Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Kiểm kê, đánh giá các loài cá ngoại lai xâm hại và có nguy cơ xâm hại ở hai huyệ...

Tài liệu Kiểm kê, đánh giá các loài cá ngoại lai xâm hại và có nguy cơ xâm hại ở hai huyện mê linh, sóc sơn (hà nội) và đề xuất biện pháp quản lý

.PDF
85
311
82

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN --------------------- NGUYỄN HÀ MY KIỂM KÊ, ĐÁNH GIÁ CÁC LOÀI CÁ NGOẠI LAI XÂM HẠI VÀ CÓ NGUY CƠ XÂM HẠI Ở HAI HUYỆN MÊ LINH, SÓC SƠN (HÀ NỘI) VÀ ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP QUẢN LÝ LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC Hà Nội – 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN --------------------- NGUYỄN HÀ MY KIỂM KÊ, ĐÁNH GIÁ CÁC LOÀI CÁ NGOẠI LAI XÂM HẠI VÀ CÓ NGUY CƠ XÂM HẠI Ở HAI HUYỆN MÊ LINH, SÓC SƠN (HÀ NỘI) VÀ ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP QUẢN LÝ Chuyên ngành: Sinh thái học Mã số: 60 42 01 20 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS NGUYỄN XUÂN HUẤN GS. TS MAI ĐÌNH YÊN Hà Nội - 2014 LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới GS.TS Mai Đình Yên, PGS.TS Nguyễn Xuân Huấn- hai người thầy đã khích lệ tinh thần, tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn KS Lê Thiết Bình đã trao đổi ý tưởng, giúp tư liệu để tôi có thể hoàn thành tốt luận văn. Tôi xin cảm ơn các thầy cô giáo khoa Sinh học – trường Đại học Khoa học tự nhiên đã dạy dỗ, truyền đạt những kiến thức bổ ích cho tôi trong suốt quá trình học tập Cuối cùng tôi xin cảm ơn sự động viên to lớn mà gia đình và bạn bè đã dành cho tôi trong suốt quá trình thực hiên đề tài. Hà Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2014 TÁC GIẢ LUẬN VĂN NGUYỄN HÀ MY MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 Chương 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ CẦN NGHIÊN CỨU .................................. 3 1.1. Hiện trạng và công tác quản lý các loài cá ngoại lai trên thế giới ..................... 4 1.1.1. Hiện trạng các loài cá ngoại lai trên thế giới................................................ 4 1.1.2. Công tác quản lý các loài cá ngoại lai trên thế giới ...................................... 6 1.2. Hiện trạng và công tác quản lý các loài cá ngoại lai ở Việt Nam .................... 10 1.2.1. Hiện trạng các loài cá ngoại lai ở Việt Nam ............................................... 10 1.2.2. Công tác quản lý các loài cá ngoại lai tại Việt Nam ................................... 12 Chương 2: ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ... 14 2.1. Địa điểm nghiên cứu ..................................................................................... 14 2.2. Thời gian nghiên cứu ..................................................................................... 14 2.3. Đối tượng nghiên cứu .................................................................................... 14 2.4. Phương pháp tiếp cận và phương pháp nghiên cứu ........................................ 14 2.4.1. Phương pháp tiếp cận ................................................................................. 14 2.4.2. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 15 Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................................... 18 3.1 Điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội hai huyện Mê Linh và Sóc Sơn ............... 18 3.1.1 Điều kiện tự nhiên....................................................................................... 