơ quan nhà nước
hữu quan thực hiện các hoạt động phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép
hàng hóa qua biên giới trong địa bàn hoạt động hải quan; yêu cầu cơ quan, tổ chức,
cá nhân liên quan cung cấp thông tin, tài liệu để phục vụ việc kiểm tra, điều tra, xác
minh hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới....
Ngoài ra, cơ quan hải quan có quyền xử lý vi phạm pháp luật hải quan (xử lý
vi phạm hành chính, xử lý hình sự) theo quy định pháp luật xử lý vi phạm hành
chính, pháp luật hình sự, tố tụng hình sự.
Tất cả thẩm quyền nhà nước trao cho lực lượng kiểm soát hải quan nhằm kịp
thời phát hiện, ngăn chặn, bắt giữ và xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực hải
quan, đảm bảo được quyền “kiểm soát biên giới” giữ gìn trật tự quản lý kinh tế
ngoại thương.
Thứ ba, hoạt động kiểm soát hải quan đối với phế liệu chỉ trong phạm vi địa
bàn hoạt động hải quan
Theo quy định tại khoản 13 Điều 4 Luật hải quan năm 2014 “Lãnh thổ hải
quan gồm những khu vực trong lãnh thổ, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nơi Luật hải quan được áp dụng”
Theo quy định tại Điều 7 Luật Hải quan năm 2014 địa bàn hoạt động hải
quan được xác định bao gồm khu vực cửa khẩu đường bộ, ga đường sắt liên vận
quốc tế, cảng hàng không dân dụng quốc tế; cảng biển... Trong địa bàn hoạt động
9
hải quan, cơ quan hải quan chịu trách nhiệm kiểm tra, giám sát, kiểm soát đối với
hàng hóa, phương tiện vận tải và xử lý vi phạm pháp luật về hải quan.
Để xác định ranh giới, chi tiết phạm vi địa bàn hoạt động hải quan, Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 01/2015/NĐ-CP quy định chi tiết phạm vi địa bàn
hoạt động hải quan; trách nhiệm phối hợp trong phòng, chống buôn lậu, vận chuyển
trái phép hàng hóa qua biên giới (đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số
12/2018/NĐ-CP). Việc xác định địa bàn hoạt động hải quan của cơ quan hải quan
có ý nghĩa rất lớn tạo cơ sở để cơ quan hải quan xác định ở đâu, khi nào cơ quan hải
quan sẽ chủ trì trong hoạt động kiểm soát, đấu tranh và xử lý vi phạm trong lĩnh vực
hải quan và khi nào cơ quan hải quan là cơ quan phối hợp.
1.2. Pháp luật về kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm
nguyên liệu sản xuất
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất
Theo Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 2014: “Phế liệu là vật liệu được thu
hồi, phân loại, lựa chọn từ những vật liệu, sản phẩm đã bị loại bỏ từ quá trình sản
xuất hoặc tiêu dùng để sử dụng làm nguyên liệu cho một quá trình sản xuất khác”.
Bên cạnh việc hiểu khái niệm phế liệu, chúng ta cũng cần phân biệt khái
niệm phế liệu với phế thải (hay chất thải) vì trên thực tế, sự không rõ ràng giữa 2
khái niệm này trở thành khe hở cho tình trạng nhập khẩu trái qui định, nhập khẩu
chất thải vào Việt Nam.
Theo Điều 3 Luật bảo vệ môi trường 2014: “Chất thải là vật chất được thải
ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt động khác”. Còn “Chất
thải nguy hại là chất thải chứa yếu tố độc hại, phóng xạ, lây nhiễm, dễ cháy, dễ nổ,
gây ăn mòn, gây ngộ độc hoặc có đặc tính nguy hại khác”.
