Kiểm chứng lý thuyết khu vực tiền tệ tối ưu
Trường hợp lựa chọn chế độ tỷ giá cho Việt nam
∗
Lê Hồng Giang†
Ngày 7 tháng 9 năm 2006
Tóm tắt nội dung
Bài viết này thực hiện việc kiểm chứng thực nghiệm bốn tiêu chí của lý thuyết Khu
vực tiền tệ tối ưu (Optimum Currency Area – OCA): tính cứng nhắc danh nghĩa,
tính cứng nhắc thực, mức độ mở cửa, và tính bất cân xứng của các cú sốc bên ngoài.
Bài viết này sử dụng phương pháp mô phỏng để kiểm chứng, với lập luận rằng các
nghiên cứu khác sử dụng phương pháp kiểm chứng kinh tế lượng có thể bị sai lệch
vì hai nguyên nhân thiết kế sai mô hình kinh tế lượng và bỏ qua đặc điểm nội sinh
của vấn đề nghiên cứu. Bài viết cũng trình bày một ứng dụng của phương pháp mô
phỏng này để phân tích các cơ chế tỷ giá hối đoái khác nhau cho Việt Nam.
Thuật ngữ then chốt: OCA, Chế độ tỷ giá, CGE
∗
Bài viết này được chuẩn bị cho buổi thuyết trình tại Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright,
TPHCM, Việt nam. Một phiên bản trước đó của bài viết này đã được trình bày tại Đại học Quốc gia
Australia, tháng 9 năm 2005.
†
Giảng viên, FETP. Email:
[email protected], Tel: 84-8-9325103
1
Giới thiệu
Từ sau bài nghiên cứu đột phá của Mundell (1961), lý thuyết Khu vực Tiền tệ Tối ưu
(Optimum Currency Area – OCA) đã trở thành một lý thuyết chính để: (i) đánh giá khả
năng tồn tại của một khu vực tiền tệ chung cho một nhóm nước và (ii) chọn một cơ chế
tỷ giá hối đoái tối ưu cho một quốc gia cụ thể. Lý thuyết này thiết lập một số tiêu chí cho
một khu vực với nhiều quốc gia khác nhau có thể trở thành một OCA. Trong OCA đó các
quốc gia tốt nhất là dùng chung một đồng tiền do một cơ quan tiền tệ duy nhất quản lý,
và đồng tiền đó cần được thả nổi đối với đồng tiền của các OCA khác. Sau Mundell (1961),
nhiều tác giả khác đã đóng góp thêm nhiều phát triển cho lý thuyết OCA. Trên phương
diện lý thuyết, McKinnon (1963), Kenen (1969), Vaubel (1976), Sala-i Martin & Sachs
(1991), Masson & Taylor (1993), Bayoumi (1994), Ricci (1997), Alesina & Barro (2000)
đã đề xuất thêm một số tiêu chí cho OCA và xây dựng một số mô hình toán để minh họa
lý thuyết. Trên phương diện thực nghiệm, Bayoumi & Eichengreen (1996), Bayoumi &
Mauro (1999), Velasco (2000), de Brouwer (2001), Wyplosz (2001) cùng nhiều người khác
đã vận dụng lý thuyết OCA cho châu Âu và Đông Á để đánh giá khả năng tồn tại của
một đồng tiền chung trong các khu vực này hay các hình thức tỷ giá hối đoái khác cho
từng nước hay nhóm nước trong khu vực.
Trong số các nghiên cứu thực nghiệm về lý thuyết OCA, một số tác giả đã kiểm chứng các
tiêu chí OCA bằng phương pháp kinh tế lượng (Heller 1978, Holden, Holden & Suss 1979,
Savvides 1990, Rizzo 1998, Berger, Sturm & de Haan 2000, von Hagen & Zhou 2002). Tất
cả các nghiên cứu này đều sử dụng số liệu của nhiều quốc gia khác nhau để chạy hồi qui
các cơ chế tỷ giá hối đoái hiện tại theo các biến số kinh tế khác. Mặc dù các nghiên cứu
này rất chặt chẽ về mặt số liệu và kỹ thuật tính toán, chúng đều mắc phải hai vấn đề về
phương pháp luận. Thứ nhất, khi đặt biến cơ chế tỷ giá hối đoái vào vế trái của các mô
hình kinh tế lượng, các tác giả này giả định rằng việc chọn lựa cơ chế tỷ giá hối đoái là
một biến nội sinh được xác định theo các yếu tố kinh tế khác. Trên thực tế có một quan
điểm (Goodhard 1995) cho rằng cơ chế tỷ giá hối đoái hoàn toàn được xác định bên ngoài
phạm vi tính toán về mặt kinh tế, mà chỉ bởi các yếu tố khác như chính trị trong trường
hợp của Liên minh Tiền tệ châu Âu (EMU). Ngay cả nếu không quá cực đoan như vậy,
hầu hết các nhà kinh tế học cũng sẽ đồng ý rằng việc chọn lựa cơ chế tỷ giá hối đoái là
một quyết định chính sách có tính ngoại sinh. Cho dù các yếu tố kinh tế có ảnh hưởng
đến quyết định chọn lựa cơ chế tỷ giá hối đoái, người ta cần phải xây dựng một lý thuyết
về hành vi của những người đưa ra quyết định để nội sinh hóa việc chọn lựa cơ chế tỷ giá
(để có thể để nó sang vế trái của mô hình).
Thứ hai, vì OCA là một lý thuyết chuẩn tắc, những yếu tố kinh tế ảnh hưởng đến việc
chọn lựa cơ chế tỷ giá hối đoái về mặt lý thuyết phải là các yếu tố có trước khi cơ chế
tỷ giá hối đoái được xác lập. Trong khi đó, toàn bộ số liệu sử dụng trong các nghiên cứu
thực nghiệm hiện thời đều là số liệu sau khi cơ chế tỷ giá đã được thực hiện. Tạm gác qua
một bên khả năng các nhà hoạch định chính sách có thể chọn lựa một cơ chế sai lầm, mà
điều này xem ra rất có thể đúng bởi khủng hoảng tỷ giá hối đoái khá phổ biến trên thế
giới, rõ ràng một cơ chế tỷ giá nếu được chọn sẽ ảnh hưởng đến môi trường kinh tế và các
biến số kinh tế quan sát được. Đây là vấn đề nội sinh mà Frankel & Rose (1998) đã chỉ
1
ra và nó sẽ làm giảm đáng kể sức mạnh của các phép kiểm chứng kinh tế lượng. Người ta
có thể cố gắng cứu vãn vấn đề này bằng cách sử dụng số liệu ngay trước khi chuyển đổi
cơ chế tại mỗi nước. Tuy nhiên, phương pháp này sẽ có một khó khăn khác; đó là khoảng
thời gian giữa các lần chuyển đổi cơ chế khác nhau tại các nước khác nhau có thể quá
xa đến mức việc so sánh số liệu của các nước khác nhau ở các thời điểm khác nhau trở
nên vô nghĩa. Thêm vào đó, một số nghiên cứu đặt ra vấn đề về “nỗi e sợ thả nổi” (Calvo
& Reinhart 2000), cho rằng ở nhiều nước mặc dù cơ chế tỷ giá được tuyên bố là thả nổi
nhưng thực tế vẫn là cố định. Những mô hình kinh tế lượng sử dụng các định nghĩa về
cơ chế tỷ giá chính thức so với thực tế có thể dẫn đến khác biệt lớn cho các kết quả kiểm
chứng. Đáng tiếc là chưa có sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu về định nghĩa nào nên
được sử dụng.
Để tránh những vấn đề này trong việc kiểm chứng lý thuyết OCA, bài viết này đề suất
một phương pháp luận khác và sử dụng số liệu thực tế từ Việt Nam để thực hiện phép
kiểm chứng. Ngoài mối quan tâm riêng của tác giả đối với nền kinh tế Việt Nam, đất nước
này còn có một số đặc điểm kinh tế giúp cho việc kiểm chứng lý thuyết OCA trở nên dễ
dàng hơn. Thứ nhất, Việt Nam có tính cứng nhắc danh nghĩa và tính cứng nhắc thực cao
vì đất nước đang trên đường chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường. Thứ
hai, đó là một nền kinh tế rất nhỏ và mở cửa trong một khu vực năng động nhất của thế
giới. Vì thế, cơ chế tỷ giá hối đoái sẽ rất quan trọng đối với thành quả kinh tế của Việt
Nam. Cho dù bài viết này hướng tới Việt Nam một cách cụ thể, nhưng phương pháp luận
sử dụng ở đây có thể được ứng dụng cho một quốc gia bất kỳ với những cơ chế tỷ giá hối
đoái khác.