18 3.1.2 Tình hình kinh tế - xã hội .............................................................................. 31 3.2 Các loài cá ngoại lai xâm hại và có nguy cơ xâm hại đã gặp và đặc điểm phân bố của chúng ở hai huyện Mê Linh và Sóc Sơn (Hà Nội)....................................... 35 3.3 Thông tin chi tiết về đặc điểm sinh học và nguồn gốc của các loài cá ngoại lai xâm hại và có nguy cơ xâm hại tại hai huyện Mê Linh và Sóc Sơn ........................ 44 3.3.1 Cá rô phi đen................................................................................................ 44 3.3.2 Cá tỳ bà lớn .................................................................................................. 46 3.3.3 Cá tỳ bà ........................................................................................................ 48 3.3.4 Cá trê phi ..................................................................................................... 50 3.3.6 Cá trôi Nam Mỹ ............................................................................................ 53 3.3.7 Cá chim trắng toàn thân ............................................................................... 55 3.4 Hiện trạng công tác quản lý và đề xuất biện pháp quản lý các loài cá ngoại lai xâm hại và có nguy cơ xâm hại. ............................................................................. 57 3.4.1 Hiện trạng công tác quản lý của hai huyện Mê Linh và Sóc Sơn ................. 57 3.4.2 Đề xuất các biện pháp quản lý các loài cá ngoại lai xâm hại và có nguy cơ xâm hại ở hai huyên Mê Linh và Sóc Sơn .............................................................. 58 KẾT LUẬN .......................................................................................................... 61 KIẾN NGHỊ ......................................................................................................... 62 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 63 DANH MỤC BẢNG STT Tên bảng Trang Bảng 1 Phân bố các loài cá ngoại lai xâm hại và có ngoại lai xâm hại 37 có mặt theo thông tư 22/2011/Bộ Tài nguyên – Môi trường ở huyện Mê Linh Bảng 2 Phân bố các loài cá ngoại lai xâm hại và có ngoại lai xâm hại có mặt theo thông tư 22/2011/Bộ Tài nguyên – Môi trường ở huyện Sóc Sơn 41 DANH MỤC HÌNH STT Tên hình Trang Hình 1 Bản đồ huyện Mê Linh 18 Hình 2 Bản đồ huyện Sóc Sơn 20 Hình 3 Bản đồ phân bố các loài cá ngoại lai xâm hại và có nguy cơ xâm 38 hại có mặt tại huyện Mê Linh Hình 4 Bản đồ phân bố các loài cá ngoại lai xâm hại và có nguy cơ xâm 42 hại có mặt tại huyện Sóc Sơn Hình 5 Cá rô phi đen Oreochromis mossambicus Peters, 1852 45 Hình 6 Cá tỳ bà lớn Pterygoplichthys pardalis Castelnau, 1855 47 Hình 7 Cá tỳ bà bé Hypostomus punctatus Valenciennes, 1840 49 Hình 8 Cá trê phi Clarias gariepinus Burchell, 1822 51 chụp tại huyện Mê Linh Hình 9 Cá trôi Nam Mỹ Prochilodus lineatus Spix & Agassi, 1829 Hình 10 Cá chim trắng bụng đỏ Piaractus brachypomus Cuvier, 1818 chụp tại xã Liên Mạc huyện Mê Linh 54 55 PHỤ LỤC Phụ lục 1: Mẫu bảng hỏi phỏng vấn về từng loài cá ngoại lai Phụ lục 2: Phiếu điều tra các loài cá ngoại lai xâm hại và có nguy cơ xâm hại Phụ lục 3: Thông tư liên tịch số 27/2013/TTLT-BTNMT-BNNPTNT Phụ lục 4: Ảnh thực địa tại huyện Mê Linh Phụ lục 5: Ảnh thực địa tại huyện Sóc Sơn DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT SVNLXH : Sinh vật ngoại lai xâm hại TSVNL : Thủy sinh vật ngoại lai xâm hại HST : Hệ sinh thái ĐDSH : Đa dạng sinh học GTSX : Giá trị sản xuất (tính