Mặc dù tại định nghĩa này, sự khác biệt giữa chất thải và phế liệu chưa được
làm rõ, tuy nhiên, có thể thấy điểm khác nhau cơ bản nhất giữa phế liệu và phế thải
là: phế liệu có giá trị sử dụng, có thể làm nguyên liệu đầu vào của quá trình sản
xuất, trong khi đó, chất thải thì không có giá trị sử dụng vì không thể sử dụng cho
bất kỳ mục đích nào, bao gồm cả mục đích làm nguyên liệu sản xuất. Có 2 nguồn
cung cấp phế liệu là thu mua trong nước và nhập khẩu từ nước ngoài. Ở Việt Nam,
trước đây tỷ lệ thu gom trong nước chiếm đa số. Tuy nhiên, tới thời điểm hiện tại,
đa số các phế liệu được nhập khẩu từ nước ngoài do việc thu gom trong nước không
đáp ứng được nhu cầu của hoạt động sản xuất tại các ngành. Ví dụ ngành thép, nếu
10
trước đây việc thu mua trong nước cung ứng phần lớn cho các doanh nghiệp tái chế
thì đến nay, nguồn cung ứng trong nước ngày càng chiếm tỷ lệ ít hơn do: Thứ nhất:
nguồn sắt thép phế liệu chiến tranh đã dần dần bị khai thác hết; Thứ hai: do là một
nước đang phát triển, đặc biệt là công nghiệp chưa phát triển, chính vì vậy, sắt thép
phế liệu có nguồn gốc từ các vật liệu tận dụng là rất hạn chế. Chính bởi vậy, phế
liệu có nguồn gốc nhập khẩu từ nước ngoài ngày càng chiếm tỷ lệ lớn hơn trong
tổng lượng phế liệu cung cấp cho các nhà sản xuất.
Phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất có các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, phế liệu nhập khẩu là loại hàng hóa nhập khẩu theo giấy phép, điều
kiện, thuộc phạm vi quản lý chuyên ngành của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Theo
quy định tại khoản 1 Điều 76 Luật Bảo vệ môi trường thì phế liệu nhập khẩu từ
nước ngoài vào Việt Nam phải đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật môi trường và thuộc
danh mục phế liệu được phép nhập khẩu do Thủ tướng Chính phủ quy định. Tổ
chức, cá nhân nhập khẩu phải đáp ứng các điều kiện pháp luật quy định về kho bãi,
nhà máy, công nghệ…
Thứ hai, phế liệu nhập khẩu bị áp dụng biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn từ
xa trước khi làm thủ tục hải quan
Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn từ xa giúp cơ quan hải quan đánh giá sơ bộ và
đưa ra các biện pháp cụ thể đối với hàng hóa nhập khẩu. Đối với các hàng hóa mà phải
đáp ứng điều kiện nhập khẩu, hàng hóa thuộc danh mục hàng hóa nguy hiểm như phế
liệu, hóa chất độc hại, hàng hóa nhiễm chất phóng xạ… nếu không thỏa mãn điều kiện
thì sẽ không được xếp dỡ xuống cảng, để tránh việc “ùn tắc”, tồn đọng tại cảng biển
hoặc có phương án trong việc kiểm soát hàng hóa để sự cố xảy ra.
Thứ ba, Phế liệu nhập khẩu là mặt hàng thuộc diện quản lý chuyên ngành vì
vậy thông thường phải kiểm tra chi tiết hồ sơ hải quan hoặc kiểm tra thực tế hàng
hóa. Theo hệ thống VNACC/VCIS ở Việt Nam hiện nay khi làm thủ tục hải quan,
phế liệu nhập khẩu được phân luồng vàng (kiểm tra hồ sơ) hoặc luồng đỏ (kiểm tra
hồ sơ và kiểm tra thực tế hàng hóa). Việc phân luồng hàng hóa trong quá trình làm
thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu là một công cụ, thủ tục và hình thức hữu hiệu giúp cơ
quan Hải quan thực hiện việc giám sát, kiểm tra và quản lý hàng hóa ra và vào lãnh
thổ Việt Nam.
Có nhiều tiêu chí quản lý rủi ro tác động ảnh hưởng đến việc phân luồng như
tiêu chí tuân thủ pháp luật của người khai hải quan, chính sách quản lý mặt hàng đối
11
với hàng hóa,... các tiêu chí này được tích hợp trên hệ thống và khi người khai hải
quan khai thì hệ thống sẽ tự động phân luồng.