Bài viết này có cơ cấu như sau. Phần kế tiếp sẽ phác thảo một phương pháp khác ngoài
kỹ thuật kiểm chứng kinh tế lượng truyền thống để kiểm chứng lý thuyết OCA. Phần tiếp
theo sẽ mô tả ngắn gọn cơ cấu của mô hình lý thuyết và thuật toán giải. Cuối cùng là
phần trình bày kết quả của phép kiểm chứng và kết luận.
2
Phương pháp luận
Có hai phương pháp thực nghiệm chính trong kinh tế học. Phương pháp truyền thống sử
dụng các kỹ thuật kinh tế lượng để ước lượng từ số liệu thực tế các thông số của một
phương trình hay một hệ phương trình đại diện cho một lý thuyết kinh tế nào đó. Sau đó,
các thông số đã được ước lượng sẽ được sử dụng để kiểm chứng một giả thiết (lý thuyết)
hoặc để dự báo/mô phỏng tương lai hay các tình huống giả định. Phương pháp này rất
chặt chẽ xét trên cơ sở thống kê. Nó cũng tương thích với quan điểm khoa học thực chứng
rất phổ biến: triển khai một lý thuyết trừu tượng rồi xác nhận lý thuyết đó bằng số liệu
thực tế. Tuy nhiên, trong kinh tế học, phương pháp luận này có hai nhược điểm. Thứ
nhất, số liệu kinh tế không có nhiều, đặc biệt là số liệu phù hợp trực tiếp với một lý thuyết
trừu tượng nhất định. Kết quả là, các mô hình kinh tế lượng thường rất hạn chế về số biến
số, phương trình, và bình diện thời gian (số thời đoạn, độ trễ, độ dẫn). Vì thế, thật khó
mà biến đổi toàn bộ một lý thuyết kinh tế trừu tượng thành một mô hình kinh tế lượng
để kiểm chứng hay mô phỏng mà thường phải giảm bớt số biến và số phương trình. Nhược
2
điểm thứ hai mà nhiều người biết đến dưới tên gọi “Phê phán Lucas” (Lucas, 1973), đó là
khi phương pháp này được sử dụng để dự báo hay mô phỏng. Sự phê phán này rất đơn
giản nhưng đầy sức thuyết phục: các mô hình kinh tế lượng sau khi đã được ước lượng chỉ
phản ánh quá khứ đã xảy ra, vì thế không thể sử dụng để dự báo cho tương lai hay các
tình huống giả định khác chưa thực sự xảy ra.
Hướng thứ hai trong kinh tế thực nghiệm là phương pháp căn chỉnh mô hình (calibration
methodology). Phương pháp này chỉ sử dụng một số dữ liệu giới hạn để “căn chỉnh” một
lý thuyết trừu tượng, nghĩa là gán những giá trị có ý nghĩa nhất hay được nhất trí nhất
(về mặt lý thuyết hay thực nghiệm) cho các thông số của mô hình lý thuyết để mô hình
phản ánh sát thực tế nhất. Sau đó, mô hình định lượng này có thể được sử dụng để dự
báo hay mô phỏng bằng cách thay đổi các thông số hay các biến ngoại sinh của mô hình
để minh hoạ các tình huống mong muốn. Phương pháp này khắc phục hai nhược điểm
của phương pháp đầu tiên, nhưng nó lại có những bất lợi khác. Nhược điểm quan trọng
nhất của nó là nó thiếu nền tảng thống kê và do đó người ta không thể đánh giá sự chắc
chắn của mô hình và độ tin cậy của các kết quả. Đã có những nỗ lực đánh giá “độ nhạy”
của các thông số mô hình và “khoảng tin cậy” của các kết quả của một mô hình căn chỉnh
trên cơ sở thống kê (Arndt & Perason 1998, Wilcoxen 2004). Tuy nhiên phương pháp này
vẫn đang bị chỉ trích rộng rãi vì thiếu sự chặt chẽ về mặt thống kê và quá chủ quan.
Bất chấp những phê phán nói trên, phương pháp căn chỉnh đã được sử dụng trong nhiều
lĩnh vực kinh tế học. Một trong những ứng dụng phổ biến nhất của phương pháp này là
mô hình cân bằng tổng thể khả tính (computable general equilibrium, CGE); kỹ thuật
này đã được sử dụng rộng rãi và thành công trong những vấn đề kinh tế vĩ mô như
ngoại thương, thuế khoá, việc làm, và phân phối thu nhập. Cũng có một vài tác giả sử
dụng phương pháp này trong lĩnh vực lý thuyết OCA và chọn lựa cơ chế tỷ giá hối đoái
(Siriwardana 1997, McKibbin & Bok 1998, Bacchetta & van Wincoop 2001, McKibbin &
Le 2004)1 . Sử dụng kỹ thuật CGE để tìm hiểu lý thuyết OCA là một cách rất tốt để tránh
hai khó khăn nói ở trên của phương pháp kiểm chứng kinh tế lượng. Các cơ chế tỷ giá
hối đoái khác nhau có thể được thực hiện như những tình huống giả định khác nhau cho
một nền kinh tế mà không cần dựa vào các số liệu hậu suy. Chúng cũng có thể được định
nghĩa một cách rõ ràng để tránh sự pha tạp giữa các định nghĩa chính thức với định nghĩa
thực tế. Bằng cách này, chọn lựa cơ chế tỷ giá hối đoái được xử lý như một biến số chính
sách ngoại sinh và các thông số khác của mô hình có thể được kiểm soát để duy trì điều
kiện các yếu tố khác không thay đổi khi so sánh giữa các cơ chế tỷ giá.
Để khai thác các ưu điểm của phương pháp căn chỉnh, bài viết này sẽ sử dụng phương
pháp này nhằm thực hiện việc kiểm chứng lý thuyết OCA. Cụ thể, một mô hình CGE
động của Việt Nam sẽ được phát triển và căn chỉnh cho mục đích này. Mô hình là một
phần trong phiên bản 62g của phần mềm G-Cubed của McKibbin & Wilcoxen (1999). Mô
hình đa khu vực này đặc biệt phù hợp để khảo sát cơ chế tỷ giá hối đoái vì nó cho phép
ta xem xét một đất nước trong bối cảnh khu vực và quốc tế, trong đó chính sách tỷ giá
hối đoái có một vai trò quan trọng. Sau khi xây dựng mô hình, một số mô phỏng sẽ được
thực hiện cho các tình huống khác nhau tiêu biểu cho các tiêu chí khác nhau của lý thuyết
1
Một số tác giả khác cũng sử dụng phương pháp căn chỉnh cho các mô hình nhỏ hơn để kiểm định lý
thuyết OCA và chọn lựa cơ chế tỷ giá hối đoái (Monacelli 2004).
3
OCA. Kết quả mô phỏng sẽ được đánh giá so với những gì được dự đoán qua lý thuyết
OCA. Một tiêu chí của lý thuyết OCA sẽ được xem là “được xác nhận qua kiểm chứng”
nếu kết quả mô phỏng hỗ trợ cho dự đoán của lý thuyết. Bảng 1 trình bày tóm tắt các
tiêu chí OCA sẽ được kiểm chứng.