bằng tiền) VHTT : Văn hóa thông tin MỞ ĐẦU Theo Công ước Đa dạng sinh học, sự xâm hại của các sinh vật ngoại lai chính là một trong những nguyên nhân chính gây mất đa dạng sinh học, ảnh hưởng tới sự phát triển của các ngành kinh tế quan trọng như nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và tới sức khỏe con người. Việt Nam được biết là một quốc gia phong phú, đa dạng về nguồn gen, thành phần loài và các hệ sinh thái nhưng kém bền vững trước sự thay đổi, tác động của các yếu tố môi trường. Và một trong những nguyên nhân đó là sự du nhập của các loài SVNLXH, đặc biệt là các loài TSVNL. Hiện nay, các loài TSVNL vẫn tiếp tục được nhập vào nước ta qua nhiều con đường khác nhau nhưng không được kiểm soát một cách chặt chẽ. Điều này dẫn đến nguy cơ làm mất cân bằng các HST và ĐDSH, đồng thời làm suy giảm nguồn lợi thuỷ sản tự nhiên. Chính vì vậy, việc đánh giá tác động của TSVNL tới HST, ĐDSH và nguồn lợi thủy sản là một yêu cầu cấp thiết. Để từ đó, những đánh giá này sẽ là những cơ sở tiền đề cho những biện pháp bảo vệ, quản lý bền vững nguồn lợi thủy sản. Theo Cục khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản cho biết: Trong 50 năm qua, Việt Nam đã nhập 41 loài thủy sinh ngoại lai, trong đó hầu hết là cá. Các nghiên cứu cho thấy: Các loài cá ngoại lai có mặt ở Việt Nam đều là những loài nằm trong danh sách “100 SVNLXH xâm lấn nguy hiểm nhất thế giới”. Do những yếu tố địa lý, địa hình, điều kiện khí hậu, cùng với quá trình hội nhập quốc tế đã tạo nên nguy cơ xâm nhập của các loài cá ngoại lai vào nước ta là rất cao, gây ra các tác hại cho các hệ thống thủy lợi, nông nghiệp, đa dạng sinh học…và gây ra những thiệt hại nặng nề cho nền kinh tế [7,9] Thủ đô Hà Nội nằm “chếch’’ về phía Tây Bắc của trung tâm vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng trù phú, nơi đây là một trong 8 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc.. Sông Hồng là con sông chính của thành phố Hà Nội. Ngoài ra, Hà Nội còn có sông Đà là ranh giới giữa Hà Nội với Phú Thọ, và còn nhiều sông khác 1 như sông Đáy, sông Đuống, sông Cầu, sông Cà Lồ... Đây là điều kiện hết sức thuận lợi cho việc phát triển thủy sản. Hai huyện Mê Linh, Sóc Sơn là hai huyện ngoại thành nằm phía Bắc thủ đô Hà Nội. Với hệ thống sông, hồ và đầm khá phong phú, 2 huyện có nhiều điều kiện thuận lợi cho các loài thủy sinh vật phát triển mạnh mẽ. Cùng nằm trong tình trạng chung của cả nước về việc phải đối mặt với vấn nạn SVNLXH, hai huyện Mê Linh và Sóc Sơn chứa đựng các mối đe dọa, rủi ro từ TSVNL nói chung và các loài cá ngoại lai nói riêng ở các sông, đầm, hồ. Song cho đến nay, tại hai huyện Mê Linh và Sóc Sơn chưa có nghiên cứu nào để kiểm kê, đánh giá các tác động của các loài cá ngoại lai trên địa bàn hai huyện, cũng như chưa có các biện pháp quản lý các loài cá ngoại lai phù hợp. Chính vì vậy, việc thực hiện đề tài “ Kiểm kê, đánh giá các loài cá ngoại lai xâm hại và có nguy cơ xâm hại ở hai huyện Mê Linh, Sóc Sơn (Hà Nội) và đề xuất biện pháp quản lý” là thực sự cần thiết. Qua đề tài tôi mong muốn góp phần nào đó trong việc ngăn ngừa, giảm thiểu, tiến đến là loại bỏ và kiểm soát chặt chẽ các loài cá ngoại lai xâm hại và có nguy cơ xâm hại ở 2 huyện Mê Linh và Sóc Sơn. Đề tài có các mục tiêu và nội dung nghiên cứu như sau:  Mục tiêu:  Xác định được các loài cá ngoại lai xâm hại và có nguy cơ xâm hại (theo thông tư 22 Bộ Tài nguyên và môi trường) ở địa bàn hai huyện Mê Linh và Sóc Sơn, đồng thời đề xuất biện pháp quản lý chúng.  