Đối với phế liệu nhập khẩu tác động, ảnh hưởng đến môi trường thuộc danh
mục hàng hóa nhập khẩu có điều kiện theo chính sách quản lý chuyên ngành. Do
đó, việc phân luồng đối với các tờ khai nhập khẩu các loại hàng hóa này thì mức
thấp nhất là mức 2 - luồng vàng và trong những thời điểm nhất định khi Chính phủ
có các biện pháp siết chặt nhập khẩu thì các mặt hàng này cơ bản được phân luồng
ở mức 3 - luồng đỏ, ví dụ trong giai đoạn từ tháng 6/2018 đến tháng 12/2018 khi
Chính phủ thực hiện các biện pháp siết chặt hoạt động nhập khẩu phế liệu làm
nguyên liệu sản xuất thì tất cả các tờ khai nhập khẩu mặt hàng này đều được hệ
thống phân luồng đỏ.
Thứ tư, về hồ sơ hải quan khi nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất
được pháp luật quy định rất chặt chẽ.
Do đây là hàng hóa ảnh hưởng đến môi trường thuộc diện quản lý chuyên
ngành của Bộ Tài nguyên và Môi trường nên trong hồ sơ nhập khẩu ngoài các giấy
tờ thông thường như tờ khai hải quan, hóa đơn (invoice), C/O (chứng nhận xuất xứ
hàng hóa)... theo quy định pháp luật chuyên ngành thì hồ sơ nhập khẩu phế liệu phải
có Giấy xác nhận đủ điều kiện về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu làm
nguyên liệu sản xuất, Giấy thông báo kết quả kiểm tra của cơ quan kiểm tra chuyên
ngành…Các giấy tờ này có thể nộp bản giấy hoặc dưới dạng điện tử thông qua
Cổng thông tin một cửa quốc gia. Đây được xem như cơ sở để cơ quan hải quan
đánh giá hàng hóa nhập khẩu đủ điều kiện nhập khẩu và thông quan cho hàng hóa
nhập khẩu.
Thứ năm, phế liệu nhập khẩu phải làm thủ tục hải quan ngay tại cửa khẩu
nhập. Cụ thể ở Việt Nam hiện nay, theo quy định tại Quyết định số 15/2017/QĐTTg ngày 12/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục hàng hóa nhập
khẩu phải làm thủ tục hải quan tại cửa khẩu nhập cơ bản những hàng hóa ảnh hưởng
xấu đến bảo vệ môi trường phải làm tại Chi cục hải quan cửa khẩu trong đó có phế
liệu nhập khẩu. Ngoài ra, ngày 17/11/2015, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số
2026/QĐ-TTg phê duyệt đề án giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động
kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Như vậy, khác với
các loại hàng hóa nhập khẩu thông thường khác, đối với phế liệu nhập khẩu pháp
luật quy định địa điểm làm thủ tục hải quan ngay tại cửa khẩu nhập.
12
Thứ sáu, phế liệu nhập khẩu được doanh nghiệp sử dụng trực tiếp làm
nguyên liệu sản xuất mà không được phép chuyển giao, bán lại hoặc sơ chế đơn
giản bán cho tổ chức, cá nhân khác.
Khác với các loại hàng hóa khác, chỉ những doanh nghiệp thực sự có nhu cầu
nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất mới được nhập khẩu. Pháp luật nghiêm
cấm việc doanh nghiệp nhập khẩu phế liệu về để bán lại hoặc chỉ sở chế đơn giả sau
đó bán lại cho tổ chức, cá nhân khác. Điều này được quy định tại khoản 6 Điều 56
Nghị định số Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24/4/2015 của Chính phủ về quản
lý chất thải và phế liệu (sửa đổi bổ sung tại Nghị định số 40/2019/NĐ-CP ngày
13/5/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định quy định chi tiết, hướng
dẫn thi hành Luật bảo vệ môi trường).
1.2.2. Nội dung của pháp luật kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu
Pháp luật kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu là hệ thống các quy
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình cơ quan hải
quan thực hiện kiểm soát việc nhập khẩu phế liệu để làm nguyên liệu sản xuất của
các doanh nghiệp.
Phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất khi nhập khẩu vào Việt Nam
chịu sự điều chỉnh của nhiều văn bản pháp luật như các văn bản pháp luật hải quan,
môi trường, tiêu chuẩn kỹ thuật, xử lý vi phạm (hành chính, hình sự). Kiểm soát hải
quan đối với phế liệu nhập khẩu là quá trình tổ chức thực thi các văn bản này để
đảm bảo phế liệu nhập khẩu hợp pháp, tránh tình trạng buôn lậu, vận chuyển trái
phép phế liệu qua biên giới. Theo đó, pháp luật kiểm soát hải quan đối với phế liệu
nhập khẩu gồm những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, quy định về điều kiện nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản
xuất. Xuất phát từ bản chất và công dụng của phế liệu, nhà nước ban hành chính
sách, quy định loại phế liệu được nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất thường là
những loại có nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường, sức khỏe của con người ở mức
độ thấp), loại phế liệu không được nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất (thường là
những loại có nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường, sức khỏe của con người ở mức
độ cao). Đối với loại phế liệu được phép nhập khẩu thì cũng đặt ra các tiêu chuẩn kỹ
thuật về môi trường khi nhập khẩu trong đó nêu các hàm lượng tạp chất, tạp chất
nguy hại, yêu cầu về phân loại, làm sạch... để đảm bảo giảm thiểu ở mức độ thấp
nhất về môi trường khi phế liệu nhập khẩu được đưa vào sản xuất.
13
Thứ hai, quy định về điều kiện tổ chức, cá nhân nhập khẩu phế liệu. Xuất
phát từ ý nghĩa phế liệu được nhập khẩu về làm nguyên liệu sản xuất nên pháp luật
đặt ra các quy định về chủ thể nhập khẩu pháp đáp ứng các điều kiện về bảo vệ môi
trường trong nhập khẩu phế liệu như các yêu cầu đối với nhà kho, bãi chứa, lưu giữ
phế liệu về an toàn cháy nổ, an toàn vệ sinh; yêu cầu đối với nhà máy, cơ sở sản
xuất phải đáp ứng về mặt công nghệ, công suất, năng lực tài chính khi nhập khẩu
phế liệu làm nguyên liệu sản xuất.
Thứ ba, quy định về trình tự, thủ tục và hồ sơ hải quan khi nhập khẩu phế liệu. Đây
là thủ tục hành chính bắt buộc để phế liệu nhập khẩu hợp pháp trước khi đưa vào
sản xuất. Theo đó, tổ chức, cá nhân nhập khẩu phải thực hiện các thủ tục hải
quan, nộp các loại giấy tờ, tài liệu bắt buộc theo các quy định về hồ sơ hải quan khi
nhập khẩu phế liệu. Các giấy tờ này chứng minh loại phế liệu được nhập khẩu, chứng
minh tổ chức, cá nhân đủ điều kiện nhập khẩu phế liệu theo quy định pháp luật về bảo
vệ môi trường và các tài liệu khác theo quy định chung của pháp luật hải quan.
Thứ tư, quy định việc kiểm tra, giám sát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu. Để
kiểm soát tuân thủ pháp luật cơ quan hải quan sẽ thực hiện việc kiểm tra, giám sát
hải quan bao gồm kiểm tra về hồ sơ hải quan và kiểm tra thực tế (có dấu
hiệu vi phạm hoặc hệ thống phân luồng ngẫu nhiên). Pháp luật quy trình cụ thể
những trường hợp phải kiểm tra, trình tự tiến hành kiểm tra, tỷ lệ kiểm tra ( 5%,
10% hoặc 100%) , phương pháp kiểm tra (trực tiếp, qua máy soi, qua phân tích,
phân loại hoặc giám định), xử lý kết quả kiểm tra (giải phóng hàng, thông quan, tạm
dừng, buộc tái xuất,...) và thực hiện giám sát hải quan trong suốt quá trình lô hàng
làm thủ tục hải quan.
Thứ năm, quy định các biện pháp kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập
khẩu. Bên cạnh các biện pháp nghiệp vụ về công tác kiểm soát hải quan như với các
hàng hóa khác như điều tra nghiên cứu nắm tình hình, sưu tra, trinh sát, chuyên án
thì phế liệu còn áp dụng các biện pháp kiểm soát ngăn chặn từ xa, trao đổi thông tin
tình báo, xây dựng chuyên đề đấu tranh.
Thứ sáu, quy định việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong công tác
kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu.
Trong quá trình thực hiện kiểm soát hải quan đối với phế liệu nhập khẩu làm
nguyên liệu sản xuất, căn cứ chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền được giao, cơ
quan hải quan tiến hành xử lý các vi phạm pháp luật trong hoạt động này. Đối với
14
- Xem thêm -