Bảng 1: Các tiêu chí OCA
Các tiêu chí
Mức độ
Cơ chế được ưa chuộng
Cứng nhắc danh nghĩa
Cao
Thấp
Linh hoạt
Cố định
Cứng nhắc thực (Lao động và vốn)
Cao
Thấp
Linh hoạt
Cố định
Độ mở của nền kinh tế
Thấp
Cao
Cố định
Linh hoạt
Bất cân xứng của các cú sốc
Cao
Thấp
Linh hoạt
Cố định
Đây là những tiêu chí được kiểm chứng và được tham khảo nhiều nhất trong các nghiên
cứu thực nghiệm về lý thuyết OCA2 . Phép kiểm chứng sẽ xác định phản ứng của nền
kinh tế Việt Nam trước một vài cú sốc dưới hai cơ chế tỷ giá hối đoái khác nhau. Theo
Mundell (1961), cơ chế tối ưu là cơ chế làm cho nền kinh tế ổn định hơn về sản lượng,
lạm phát, và việc làm. Ngoài ra, người ta cũng có thể xác định sự tối ưu theo mức phúc
lợi của dân chúng, mà những yếu tố này có thể được đo lường một cách gián tiếp thông
qua tiêu dùng thực của các hộ gia đình. Trước khi xem xét kỹ hơn các cú sốc và cách đo
lường tình trạng tối ưu, ta cần xem xét mô hình lý thuyết của nền kinh tế Việt nam kỹ
hơn ở phần tiếp theo.
3
Mô hình lý thuyết
3.1
Mô hình
Sản xuất
Đây là một mô hình cân bằng tổng quát động và đa khu vực, với bốn khu vực (Việt Nam,
Hoa Kỳ, phần còn lại của OECD, và phần còn lại của thế giới) và sáu ngành sản xuất
(năng lượng, khoáng sản, nông nghiệp, công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, và dịch vụ).
2
Hai tiêu chí khác về đa dạng kinh tế và cơ chế ngân sách liên bang (Kenen 1969, Sala-i Martin &
Sachs 1991) không được kiểm chứng trong bài viết này vì tiêu chí đầu không được tất cả các nhà kinh
tế nhất trí, còn tiêu chí sau không áp dụng được cho Việt Nam và phần lớn các nước trên thế giới trong
điều kiện chính trị và quốc tế hiện tại.
4
Ngoài sáu ngành chính còn có hai ngành sản xuất vốn cố định cho doanh nghiệp (ngành
Y) và sản xuất tài sản cố định cho hộ gia đình (ngành Z). Trong mỗi khu vực, tổng sản
lượng mỗi hàng hoá i được định nghĩa là:
Yi = Ci + Ii + Gi + Xi + Vi +
6
X
Zji + ZY i
(1)
j=1
trong đó, Ci là tiêu dùng hàng hoá i của các hộ gia đình, Ii là đầu tư gộp của ngành sản
xuất i, Gi là tiêu dùng hàng hoá i của chính phủ, Xi là tổng xuất khẩu hàng hoá i, Vi là
thay đổi hàng tồn kho của ngành i, Zji là nguyên liệu đầu vào của ngành i đối với hàng
hoá j. Tổng cung hàng hoá i là sự kết hợp theo dạng CES giữa sản lượng trong nước của
ngành i và tổng nhập khẩu hàng hoá i từ các khu vực khác. Ở đây, giả định Armington
được áp dụng:
σ σ−1
1
σ1 −1
σ1 −1
1
σ1
σ1
M
D
(2)
+ δi IMPi
Yi = δi Qi
trong đó Qi là sản lượng nội địa của ngành i, IM Pi là tổng nhập khẩu hàng hoá i mà
cũng là kết hợp theo dạng CES của nhập khẩu hàng hoá i từ các khu vực khác. Mỗi ngành
có một hàm sản xuất CES từ bốn yếu tố đầu vào: vốn (K), lao động (L), năng lượng (E),
và nguyên vật liệu (M):
"
Qi = Ai
X
σp −1
σp
p
# σ σ−1
p
δj xj
(3)
j=KLEM
Hai yếu tố đầu vào sau (năng lượng và nguyên vật liệu) là sự kết hợp CES từ sáu hàng
hoá cơ bản. Các doanh nghiệp trong từng ngành sẽ tối đa hoá lợi nhuận, phụ thuộc vào
điều kiện ràng buộc về tính cứng nhắc của vốn cố định:
Z
M ax
∞
[(1 − τ )(Pi Qi − W L − PE xE − PM xM ) − (1 − τI )PI I] e−(Rs −n) ds
(4)
t
Phụ thuộc vào điều kiện
dKi
= Ji − (δi + n)Ki
dt
trong đó, τ là thuế suất thu nhập công ty, taui là khấu trừ thuế đầu tư (investment tax
credit), Ji là đầu tư ròngR vào ngành i, δi là tỷ lệ khấu hao trong ngành i, n là tỷ lệ tăng
s
trưởng dân số, và Rs = t r(ν)dν. Cầu đầu tư gộp trong từng ngành là một hàm tuyến
tính theo đầu tư ròng cộng với chi phí đầu tư dạng hàm bậc hai (McLaren 1990):
Ii = Ji +
5
Φi Ji2
2 Ki
(5)
Giải bài toán liên thời gian (4) cùng với phương trình (5) ta được cầu của từng ngành sản
xuất đối với L, E, M:
−σp
Pj
σp −1
j = L, E, M
(6)
xij = δj Ai Qi
Pi
Và cầu đầu tư ròng trong ngành i:
Ji =
1 2
(q − 1)Ki
2Φi i
trong đó qi là giá trị Tobin Q của ngành i và được xác định bởi:
Z ∞
2
∂Qi
I Φi Ji
(1 − τ )Pi
+ (1 − τI )P
e−(Rs +δi ) ds
qi =
∂Ki
2 Ki2
t
(7)
(8)
Theo Hayashi (1979), một số doanh nghiệp thường nhìn về quá khứ và họ không tuân theo
qui luật đầu tư (7) trong đó sử dụng giá trị Tobin Q có tính chất nhìn về tương lai tại
thời điểm t. Thay vì thế, họ thực hiện quyết định đầu tư dựa trên giá trị Tobin Q trước
đó. Giả định ξ phần trăm trong ngành i là những doanh nghiệp nhìn về tương lai và tỷ lệ
phần trăm còn lại 1 − ξ là những doanh nghiệp nhìn về quá khứ. Hàm đầu tư hiệu chỉnh
trở thành:
1 2
1 2
(qt − 1)Ki + (1 − ξ)
(q − 1)Ki
(9)
Ii = ξ
2Φi
2Φi t−1
Ngành sản xuất vốn cố định cho doanh nghiệp
Hàng hoá đầu tư I được sản xuất ra bởi ngành thứ bảy, tiêu biểu cho cột đầu tư trong
bảng nhập lượng-xuất lượng (IO table) của mỗi nền kinh tế. Ngành này cũng có công nghệ
CES và sử dụng vốn, lao động, năng lượng và các nguyên vật liệu công nghiệp chế tạo
(K, L, E, M ) từ 6 ngành kia. Do đó, cầu các yếu tố sản xuất của ngành này cũng giống
hệt cầu yếu tố sản xuất của các ngành sản xuất hàng hóa kia.
Cung lao động
Cung lao động được giả định là hoàn toàn không co dãn trong dài hạn, dễ dàng lưu chuyển
giữa các ngành trong từng khu vực, nhưng hoàn toàn không lưu chuyển giữa các khu vực.
Do đó, tiền lương đồng nhất giữa các ngành trong từng khu vực, nhưng khác biệt nhau
giữa các khu vực. Trong dài hạn, tiền lương điều chỉnh để cân bằng thị trường lao động,
nhưng trong ngắn hạn, tiền lương được xác định bởi mô hình hợp đồng tính lương theo
hai giai đoạn liên tiếp:
e α
1−α β
Pt+1
Pt
Lt
Wt = Wt−1
(10)
Pt
Pt−1
L̄
Hộ gia đình
Mỗi hộ gia đình tối đa hoá hàm thỏa dụng:
Z ∞
Ut =
ln(Cs )e−(θ−n)(s−t) ds
t
6
(11)
với điều kiện ràng buộc:
Z
∞
Cs e−(Rs −n)(s−t) ds = Ht + Ft
(12)
t
trong đó Cs là hàm kết hợp CES của hộ gia đình vào thời điểm s, θ là suất chiết khấu
của hộ gia đình. Ht là tài sản con người của hộ gia đình và Ft là tài sản tài chính vào thời
điểm t, được xác định như sau:
!