Cung cấp cơ sở khoa học cho việc lập danh sách và xây dựng cơ sở dữ liệu các loài cá ngoại lai của thành phố Hà Nội nói riêng và của cả nước nói chung.  Nội dung:  Nghiên cứu điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế xã hội ở 2 huyện Mê Linh và Sóc Sơn, làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp quản lý phù hợp.  Khảo sát hiện trạng các hệ sinh thái thủy vực chính của hai huyện.  Kiểm kê, xác định các loài cá ngoại lai và sự phân bố của chúng trong các thủy vực ở 2 huyện Mê Linh và Sóc Sơn. 2  Mô tả các đặc điểm hình thái, sinh học để nhận biết các loài cá ngoại lai có mặt ở 2 huyện.  Phân tích hiện trạng quản lý các loài cá ngoại lai của 2 huyện Mê Linh và Sóc Sơn.  Đề xuất biện pháp quản lý. 3 Chương 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ CẦN NGHIÊN CỨU Tình hình SVNLXH diễn ra ở các nước trên thế giới trong thời gian gần đây làm cho các chuyên gia trong lĩnh vực bảo tồn ĐDSH đi đến kết luận: “ Sự lan rộng của SVNLXH đang tạo những thách thức to lớn lâu dài và phức tạp đe dọa đến ĐDSH tự nhiên của Trái Đất và sự thịnh vượng chung của loài người” [17]. 1.1. Hiện trạng và công tác quản lý các loài cá ngoại lai trên thế giới 1.1.1. Hiện trạng các loài cá ngoại lai trên thế giới Từ lâu công tác nhập nội các loài cá ngoại lai đã được thực hiện.Từ thời La mã, cá chép trên sông Danube đã được nhập vào nuôi ở Ý và Hy lạp. Sau một thời gian sinh sống, loài cá này đã trở thành đối tượng nuôi chính. Tuy nhiên phải đến gần đây (từ thế kỉ XX đến nay) công tác nhập nội loài cá ngoại lai vào nuôi mới trở nên phổ biến [9]. Tính đến nay trên thế giới đã có hơn 610 loài cá được di nhập và riêng các nước ASEAN là 79 loài [43]. Hiện nay, các loài cá ngoại lai được nhập nội theo 2 xu hướng là: các nước đang phát triển nhập các loài cá ngoại lai làm thực phẩm hàng hóa, còn các nước phát triển thường nhập với mục đích làm cảnh, vui chơi giải trí, nghiên cứu khoa học hoặc với mục đích khác:  Sản xuất lương thực- thực phẩm: Nhiều quốc gia có tiềm năng về nuôi trồng thủy sản đã di nhập các giống loài cá để phục vụ nhu cầu thực phẩm của người dân và phục vụ sự phát triển kinh tế của đất nước. Đã có rất nhiều loài trở thành loài được người dân nuôi như loài bản địa và được được phát tán ngoài thủy vực tự nhiên, và việc di nhập các đối tượng thủy sản cũng góp phần không nhỏ vào việc cải thiện đời sống cho dân nghèo. Ví dụ nhập cá rô phi từ Phi Châu vào các nước Đông Nam Á, Nam và Trung Mỹ. Cá chép nhập vào nuôi ở Madagasca... [18]. Những loài cá đó đến nay đã trở thành các loài cá sống tự nhiên ở đây vì chúng thích nghi nhanh với điều kiện nơi ở mới, sinh sản được ở thuỷ vực tự nhiên [9]. 4 Ở Philippines, cá rô phi đen đóng một vai trò quan trọng trong khai thác thủy sản nội địa. Theo Baluyut, đất nước Philippines có khoảng 230.000 ha ao và hồ chứa, đặc biệt cá rô phi đen được tìm thấy trong hầu như tất cả trong số ao hồ này. Theo thống kê vào cuối năm 1990, cá rô phi chiếm khoảng 25 phần trăm tổng sản lượng cá của vùng [27]. Hiện nay, cá rô phi đen là loài được nuôi làm thực phẩm chính ở Philippines và chiếm khoảng 31 000 tấn [FAO FishStat]. Ở Thái Lan, tổ chức FAO đã thống kê và xác định có 17 loài cá ngoại lai xâm hại, trong đó có 5 loài đã thành lập đực quần thể ngoài tự nhiên. Theo Chavalit Vidthayanon, người dân Thái Lan tiêu thụ 28, 8 kg cá bình quân đầu người, trong đó 41, 6% là các loài ngoại lai [28]. Campuchia là đất nước có nguồn lợi thủy sản năng suất nhất thế giới. Theo Rainboth (1996) ước tính có khoảng 500 loài cá nước ngọt chiếm các hệ sinh thái khác nhau [32]. Năm 1997, chương trình Thủy sản của Ủy hội sông Mekong (MRC) đã đánh giá kiến thức địa phương trong lưu vực sông Mekong đã thống kê và cho biết, có 15 loài cái ngoại lai đã xuất hiện phổ biến trên lưu vực sông Mekong chảy qua Campuchia. Trong 15 loài cá ngoại lai, cá chép Ấn Độ và cá rô phi đen xuất hiện rất nhiều, trở thành 1 trong những thực phẩm hàng ngày của người dân [33].  