#
"
Z ∞
6
X
Ws
Y
h
G
(13)
(1 − τ1 )
Ls + T Rs e−(Rs −n)(s−t) ds
Ht =
Ls + L s +
Ps
t
h=1
6
X
M 2t
Ft =
+ Bt + At +
qti Kti
Pt
i=1
(14)
trong đó T Rs là chuyển giao ròng từ chính phủ sang hộ gia đình vào thời điểm s. M 2t
là số dư tiền tệ vào thời điểm t, Bt là tổng trái phiếu chính phủ, At là tổng tài sản nước
ngoài ròng, q i K i là giá trị trên thị trường cổ phiếu của ngành i. Giải hệ phương trình (11)
và (12) ta có phương trình Euler cho các hộ gia đình:
Ċs
= rs − θ
Cs
(15)
Lấy tích phân phương trình Euler (15) trong toàn bộ thời gian sống của mỗi hộ gia đình,
ta được tổng tiêu dùng tại một thời điểm bất kỳ có giá trị phù hợp với Giả thiết Thu
nhập Thường xuyên (Permanent Income Hypothesis):
Ct =
1
(θ − n)(Ft + Ht ) ∀t
Pt
(16)
Tuy nhiên, dựa vào bằng chứng của Campbell và Mankiw (1990) và Hayashi (1982), người
ta giả định rằng một số người tiêu dùng chỉ có tầm nhìn ngắn hạn trong quyết định tiêu
dùng của họ, nghĩa là họ dựa vào kinh nghiệm khi ra quyết định tiêu dùng: tiêu dùng
một tỷ lệ cố định γ trong thu nhập sau thuế IN C. Ta ký hiệu tỷ lệ người tiêu dùng bình
thường (có tư duy hợp lý) là ψ, tổng chi tiêu tiêu dùng yt (tổng tiêu dùng danh nghĩa) là:
yt = ψ(θ − n)(Ft + Ht ) + (1 − ψ)γIN Ct
(17)
Chính phủ
Chi tiêu của chính phủ vào hàng hoá và dịch vụ được giả định là ngoại sinh và theo những
tỷ lệ cố định cho từng hàng hoá. Chi tiêu của chính phủ bao gồm thanh toán nợ chính
phủ, khấu trừ thuế đầu tư, và chuyển giao cho hộ gia đình. Thu chính phủ hình thành từ
thuế (thuế bán hàng, thuế thu nhập công ty và thuế thu nhập cá nhân) và từ việc bán
trái phiếu chính phủ mới. Lưu ý rằng cho dù các cá nhân sống một cách vô hạn, và họ có
khả năng dự báo chính xác tương lai, những người tiêu dùng mà ra quyết định dựa vào
kinh nghiệm trong phương trình (17) sẽ làm cho mô hình sai lệch với nguyên tắc tương
7
đương Ricardo cổ điển, nghĩa là việc chọn lựa tài trợ thâm hụt ngân sách thông qua thuế
hay trái phiếu sẽ có ảnh hưởng thực đối với tổng tiêu dùng của hộ gia đình trong ngắn
hạn. Ràng buộc ngân sách chính phủ là:
Ḃt = Dt = (rt − n)Bt + Gt + T Rt − Tt
(18)
trong đó B là trữ lượng nợ (trái phiếu chính phủ), D là thâm hụt ngân sách, T R là chuyển
giao cho hộ gia đình, G là tổng chi tiêu chính phủ, và T là tổng thu thuế trừ đi khấu trừ
thuế đầu tư. Cho dù nguyên tắc tương đương Ricardo không đúng trong trường hợp này,
chúng ta vẫn giả định không có trò chơi Ponzi đối với sự tích luỹ nợ chính phủ, nghĩa là:
lim Bs e−(r−n)(s−t) = 0
s→∞
(19)
Điều này cho phép ta lấy tích phân phương trình ràng buộc ngân sách chính phủ (18) để
tìm điều kiện cho trữ lượng nợ chính phủ hiện tại:
Z ∞
Bt =
(Ts − Gs − T Rs )e−(Rs −n)(s−t) ds
(20)
t
Ngoại thương và Dòng vốn
Tổng nhập khẩu hàng hóa i có thể tính được từ phương trình (2). Tổng nhập khẩu này
được phan tách theo nguồn nhập bằng hàm CES. Tổng xuất khẩu hàng hóa i của mỗi
nước là tổng cầu nhập khẩu hàng hóa đó từ các nước còn lại. Giá nhập khẩu của mỗi loại
hàng hóa trong mỗi nước là giá xuất khẩu ở nước xuất nhân với tỷ giá hối đoái tương
đương cộng với thuế nhập khẩu:
uj
j
u
PiM
= (1 + τiM
)Eju PiX
(21)
uj
u
trong đó PiM
là giá nhập khẩu hàng hoá i từ khu vực j vào khu vực u, τiM
là thuế nhập
u
khẩu hàng hoá i trong khu vực u, Ej là tỷ giá hối đoái của đồng tiền u so với đồng tiền
j
j, và PiX
là giá xuất khẩu hàng hoá i trong khu vực j.
Tình trạng mất cân đối cán cân thương mại được bù trừ bằng dòng vốn lưu chuyển giữa
các khu vực. Mỗi khu vực được giả định là tích luỹ tài sản nước ngoài theo tỷ lệ cố định
với năm cơ sở. Vốn được giả định là lưu chuyển tự do giữa các khu vực, vì thế sinh lợi từ
vốn tại các khu vực khác nhau phải tuận theo qui luật ngang bằng lãi suất do kinh doanh
hưởng chênh lệch:
E˙ j
(22)
ik + µk = ij + µj + kj
Ek
trong đó ik là lãi suất khu vực k, µk là phí đền bù rủi ro khu vực k, và E jk là tỷ giá hối
đoái giữa các đồng tiền của hai khu vực.
3.2
Thuật toán giải
Mô hình được thực hiện trong gói phần mềm G-Cubed và được căn chỉnh bằng cơ sở dữ
liệu GTAP. Tất cả các thông số được xác định để làm cho mô hình tái tạo số liệu năm
8
cơ sở 1996. Sau đó bài toán sẽ được giải bằng thuật toán McKibbin, thay thế đệ qui trở
về từ trạng thái dừng các biến ngoại sinh (exogenous) và biến trạng thái (state) để tìm
được công thức của các biến đồng trạng thái (co-state) ở thời đoạn hiện tại. Nếu tất cả
các nghiệm đặc tính (giá trị eigen) của hệ thống nằm trong đường tròn đơn vị, thuật toán
sẽ tìm ra một đường đi ổn định của hệ thống dưới dạng tuyến tính:
ytc = H1 yts + H2 Xt + Ct
(23)
trong đó ytc là các biến đồng trạng thái tại thời điểm t, yts là biến trạng thái tại thời điểm
t, Xt là các biến ngoại sinh tại thời điểm t, và Ct là hằng số đệ qui. Ngoài qui tắc cho các
biến đồng trạng thái, thuật toán McKibbin còn có thể giải ra một qui tắc tuyến tính của
một hệ biến kiểm soát được sử dụng để điều chỉnh một lộ trình ổn định nhằm đạt được
các giá trị mong muốn cho một số biến nội sinh mục tiêu:
uct = Γ1 yts + Γ2 Xt + Dt
(24)
Đặc điểm này của thuật toán làm nó hết sức linh hoạt về phương diện thực hiện các cơ
chế tỷ giá hối đoái và các chính sách tiền tệ khác nhau. Nó cũng giúp giải thích các phản
ứng tối ưu của chính quyền khi họ muốn đạt được mục tiêu về các biến số kinh tế nhất
định. Sau khi tìm được các qui tắc này, ứng với giá trị của các biến trạng thái vào năm
cơ sở và toàn bộ thông tin về các cú sốc ngoại sinh tương lai, ta sẽ dễ dàng tính được lộ
trình ổn định đặc thù hướng tới trạng thái dừng mới.
4
4.1
Kiểm chứng lý thuyết OCA
Test Design
Việc kiểm chứng sẽ được thực hiện theo bốn phần riêng biệt cho bốn tiêu chí OCA (tính
cứng nhắc danh nghĩa, tính cứng nhắc thực, độ mở cửa, và tính bất cân xứng của các cú
sốc). Trong mỗi phần của ba phần đầu tiên, hai chuỗi mô phỏng đồng nhất sẽ được thiết
kế cho một cơ chế tỷ giá hối đoái cố định và một cơ chế tỷ giá linh hoạt. Mỗi chuỗi bao
gồm hai nhóm cú sốc đơn vị: các cú sốc danh nghĩa và các cú sốc thực. Nhóm danh nghĩa
bao gồm cú sốc cầu tiền, đền bù rủi ro tỷ giá hối đoái, và cú sốc rủi ro thị trường cổ phiếu.
Nhóm cú sốc thực bao gồm cú sốc tổng cầu và các cú sốc về năng suất cho cả sáu ngành
sản xuất.
9
Bảng 2: Các cú sốc dùng cho mô phỏng
Nhóm
Danh nghĩa
Thực
Cú sốc
Loại
Đền bù rủi ro tỷ giá hối đoái
Giá trị thị trường cổ phiếu
Cầu tiền
Tổng tiêu dùng
Năng suất – Năng lượng
Năng suất – Khoáng sản
Năng suất – Nông nghiệp
Năng suất – Công nghiệp nặng
Năng suất – Công nghiệp nhẹ
Năng suất – Dịch vụ
Cầu/Cung
Cầu/Cung
Cầu
Cầu
Cung
Cung
Cung
Cung
Cung
Cung
Tất cả các cú sốc trong danh mục trên đều có cùng phạm vi tác động như sau, hoặc
tác động đến tất cả các quốc gia trong mô hình (cân xứng) hoặc chỉ tác động đến một đất
nước riêng lẻ (bất cân xứng):
Bảng 3: Phạm vi tác động của các cú sốc
Phạm vi tác động
Ký hiệu Tính cân xứng
Toàn cầu
Việt Nam
Hoa Kỳ
Phần còn lại của OECD
Phần còn lại của thế giới
GLB
VIE
USA
OEC
LDC
Cân xứng
Bất cân xứng
Bất cân xứng
Bất cân xứng
Bất cân xứng
Trong mỗi phép mô phỏng, các thông số phù hợp của mô hình sẽ nhận hai giá trị khác
nhau sao cho mỗi tiêu chí cũng có hai trường hợp cực đoan phân biệt (ví dụ, cứng nhắc
danh nghĩa nhiều hơn so với ít cứng nhắc hơn, mở cửa nhiều hơn so với ít mở cửa hơn).
Các giá trị của thông số được chọn lựa cẩn thận sao cho hai trường hợp cực đoan đủ cách
biệt nhau để phản ánh sự khác biệt trong các kết quả mô phỏng. Nhưng các giá trị đó
cũng phải nằm trong một phạm vi hợp lý để duy trì sự hội tụ của thuật toán mô hình.
Sau đó, phương sai của 14 biến số kinh tế then chốt sẽ được ghi nhận trong hai trường
hợp cực đoan và tỷ số của hai phương sai của cùng một biến sẽ được tính. Như vậy, nếu
tỷ số này lớn hơn một, phương sai của biến số đó trong trường hợp cực đoan đầu tiên sẽ
lớn hơn so với trong trường hợp cực đoan thứ hai ứng với cùng một cú sốc và cùng một cơ
chế tỷ giá. Sau đó, các tỷ số trong hai cơ chế tỷ giá sẽ được so sánh để xem cơ chế nào bị
10
bất lợi nhiều hơn khi tiêu chí OCA được đưa vào một trường hợp cực đoan ứng với cùng
một cú sốc. Xem xét các tỷ số này đối với tất cả các cú sốc và so sánh với dự đoán OCA
cho cùng một tiêu chí, ta có thể kết luận rằng tiêu chí đó được hỗ trợ bởi mô hình Việt
Nam được “căn chỉnh” theo số liệu 1996.
Đối với tiêu chí thứ tư, việc kiểm chứng được giới hạn trong những cú sốc cung mà thôi,
và phạm vi tác động của cú sốc được giới hạn trong Việt Nam và Hoa Kỳ. Lý do hạn chế
là vì cần phải có số lượng mô phỏng lớn hơn nhiều để kiểm chứng tính bất cân xứng, do
đó về mặt thực hành không thể thực hiện được việc kiểm chứng với toàn bộ các cú sốc.
Hơn nữa, khái niệm tính bất cân xứng của cú sốc thích hợp với hai lĩnh vực thực khác
nhau tại hai đất nước khác nhau trong mô hình. Các chi tiết của kiểm chứng thứ tư sẽ
được trình bày trong phần 4.5.
4.2
Tính cứng nhắc danh nghĩa
Nguồn gốc chính của tính cứng nhắc danh nghĩa trong mô hình G-Cubed xuất phát từ
phương trình tiền lương tại mỗi nước:
Wt = Wt−1
e
Pt+1
Pt
α
Pt
Pt−1
1−α
Lt
L̄
β
(25)
Tiền lương hiện tại là tiền lương thời đoạn trước được điều chỉnh theo lạm phát kỳ vọng
trong thời đoạn hiện tại (số hạng thứ nhất trong dấu ngoặc), lạm phát trong thời đoạn
trước (số hạng thứ hai), và tính cứng nhắc của thị trường lao động, hay sự chênh lệch so
với trạng thái toàn dụng lao động (số hạng thứ ba). Như vậy, nền kinh tế sẽ có tính cứng
nhắc danh nghĩa nhiều hơn nếu số hạng thứ hai được xem trọng hơn (α nhỏ hơn), nghĩa
là tiền lương được điều chỉnh nhiều hơn theo sự thay đổi mức giá trong thời đoạn trước.
Bất kỳ cú sốc nào trong thời đoạn hiện tại mà làm dịch chuyển cung và cầu trên các thị
trường sản phẩm đều ít có tác động hơn đến tiền lương, vì thế cũng ít có tác động đến
giá sản lượng sau cùng.
Để kiểm tra tiêu chí thứ nhất của lý thuyết OCA, mức độ cứng nhắc danh nghĩa thay đổi
theo sự thay đổi α, ta lấy hai giá trị: α = 0 khi mô hình có tính cứng nhắc danh nghĩa
nhiều nhất xét theo việc điều chỉnh tiền lương, và α = 1 khi mô hình ít cứng nhắc nhất.
Các tỷ số trình bày sẽ được tính bằng cách chia phương sai của trường hợp cứng nhắc
nhiều cho trường hợp cứng nhắc ít. Các kết quả được tóm tắt trong Bảng 4. Bảng này
liệt kê các tỷ số phương sai của bốn chỉ số kinh tế then chốt (GDP, lạm phát, việc làm,
và tiêu dùng của hộ gia đình). Như vậy, nếu một tỷ số trình bày trong bảng lớn hơn 1,
có nghĩa là phương sai tương ứng trong mô phỏng thứ nhất (α = 0) lớn hơn phương sai
trong mô phỏng thứ hai. Do hạn chế về độ dài của bài viết, chỉ có hai cú sốc danh nghĩa
(đền bù rủi ro tỷ giá hối đoái và và cầu tiền) và hai cú sốc thực (cú sốc tổng cầu và cú
sốc cung trong nông nghiệp) được trình bày ở đây. Các kết quả của các cú sốc xuất phát
từ phần còn lại của OECD cũng sẽ không được trình bày trong các bảng để không làm
11
các bảng quá lớn. Toàn bộ các kết quả của tất cả các cú sốc sẽ được tác giả cung cấp khi
có yêu cầu.
Với tính cứng nhắc danh nghĩa nhiều hơn, lý thuyết OCA dự đoán rằng một nền kinh tế
với cơ chế tỷ giá hối đoái cố định sẽ bị thiệt hai nhiều hơn xét theo các biến động kinh tế.
Các kết quả trong Bảng 4 xác nhận lập luận này theo GDP cho tất cả các loại sốc. Bất
luận cú sốc là thực hay là danh nghĩa, cân xứng hay có tính đặc thù, các tỷ số phương sai
đối với GDP trong cơ chế tỷ giá hối đoái cố định đều nhất loạt lớn hơn so với trong cơ chế
tỷ giá hối đoái linh hoạt. Ngoài ra, chỉ có 5 trường hợp (trong số 15) trong đó GDP của
nền kinh tế dưới cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt thực sự bị thiệt hại khi tính cứng nhắc
danh nghĩa tăng. Trong khi đó, tất cả 15 trường hợp dưới cơ chế tỷ giá hối đoái cố định
đều có tỷ số biến động GDP lớn hơn một.