Vui chơi giải trí và làm cảnh Đời sống kinh tế được nâng cao đồng thời nhu cầu vui chơi giải trí cũng được cải thiện đáng kể, trong đó có nhu cầu nuôi các loài thủy sinh làm cảnh và phục vụ các trung tâm giải trí. Việc di nhập các loài cá để nuôi làm cảnh đã trở nên rất phổ biến trên toàn thế giới. Ngày càng nhiều các loài cá nói riệng và các loài thủy sinh nói chung được nuôi thuần hóa và lai tạo với nhiều kiểu dáng và màu sắc hấp dẫn. VD: cá hoàng đế, cá cọ bể… [18].  Kiểm soát sinh học: Ngoài các mục đích trên, nhập nội các cá ngoại lai còn để kiểm soát sinh học, ví dụ nhập cá ăn bọ gậy (Gambusia affinis) để khống chế bệnh sốt rét. Nhập cá trắm cỏ để trừ các loài rong, cỏ nước vì thức ăn của nó là cỏ. Nhập một số loài để 5 chúng ăn trai ốc ở đáy sông vì trai ốc mang ký sinh trùng sán lá nên có thể là tác nhân gây bệnh cho loài mới nhập và các đối tượng khác [18]. Năm 1967, ba loài mới của loài cá chép Trung Quốc đã được đưa vào đất nước Myanmar với mục tiêu khác nhau, ví dụ như để diệt trừ cỏ dại thủy sản và để ngăn chặn sự nở sinh vật phù du trong ao cá. Vai trò của các loài cá này là để duy trì môi trường ao nuôi, giá trị thị trường của cá là khá thấp do hương vị kém hơn so với người tiêu dùng [36]. Ở các loài cá việc tạo con lai có khả năng sinh sản cao hơn các loài động vật có vú và các loài chim. Điều này làm cho nguy cơ gây tạp giao, mất ĐDSH do cá nhập nội xảy ra rất cao [9]. Hiện tượng tạp giao khá phổ biến ở các loài cá đặc biệt là nhóm cá rô phi ở Châu Phi và Nam Mỹ. Chúng tạo ra các con lai có khả năng sinh sản, do vậy hình thành các kiểu di truyền mới. Các loài có quan hệ gần gũi thì khả năng gây lai tạp càng cao. Theo Welcome (1984) cho biết, ở hồ Itasy thuộc Madagascar, hai quần thể đàn cá rô phi Oreochromis niloticus và Oreochromis macrochir chúng đã lai tạp với nhau. Kết quả là loài Oreochromis macrochir bị mất, chỉ còn lại loài Oreochromis niloticus và con lai [37]. 1.1.2. Công tác quản lý các loài cá ngoại lai trên thế giới Sự phát tán sinh vật ngoại lai xâm lấn đang tạo nên sự phức tạp và thách thức lớn là đe dọa đến ĐDSH và đời sống con người. Do vậy, nhiều tổ chức quốc tế đã đưa ra các công ước, các nghị định, các công rình nghiên cứu về các SVNLXH Công ước ĐDSH là một hiệp ước khung được thông qua tại Hội Nghị thượng đỉnh về Môi trường và Phát triển bền vững năm 1992 tại Rio de Janero (Brazin), có hiệu lực từ ngày 29/12/1993. Tính đến tháng 5 năm 2009 đã có 191 quốc gia là thành viên của Công ước này. Trong điều 8 của công ước ĐDSH có nêu rõ “Ngăn ngừa việc đưa vào lưu hành, kiểm soát hoặc tiêu diệt các loài lạ đe dọa tới các hệ sinh thái, môi trường sống tự nhiên hoặc các loài” [23, 42]. Theo khuyến cáo của Công ước đa dạng sinh học, các nước nhập nội các loài mới từ nước ngoài vào (thậm chí từ vùng này sang vùng khác ở một nước) cần phải đánh giá được tác động lên ĐDSH và nghề nuôi cá truyền thống của địa phương để có các biện pháp phát 6 triển bền vững, đồng thời để quản lý phòng ngừa nhằm hạn chế thiệt hại, có giải pháp tổ chức và thực hiện việc loại trừ loài xâm hại theo một quy trình quản lý mang tính chiến lược thích hợp… [23, 42]. FAO- Tổ chức lương thực và nông nghiệp liên hợp quốc cũng có chương trình kiểm kê đánh giá hậu quả môi trường đối với các loài thủy sinh vật nhập nội trong sự phát triển nuôi trồng thủy sản [43]. Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên thế giới (IUCN) đã đưa ra danh sách 100 loài sinh vật ngoại lai xâm lấn gây hại cho các loài bản địa, ảnh hưởng xấu đến môi trường và làm thiệt hại đến nền kinh tế [25]. Do vậy IUCN đã đưa ra khuyến cáo các nước cần ngăn cấm hoặc có các hình thức bảo vệ. Trong số 100 loài này có nhiều loài đang sinh sống ở Việt Nam [7]. Các nước khác nhau sẽ có ảnh hưởng khác nhau về mức độ tác động đến kinh tế và môi trường tùy theo số lượng SVNLXH đã xác lập được quần thể ngoài tự nhiên. Các nước có ĐDSH ở mức cao đều đã điều tra, đánh giá tác động của các loài cá nhập nội ảnh hưởng đến ĐDSH và nghề nuôi truyền thống một cách đầy đủ và toàn diện, đồng thời có sự cập nhật thường xuyên các số liệu. Khu vực Châu Úc – Thái Bình Dương: Do sinh vật ngoại lai xâm lấn đã làm tuyệt chủng một số loài sinh vật bản địa, do đó khu vực này đã đề xuất các giải pháp khẩn cấp bao gồm việc loại bỏ và kiểm soát các loài ngoại lai nhằm chống sự tuyệt chủng của các loài bản địa. Biện pháp tổng hợp bao gồm việc ngăn chặn, phát hiện sớm, phản hồi nhanh, loại bỏ, kiểm soát các loài ngoại lai xâm hại và phục hồi môi trường. Biện pháp ngăn chặn là ưu tiên đầu tiên. Ngoài ra các quốc gia còn ưu tiên thực hiện chiến lược quốc gia về sinh vật ngoại lai như thành lập Uỷ ban quốc gia về sinh vật ngoại lai, thực hiện các kế hoạch truyền thông, giáo dục để nâng cao hiểu biết của người dân… Hiện nay, khu vực này có hai hiệp ước đặc biệt để quản lý sinh vật ngoại lai, đó là: “Công ước về Bảo tồn thiên nhiên ở Nam Thái Bình Dương” [20]. và “Nghị định thư về bảo tồn và quản lý các khu vực ven bờ và bảo vệ thủy sinh của khu vực Đông Nam Thái Bình Dương” [22, 47]. 7 Khu vực châu Mỹ: Các nước châu Mỹ đã thực hiện kế hoạch hợp tác về quản lý sinh vật ngoại lai, trong đó công việc ưu tiên hàng đầu là tăng cường năng lực về quản lý sinh vật ngoại lai cho các cấp chính quyền và cộng đồng. Nước Mỹ đã thành lập Hội đồng quốc gia về sinh vật ngoại lai xâm lấn và ban hành các luật diệt trừ các loài ngoại lai xâm lấn. Khu vực châu Âu: Để ngăn ngừa sự xâm lấn của các sinh vật ngoại lai, các nước châu Âu đã nỗ lực xây dựng chiến lược quản lý SVNLXH dựa theo nội dung công ước Bern (Công ước bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và động vật, thực vật hoang dã châu Âu) [39]. Với chiến lược quản lý SVNLXH thường ưu tiên ngăn chặn là chính. Tháng 12/2003, Uỷ ban thường trực Công ước Bern đề nghị các nước xây dựng chiến lược quốc gia về quản lý các loài ngoại lai xâm hại phải tiến hành song song với chiến lược toàn châu Âu với nội dung chính là: hỗ trợ nâng cao nhận thức về SVNLXH, quản lý, thu thập và chia sẻ thông tin; thể chế, chính sách, luật pháp cần phải chặt chẽ đối với SVNLXH, nhằm giảm thiểu các tác hại của chúng, khôi phục lại ĐDSH bản địa [38, 39]. Khu vực châu Phi: Các nước trong khu vực này cũng đã quan tâm đến SVNLXH. Trong đó ưu tiên lập ủy ban quốc gia hoặc cơ quan đầu mối quốc gia về SVNLXH, đồng thời đẩy mạnh trao đổi thông tin, nâng cao nhận thức, tăng cường năng lực ở tầm quốc gia và khu vực về SVNLXH. Khu vực châu Á: Các nước trong khu vực châu Á đang đẩy mạnh công tác quản lý SVNLXH. Các quốc gia tăng cường đẩy mạnh công tác quản lý ngay từ khâu nhập khẩu, chú trọng việc ngăn chặn, đồng thời phối hợp với các quốc gia khác trao đổi, chia sẻ thông tin. Ở Nhật Bản việc quản lý các loài nhập nội do Bộ Tài nguyên và Môi trường Nhật Bản quản lý. Hàng năm, Bộ đều cấp kinh phí cho các trường Đại học có nghiên cứu quản lý các đối tượng thuỷ sinh vật nhập nội nói chung, các loài cá nhập nội nói riêng từ đó cập nhật danh sách các loài nhập nội mới và đưa ra các hình thức quản lý phù hợp [9]. 