Bảng 4: Tính cứng nhắc danh nghĩa (α0 = 1, α1 = 0)
Cơ chế tỷ giá cố định
GLB VIE
USA
Cơ chế tỷ giá linh hoạt
LCD
GLB VIE
USA
LCD
0.520
1.295
0.829
0.464
NA
NA
NA
NA
0.501
0.705
0.205
0.500
1.411
2.683
2.647
1.086
0.771
1.503
1.074
0.653
0.696
0.748
0.110
0.734
0.771
1.503
1.074
0.653
0.696
0.748
0.110
0.734
0.524
1.478
1.181
0.442
0.858
1.506
1.225
0.832
Đền bù rủi ro tỷ giá hối đoái
GDP
9.834 9.889
Lạm phát 0.247 0.362
Việc làm
1.517 1.690
Tiêu dùng 7.155 7.366
NA
NA
NA
NA
9.853
0.229
1.498
7.278
0.605
1.415
1.069
0.508
Cú sốc cầu tiền
GDP
9.738 9.040
Lạm phát 0.229 0.012
Việc làm
1.539 1.126
Tiêu dùng 7.144 7.177
9.514
1.079
3.182
4.820
17.013
0.033
1.069
12.821
6.684
3.946
8.423
3.317
Cú sốc tiêu dùng tư nhân
GDP
9.852 10.196
Lạm phát 0.229 0.260
Việc làm
1.498 1.444
Tiêu dùng 7.278 7.533
10.697
0.092
1.298
7.879
11.289
0.037
1.059
7.875
6.748
4.232
7.203
3.861
1.411
2.683
2.647
1.086
Cú sốc cung – nông nghiệp
GDP
9.667 8.024
Lạm phát 0.112 0.104
Việc làm
1.320 1.209
Tiêu dùng 7.092 5.953
11.248
0.011
0.979
7.232
10.424
0.135
1.393
7.390
1.205
2.631
3.110
1.167
12
0.953
2.322
2.073
0.879
Khi tác động đến lạm phát và việc làm, bức tranh gần như ngược lại. Nền kinh tế với tỷ
giá hối đoái linh hoạt bị thiệt hai nhiều hơn trong tất cả các trường hợp xét theo biến
động lạm phát, và khoảng một nửa số trường hợp bị thiệt hại nhiều hơn về việc làm. Điều
này có thể hiểu được vì tiền lương và giá cả càng cứng nhắc, thì biến động về việc làm và
lạm phát càng ít. Tuy nhiên, khi tác động đến tiêu dùng tư nhân, cơ chế tỷ giá linh hoạt
một lần nữa lại tốt hơn trong mọi trường hợp và chỉ có năm trường hợp nền kinh tế chỉ bị
thiệt hại trong số 15 trường hợp khi tính cứng nhắc danh nghĩa gia tăng. Với những kết
quả này, ta có thể yên tâm kết luận rằng tiêu chí thứ nhất của lý thuyết OCA có giá trị,
chí ít trong trường hợp Việt Nam với số liệu 1996.
4.3
Tính cứng nhắc thực
Trong bài báo nguyên thuỷ của Mundell (1961), chỉ có sự lưu chuyển của lao động được
đề cập đến như nguồn gốc của tính cứng nhắc thực. Tuy nhiên, các tác giả sau này
(McKinnon 1963, Kenen 1969) mở rộng tính cứng nhắc thực của Mundell để bao hàm tất
cả các yếu tố sản xuất. Trong mô hình này, có bốn yếu tố sử dụng: K, L, E, M. Vì năng
lượng (E) và nguyên vật liệu (M) được tổng hợp từ sáu hàng hoá của mô hình và mô hình
giả định điều kiện cân bằng thị trường cho tất cả các hàng hoá, cho nên hai yếu tố đầu
vào này không thể là nguồn gốc của tính cứng nhắc thực. Hai yếu tố còn lại sẽ được kiểm
chứng một cách riêng biệt.
Lao động
Trong khi vốn có tính nhắc theo định nghĩa, lao động được giả định là hoàn toàn lưu
chuyển trong mô hình G-Cubed nguyên thuỷ. Để kiểm chứng ảnh hưởng của tính cứng
nhắc của lao động đối với tiêu chí thứ hai của OCA, các phương trình cầu lao động trong
mỗi ngành được điều chỉnh như sau:
−σQ
Wt
+ (1 − ρ)Lt−1
(26)
Lt = ρδL Qt
Pt
Trong đó, Lt là cầu lao động hiện tại, Lt−1 là việc làm thời đoạn trước. Trong một thời
đoạn bất kỳ, các doanh nghiệp trong ngành i chỉ có thể thay đổi ρ phần trăm trong số
việc làm của họ dựa trên điều kiện sản lượng biên của lao động. Họ phải giữ lại 1 − ρ số
việc làm từ thời đoạn trước do đã thỏa thuận với các tổ chức công đoàn hay vì những lý
do khác (ví dụ như chi phí tìm kiếm). Vì thế, đứng trước một cú sốc bên ngoài, các doanh
nghiệp không thể phản ứng ngay tức thời về việc làm được, điều này là nguồn gốc gây ra
tính cứng nhắc thực. Trong bài viết này, ρ có hai giá trị là 0,95 và 0,8. Giá trị sau tiêu
biểu cho trường hợp cứng nhắc thực (về lao động) nhiều hơn. Các kết quả mô phỏng được
tóm tắt trong Bảng 5.
13
Bảng 5: Tính cứng nhắc lao động (ρ1 = 0.8, ρ0 = 0.95)
Cơ chế tỷ giá cố định
Cơ chế tỷ giá linh hoạt
GLB VIE USA LCD
GLB VIE
USA
LCD
0.981
0.976
0.647
0.992
NA
NA
NA
NA
0.983
0.979
0.680
0.991
0.997
0.997
0.930
0.996
0.953
0.924
0.525
0.979
0.998
0.995
1.004
0.999
1.002
0.997
0.936
1.002
1.002
1.000
0.969
1.001
0.999
0.994
0.934
0.999
1.000
0.993
0.846
1.000
Đền bù rủi ro tỷ giá hối đoái
GDP
1.006 1.009 NA
Lạm phát 1.050 1.057 NA
Việc làm
0.988 0.980 NA
Tiêu dùng 1.005 1.008 NA
1.007
1.062
0.985
1.006
0.977
0.974
0.658
0.986
Cú sốc cầu tiền
GDP
1.006 1.003 0.998 1.000
Lạm phát 1.056 1.033 0.995 1.002
Việc làm
0.987 1.003 1.018 0.999
Tiêu dùng 1.005 1.002 0.999 1.000
0.974
0.976
0.666
0.980
Cú sốc tiêu dùng tư nhân
GDP
1.007 1.007 1.007 1.001
Lạm phát 1.062 1.072 1.091 1.020
Việc làm
0.985 0.977 0.989 0.998
Tiêu dùng 1.006 1.006 1.006 1.001
0.983
0.979
0.680
0.991
0.991
0.997
1.087
0.996
Cú sốc cung – nông nghiệp
GDP
1.006 1.003 1.000 1.006
Lạm phát 1.081 1.047 1.001 1.079
Việc làm
0.990 0.995 1.003 0.987
Tiêu dùng 1.006 1.002 1.000 1.006
1.002
0.994
0.854
1.002
0.974
0.984
0.707
0.981
Vốn cố định
Các kết quả cũng nhất loạt xác nhận tiêu chí thứ hai của lý thuyết OCA. Trong mọi
trường hợp, cơ chế tỷ giá hối đoái cố định bị thiệt hại nhiều hơn khi lao động trở nên cứng
nhắc hơn. Hơn nữa, trong cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt, biến động GDP ít hơn khi tính
cứng nhắc thực cao hơn trong hầu hết các trường hợp (13 trong số 15 trường hợp).
Vốn cố định có tính cứng nhắc vì bất kỳ ở thời đoạn nào, các doanh nghiệp không thể
ngay lập tức thay đổi trữ lượng vốn cố định của họ được. Điều này là do phải tốn chi
phí lắp đặt vốn cố định mới, vì thế các doanh nghiệp không thể đầu tư vô hạn bất chấp
mức độ lợi nhuận như thế nào trong tương lai. Chi phí lắp đặt càng lớn, trữ lượng vốn cố
định càng cứng nhắc vì doanh nghiệp phải hạn chế việc đầu tư hơn nữa. Trong mô hình
14
G-Cubed, tính cứng nhắc của vốn cố định còn xuất phát từ một nguồn khác:
qt − 1 qt − 1
qt−1 − 1 qt−1 − 1
It = ξ 1 +
Kt + (1 − ξ) 1 +
Kt
2
φ
2
φ
(27)
Ở bất kỳ thời đoạn nào, cũng có ξ phần trăm doanh nghiệp trong ngành i thực hiện đầu
tư căn cứ theo qui tắc nhìn về tương lai, số doanh nghiệp còn lại sử dụng sản lượng biên
của vốn cố định đã biết trong thời đoạn trước để ra quyết định đầu tư (nhìn về quá khứ).
Như vậy, tỷ lệ những doanh nghiệp nhìn về quá khứ càng nhiều, trữ lượng vốn cố định
của ngành càng cứng nhắc hơn. Để tìm hiểu hai nguồn gây ra tính cứng nhắc của vốn cố
định , ta tiến hành hai thực nghiệm. Trong thực nghiệm đầu tiên, thông số φ liên quan
đến độ lớn của chi phí lắp đặt sẽ có hai giá trị là 2 và 4. Giá trị φ nhỏ hơn tiêu biểu cho
chi phí lắp đặt thấp hơn và trữ lượng vốn cố định ít cứng nhắc hơn.
Bảng 6: Tính cứng nhắc của vốn (φ1 = 4, φ0 = 2)
Cơ chế tỷ giá cố định
GLB
VIE
Cơ chế tỷ giá linh hoạt
USA LCD
GLB VIE
USA
LCD
0.102
1.048
0.095
0.035
NA
NA
NA
NA
0.188
1.114
0.206
0.070
0.871
0.915
0.725
0.738
0.197
0.911
0.247
0.131
0.327
0.204
0.235
0.155
0.604
0.813
0.562
0.744
0.444
0.492
0.416
0.515
0.075
0.112
0.084
0.026
0.743
1.150
0.662
0.326
Đền bù rủi ro tỷ giá hối đoái
GDP
8.874 9.696
Lạm phát 9.327 10.121
Việc làm
9.177 9.915
Tiêu dùng 7.809 8.586
NA
NA
NA
NA
8.630
9.076
8.937
7.605
0.152
1.120
0.147
0.046
Cú sốc cầu tiền
GDP
14.993 13.678
Lạm phát 15.699 15.121
Việc làm
15.293 14.372
Tiêu dùng 12.501 10.662
5.233
8.390
5.294
4.201
3.261
3.585
3.450
2.931
0.093
1.229
0.083
0.015
Cú sốc tiêu dùng tư nhân
GDP
8.631 6.559
Lạm phát 9.077 6.876
Việc làm
8.938 6.787
Tiêu dùng 7.607 5.855
7.586
8.219
7.985
6.454
7.707
8.756
8.323
6.231
0.187
1.114
0.205
0.070
0.364
0.909
0.224
0.250
Cú sốc cung – nông nghiệp
GDP
7.906 15.472
Lạm phát 8.465 16.668
Việc làm
8.269 16.121
Tiêu dùng 6.785 12.347
2.225
2.490
2.396
2.000
10.091
10.758
10.520
8.565
0.356
0.723
0.440
0.488
15
0.137
1.315
0.215
0.032
Bảng 6 trình bày các kết quả mô phỏng trong đó trường hợp ít cứng nhắc là mẫu số. Các
kết quả trong bảng này đều đồng loạt hỗ trợ tiêu chí thứ hai của lý thuyết OCA. Trong
mọi trường hợp, cơ chế tỷ giá hối đoái cố định bị thiệt hại nhiều hơn khi trữ lượng vốn
trở nên cứng nhắc hơn. Trong khi đó, ta quan sát thấy một bức tranh ngược lại dưới cơ
chế tỷ giá hối đoái linh hoạt. Không nơi nào khác hai cơ chế có được những kết quả tương
phản nhau như thế.
Trong thực nghiệm thứ hai, tỷ lệ phần trăm những doanh nghiệp nhìn về tương lai được
gán hai giá trị là 0,6 và 0,15. Giá trị ξ nhỏ hơn tiêu biểu cho tính cứng nhắc nhiều hơn
của trữ lượng vốn.
Bảng 7: Tính cứng nhắc của vốn (ξ1 = 0.15, ξ0 = 0.6)
Cơ chế tỷ giá cố định
Cơ chế tỷ giá linh hoạt
GLB VIE USA LCD
GLB VIE
USA
LCD
1.535
1.005
1.141
1.161
NA
NA
NA
NA
1.635
1.026
1.290
1.189
0.978
0.977
0.906
0.994
1.094
0.989
0.815
0.962
0.844
0.934
0.783
0.793
1.167
1.363
0.736
1.541
1.020
1.203
0.882
1.002
0.956
1.128
1.042
1.358
1.421
1.157
1.089
1.601
Đền bù rủi ro tỷ giá hối đoái
GDP
1.155 1.196 NA
Lạm phát 1.445 1.596 NA
Việc làm
1.128 1.144 NA
Tiêu dùng 1.163 1.203 NA
1.151
1.429
1.117
1.159
1.645
1.020
1.241
1.188
Cú sốc cầu tiền
GDP
1.173 1.075 1.314 0.963
Lạm phát 1.618 1.104 1.686 1.175
Việc làm
1.148 1.082 1.329 0.984
Tiêu dùng 1.184 1.083 1.338 0.975
1.585
0.992
1.212
1.278
Cú sốc tiêu dùng tư nhân
GDP
1.151 1.113 1.092 1.049
Lạm phát 1.430 1.203 0.764 0.902
Việc làm
1.117 1.066 1.042 1.038
Tiêu dùng 1.159 1.120 1.102 1.058
1.635
1.026
1.290
1.188
0.825
1.108
0.658
0.995
Cú sốc cung – nông nghiệp
GDP
1.104 1.155 0.943 1.127
Lạm phát 1.243 1.712 0.717 1.158
Việc làm
1.091 1.150 0.930 1.084
Tiêu dùng 1.112 1.166 0.951 1.136
1.095
1.172
0.928
1.302
16
1.827
1.009
1.314
1.286
Bảng 7 trình bày các kết quả trong đó trường hợp ít cứng nhắc cũng là mẫu số. Ta không
thể rút ra một kết luận dứt khoát trong thực nghiệm này, vì các kết quả rất mơ hồ. Tuỳ
thuộc vào chủng loại và phạm vi ảnh hưởng của các cú sốc, cơ chế tỷ giá này có thể có
kết quả tốt hơn so với cơ chế tỷ giá kia trong một trường hợp nào đó.
Với đôi chút dè dặt, người ta có thể kết luận rằng tiêu chí thứ hai về tính cứng nhắc của
vốn cố định được hỗ trợ bởi các kết quả của hai thực nghiệm. Cùng với tính cứng nhắc
của lao động, tính cứng nhắc thực nói chung của một nền kinh tế thực sự sẽ mang lại
nhiều tổn thất hơn nếu nền kinh tế có cơ chế tỷ giá hối đoái cố định.