8 Chính phủ Indonesia đã công bố danh sách các loài sinh vật ngoại lai có tác động tiêu cực tới kinh tế và môi trường gồm 11 loài thực vật, 2 loài côn trùng, 1 loài động vật không xương sống và 9 loài cá, đồng thời vẫn cho phép các công ty nhập khẩu thuỷ sinh vật với mục đích khác nhau nhưng phải được kiểm tra, giám sát chặt chẽ của các cơ quan chức năng. Ngoài ra Chính phủ còn thành lập nhóm công tác về Môi trường do Bộ Môi trường điều phối cùng Bộ Lâm nghiệp, Bộ Nông nghiệp, Bộ Thuỷ sản để thảo ra một văn bản điều chỉnh các vấn đề về sinh vật lạ. Họ đã xây dựng chiến lược với mục tiêu: ngăn chặn các sinh vật ngoại lai có biểu hiện xâm lấn các loài bản địa; có sự đánh giá rủi ro về môi trường; kiểm soát hoặc giảm thiểu loài ngoại lai xâm nhập; xây dựng cơ sở dữ liệu về các sinh vật ngoại lai xâm nhập; đồng thời yêu cầu các vấn đề kiểm soát sinh vật ngoại lai xâm nhập phải được xây dựng trên cơ sở pháp lý phân tích rủi ro và hệ thống chứng nhận [9]. Chính phủ Philippin đã đưa ra được danh sách các loài sinh vật nhập nội ảnh hưởng tiêu cực tới các hệ sinh thái, bao gồm 10 loài thực vật trên cạn, 9 loài động vật không xương sống ở cạn, 2 loài thực vật thủy sinh và 9 loài động vật thủy sinh. Họ đã thành lập được mạng lưới quản lý các sinh vật ngoại lai của Chính phủ bao gồm các cơ quan: Cục Môi trường & Tài nguyên thiên nhiên, Cục Nông nghiệp, Cục Du lịch, Cục Thương mại & Công nghiệp, Cục Ngoại giao [35]. Myanmar là đất nước có nguồn lợi thủy sản tự nhiên phong phú. Theo điều 35- luật thủy sản Myanmar, các loài thủy sản được nuôi trồng và xuất nhập khẩu phải nằm trong danh sách đã được Sở thủy sản Myanmar chấp thuận từ trước [36]. Thái Lan thành lập nhóm công tác về sinh vật ngoại lai do Uỷ ban Quốc gia về môi trường chỉ định để giải quyết các vấn đề liên quan tới các loài nhập nội có ích hoặc xâm hại trên phạm vi quốc gia. Việc nhập khẩu các loài thủy sản cũng được kiểm soát bởi Bộ Thương mại. Trong Kế hoạch hành động và Chiến lược quốc gia về ĐDSH 1996 - 2001 và 2002 - 2006, Thái Lan cũng đưa vấn đề quản lý và phòng ngừa xâm nhập của sinh vật ngoại lai như một chương trình ưu tiên. Hiện nay Thái Lan cũng đang tiến hành các điều tra nghiên cứu về nhóm sinh vật nhập 9 nội có tác động tiêu cực tới ĐDSH và nguồn lợi thuỷ sản, áp dụng các biện pháp quản lý và phòng ngừa [27]. Ở Trung Quốc, việc quảng bá về các giống cá ngoại lai bắt đầu từ năm 1964 và càng được chính phủ ủng hộ và tăng cường đẩy mạnh khoảng từ năm 1991. Đầu tiên người nông dân được khuyến khích nhâp nội nhiều loài cá có giá trị kinh tế, khoa học. Sau một thời gian, họ đã nhận ra rằng, việc nhập nội giống loài cá ồ ạt, kiểm soát không chặt chẽ đã dẫn đến nhiều loài lấn át các loài bản địa, phá huỷ hệ sinh thái và tác động xấu đến nghề nuôi truyền thống. Cho đến nay đã có khoảng 50 loài cá nước ngọt và hơn 100 loài cá cảnh ngoại lai có mặt trên đất nước Trung Quốc. Hiện nay Trung Quốc đã có Luật về nhập khẩu sinh vật ngoại lai. Cả nước chỉ có một cơ quan duy nhất là Bộ Nông nghiệp được