4.4
Mức độ mở cửa
Trên nguyên tắc, mức độ mở cửa được xác định bởi số liệu trong bảng nhập lượng-xuất
lượng (IO table). Việc điều chỉnh bảng nhập lượng-xuất lượng để thay đổi độ mở cửa là
một việc làm rủi ro vì điều đó có thể làm cho bảng bị mất cân bằng. Vì thế, phần này sử
dụng một phương pháp khác để thay đổi độ mở cửa của mô hình bằng cách thay đổi tỷ
trọng hàng nhập khẩu δ M trong phương trình tổng cầu. Tác động của việc điều chỉnh có
thể dễ dàng nhận biết hơn từ hàm cầu nhập khẩu sau đây:
Mt = δM Yt
PtM
PtD
−σY
(28)
Như vậy, nếu δ M trở nên lớn hơn, nền kinh tế có cầu đối với hàng nhập khẩu lớn hơn hay
mở cửa nhiều hơn xét theo tổng nhập khẩu. Để làm cho một nền kinh tế cụ thể trở nên
mở cửa hơn xét theo xuất khẩu trong khung cân bằng tổng quát này, tất cả các đất nước
khác trong mô hình cũng phải tăng nhập khẩu. Do đó, kiểm chứng này sẽ làm cho các
thông số tỷ trọng nhập khẩu trong tất cả các khu vực của mô hình tăng lên thêm 5 phần
trăm. Các kết quả được trình bày trong Bảng 8 với trường hợp cơ sở (ít mở cửa) là mẫu
số.
Từ các mô phỏng, chúng ta có thể thấy rõ ràng là nền kinh tế càng mở cửa thì càng ít
biến động hơn trước mọi loại sốc. Cơ chế tỷ giá hối đoái cố định cho kết quả tốt hơn so với
cơ chế linh hoạt, điều này nhất quán với tiêu chí thứ ba của lý thuyết OCA. Tuy nhiên,
nền kinh tế ổn định hơn dưới cơ chế linh hoạt (các tỷ số nhỏ hơn một), đặc biệt trong hai
nhóm cú sốc danh nghĩa đầu tiên; điều này có vẻ mâu thuẫn với một số nghiên cứu thực
nghiệm về OCA (Willett 2001, von Hagen & Zhou 2002). Một cách giải thích khả dĩ là
trong thực nghiệm này, tất cả các nước trong mô hình đều trở nên mở cửa hơn một cách
cân xứng. Vì thế, cú sốc đối với một đất nước cụ thể sẽ lan truyền trên khắp thế giới một
cách dễ dàng hơn và do đó dễ dàng được hấp thụ hơn bởi các nền kinh tế khác. Cho dù
các phép mô phỏng không xác nhận lý thuyết một cách hoàn toàn, nhưng với mục đích
so sánh giữa cơ chế tỷ giá hối đoái cố định và linh hoạt, nghĩa là tiêu chí thứ ba, các kết
quả mô phỏng cũng đủ hỗ trợ cho lý thuyết.
17
Bảng 8: Mức độ mở cửa (δ1M = 1.05δ0M )
Cơ chế tỷ giá cố định
GLB VIE USA
Cơ chế tỷ giá linh hoạt
LCD
GLB VIE
USA
LCD
0.723
0.885
0.901
0.862
NA
NA
NA
NA
0.728
0.831
0.857
0.827
0.703
0.781
0.781
0.820
1.018
7.910
1.480
0.508
0.751
0.983
1.024
0.939
0.740
0.598
0.905
0.894
1.196
1.178
1.514
1.440
0.864
0.827
0.972
0.915
1.028
1.355
1.171
1.142
Đền bù rủi ro tỷ giá hối đoái
GDP
0.085 0.094 NA
Lạm phát 0.084 0.094 NA
Việc làm
0.092 0.102 NA
Tiêu dùng 0.092 0.101 NA
0.082
0.081
0.089
0.089
0.725
0.854
0.878
0.832
Cú sốc cầu tiền
GDP
0.086 0.072 12.175 0.082
Lạm phát 0.085 0.067 12.375 0.071
Việc làm
0.094 0.079 13.196 0.087
Tiêu dùng 0.093 0.079 12.546 0.093
0.747
0.871
0.901
0.896
Cú sốc tiêu dùng tư nhân
GDP
0.082 0.088 0.067 0.126
Lạm phát 0.081 0.086 0.062 0.115
Việc làm
0.089 0.095 0.072 0.135
Tiêu dùng 0.089 0.095 0.073 0.137
0.729
0.831
0.857
0.827
1.199
0.789
1.765
1.453
Cú sốc cung – nông nghiệp
GDP
0.082 0.031 0.076 0.124
Lạm phát 0.080 0.030 0.069 0.118
Việc làm
0.090 0.035 0.082 0.133
Tiêu dùng 0.089 0.034 0.082 0.134
4.5
0.787
0.811
0.924
0.887
0.387
0.409
0.470
0.498
Tính bất cân xứng của các cú sốc
Tính bất cân xứng của cú các sốc là tiêu chí của lý thuyết OCA thường xuyên được trích
dẫn và kiểm tra trong các nghiên cứu thực nghiệm OCA. Gần như mọi nghiên cứu thực
nghiệm về đồng tiền chung hay cơ chế tỷ giá hối đoái đều cố gắng đo lường tính bất
cân xứng của các cú sốc theo một trong hai cách sau đây. Cách thứ nhất chỉ đơn thuần
là đo lường mối tương quan (correlation) giữa sản lượng trong hai nền kinh tế sau khi
lấy logarithm hay sau khi loại bỏ xu hướng (de-trending) bằng bộ lọc HP (Bayoumi &
Eichengreen 1997, Frankel & Rose 1998, Berger et al. 2000). Phương pháp thứ hai là tách
chuỗi sản lượng (decompose output series) và một số biến kinh tế vĩ mô khác bằng một số
18
mô hình cụ thể (AR, VAR, SVAR) và tính mối tương quan của các số dư (residual) của
phương trình sản lượng ở các nước khác nhau (Bayoumi & Eichengreen 1996, Bayoumi
& Mauro 1999, Eichengreen & Bayoumi 1999, Wyplosz 2001, Lee, Park & Shin 2002). Cả
hai phương pháp đều có chung một vấn đề trục trặc là sự biến thiên sản lượng không chỉ
phản ánh tác động của các cú sốc mà còn phản ánh tác động của chu kỳ kinh tế hiện
tại và các phản ứng chính sách. Hơn nữa, biến động sản lượng do các cú sốc bên ngoài
phụ thuộc vào cơ cấu kinh tế của đất nước, bao gồm cơ chế tỷ giá hối đoái đã chọn. Vấn
đề trục trặc này, cùng với sự phê phán của Lucas, làm cho biến động sản lượng quá khứ
không thể giúp ta biết việc chuyển đổi sang cơ chế tỷ giá khác liệu có chút lợi ích nào
không, nếu cho rằng cơ chế tỷ giá là quan trọng.
Bài viết này, dựa vào phương pháp mô phỏng, kiểm tra tiêu chí bất cân xứng của các cú
sốc theo một cách hoàn toàn khác. Trong bài báo ban đầu của Mundell (1961), tính bất
cân xứng được định nghĩa là một cú sốc đối với đất nước thứ nhất ảnh hưởng đến một
ngành sản xuất (i) trong khi một cú sốc khác đối với đất nước thứ hai ảnh hưởng đến một
ngành khác (j). Do đó, ta cần phải kiểm chứng tiêu chí này với một mô hình đa ngành,
để thật sự phản ánh ý tưởng ban đầu của Mundell, và các mô hình CGE có một ưu điểm
lớn về phương diện này.
Không như các phần trước, việc kiểm chứng tiêu chí này được thực hiện theo một qui
trình khác. Cụ thể là, trong mỗi phép mô phỏng, ba cặp cú sốc được thiết kế để tác động
đến Việt Nam và một nước khác trong mô hình (USA). Cặp thứ nhất có tính bất cân
xứng, nghĩa là nó có một cú sốc đơn vị đối với ngành i ở Việt Nam và cú sốc tác động
đến ngành j ở nước kia. Cặp thứ hai có tính cân xứng trong ngành i, nghĩa là hai cú
sốc như nhau tác động đến cùng một ngành i tại hai nước. Cặp thứ ba có tính cân xứng
trong ngành j. Sau đó, hai tỷ số phương sai của GDP trong trường hợp thứ nhất so với
các phương sai trong trường hợp thứ hai và thứ ba sẽ được tính toán. Như vậy, nếu tỷ số
nhỏ hơn một, sản lượng trong các cú sốc bất cân xứng đối với cặp i, j sẽ ổn định hơn so
với khi các cú sốc có tính cân xứng. Các kết quả cho cặp Việt Nam – Hoa Kỳ dưới hai cơ
chế tỷ giá được trình bày trong Bảng 9.
19