phép nhập nội các loài cá và cũng chỉ có 03 cơ sở được phép khảo nghiệm loài mới nhập nội [34]. Singapore là quốc gia có diện tích nhỏ, song lại là địa điểm trung chuyển, cho sinh sản cá cảnh để xuất khẩu với số luợng lớn. Là một trong bảy trung tâm xuất khẩu cá cảnh lớn nhất thế giới, họ đã khoanh vùng cho sản xuất giống cá ngoại lai ra nơi riêng biệt với sự kiểm soát chặt chẽ và đã đưa vào Luật cấm phóng sinh các loài cá ngoại lai vào khu bảo tồn. Hình phạt vi phạm hành chính cụ thể là: nếu thả 01 loài cá ngoại lai vào khu bảo tồn bị phạt 500.000 đô la Singapore, còn thả từ 2 loài trở lên sẽ bị phạt tù đến 6 tháng. Chính phủđã vận động người dân phóng sinh những loài cá bản địa ra vực nước tự nhiên [9]. 1.2. Hiện trạng và công tác quản lý các loài cá ngoại lai ở Việt Nam 1.2.1. Hiện trạng các loài các loài cá ngoại lai ở Việt Nam Việt Nam được biết là một quốc gia phong phú, đa dạng về nguồn gen, thành phần loài và các hệ sinh thái nhưng kém bền vững trước sự thay đổi, tác động của các yếu tố môi trường. Và một trong những nguyên nhân đó là sự du nhập của các loài SVNLXH. SVNLXH có thể xâm nhập vào Việt Nam bằng nhiều con đường như nhập khẩu có chủ đích phục vụ công tác nuôi, trồng, sản xuất, kinh doanh hoặc du nhập theo con đường tự nhiên và không chủ đích của con người. 10 Việt Nam đã nhập rất nhiều loài cá ngoại lai như cá trắm cỏ, cá rô phi đen, cá tỳ bà, cá chép các dòng… để phục vụ cho công tác vui chơi giải trí, làm cảnh, sản xuất lương thực thực phẩm… Tuy nhiên, vì nhiều nguyên nhân, một số loài đã thoát khỏi ra môi trường tự nhiên và trở thành mối đe dọa có thể phá vỡ hệ sinh thái các thủy vực bản địa. Trong quá trình hội nhập, việc tìm kiếm giống loài cá có giá trị kinh tế, giải trí và mục đích thương mại khác đã được các cơ quan nghiên cứu, các nhà doanh nghiệp quan tâm, trong đó nhiều loài cá nhập nội đã có giá trị kinh tế và trở thành đối tượng nuôi quan trọng như: cá trắm cỏ, cá mè hoa, cá rôhu, cá mrigan; nhưng cũng có nhiều đối tượng nhập nội chưa được thống kê đánh giá tác động tới ĐDSH và nguồn lợi thuỷ sản. Theo Lê Thanh Lựu và Nguyễn Văn Thanh, hiện nay các loài cá ngoại lai chiếm ưu thế trong nuôi trồng thủy sản nước ngọt, chúng đã đóng góp hơn 50% tổng sản phẩm nuôi trồng thủy sản nước ngọt ở Việt Nam [29]. Theo kết quả nghiên cứu của Cục Bảo vệ Môi trường - Bộ Tài nguyên và Môi trường thì: trong hơn 50 năm qua, đã có 20 loài cá nước ngọt đã nhập vào Việt Nam từ 12 nước trên thế giới và 12 loài cá nước lợ được nhập từ 7 nước trên thế giới. Ngoài ra, Việt Nam còn nhập nhiều loài cá cảnh với mục đích nghiên cứu hoặc làm thức ăn cho tôm giống [7, 9, 10]. Đặc biệt, Cục còn liên kết với Trung tâm nghiên cứu Tài nguyên Môi trường - Đại học Quốc gia Hà Nội in ấn, phát hành các tờ rơi giới thiệu về 6 loài sinh vật lạ xâm lấn nguy hại ở Việt Nam. Năm 2003, Cục xuất bản cuốn sách dịch giới thiệu “Danh sách 100 loài sinh vật xâm hại nguy hiểm nhất trên thế giới”, bao gồm 8 loài vi sinh vật, 4 loài thực vật thuỷ sinh, 31 loài thực vật ở cạn, 8 loài động vật không xương sống ở nước, 18 loài động vật không xương sống ở cạn, 3 loài lưỡng cư, 9 loài cá, 3 loài chim, 2 loài Bò sát và 14 loài thú có mặt tại Việt Nam [7]. Gần đây, ở một số địa phương, có một số loài thủy sinh ngoại lai đã thoát ra các thuỷ vực tự nhiên như: cá cọ bể (Hypostomus punctatus), cá chim trắng toàn thân (Piaractus brachypomus) thoát ra các sông thuộc hệ thống sông ngòi các tỉnh 11
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan