Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Kịch bản văn học trong sự phát triển của sân khấu kịch nói đương đại ở thành phố...

Tài liệu Kịch bản văn học trong sự phát triển của sân khấu kịch nói đương đại ở thành phố hồ chí minh tt

.DOC
25
339
53

Mô tả:

1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ____________________ Lưu Trung Thủy KỊCH BẢN VĂN HỌC TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA SÂN KHẤU KỊCH NÓI ĐƯƠNG ĐẠI Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 62.22.34.01 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Thành phố Hồ Chí Minh - năm 2017 2 Công trình được hoàn thành tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh). Người hướng dẫn khoa học: Giáo sư, Tiến sĩ Huỳnh Như Phương. Phản biện 1: Phản biện 2: Phản biện 3: Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp cơ sở đào tạo họp tại Trường Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) vào hồi.......giờ.......ngày......tháng.......năm 2017. Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. - Thư viện Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh). - Thư viện Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh). 3 DẪN NHẬP 1. Lý do chọn đề tài Hơn 20 năm kể từ khi chính thức chuyển đổi sang phương thức hoạt động mới gắn với sự kiện Nhà hát kịch sân khấu nhỏ và Nhà hát kịch Idecaf được thành lập vào năm 1997 và năm 1998, kịch nói ở Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được những thành tựu quan trọng với những tác phẩm gây tiếng vang, thu hút một lượng đông đảo khán giả thường xuyên đến với sân khấu. Trong sự phát triển chung của sân khấu kịch nói ở Thành phố Hồ Chí Minh, đội ngũ tác giả kịch bản văn học có nhiều chuyển biến theo hướng đông đảo về số lượng, đa dạng, gắn bó chặt chẽ với sân khấu kịch và những yêu cầu mang tính chất kinh doanh của các sân khấu. Kể từ khi sân khấu kịch nói ở Thành phố Hồ Chí Minh chuyển hướng, đổi mới phương thức hoạt động và duy trì sự phát triển ổn định cho đến hôm nay, chưa có nhiều công trình đánh giá về kịch bản văn học cũng như sân khấu kịch nói ở thành phố. Nhìn lại chặng đường phát triển vừa qua, sân khấu kịch nói ở Thành phố Hồ Chí Minh tuy thu được nhiều thành công nhưng còn tồn tại những vấn đề mà nếu không kịp thời khắc phục, chấn chỉnh thì sẽ dễ dẫn đến nguy cơ khán giả lạnh nhạt và xa rời kịch nói, như: mục tiêu thương mại lấn át mục tiêu thẩm mỹ; nội dung, chất lượng nghệ thuật của kịch bản văn học chưa cao; chưa có nhiều tác phẩm mang tính thời sự, chính luận tiêu biểu phản ánh và đề xuất hướng giải quyết những vấn đề nổi cộm, bức xúc của thành phố, đất nước hiện nay; tính chất chuyên nghiệp của công tác tổ chức biểu diễn và đội ngũ diễn viên; sự thiếu thốn về cơ sở vật chất.... Điều này càng đặt ra nhu cầu về việc nghiên cứu, tổng kết, đánh giá kịch nói ở Thành phố Hồ Chí Minh thời gian qua. Đối với nghiên cứu, phê bình văn học Thành phố Hồ Chí Minh, suốt thời gian qua, trước những thăng trầm của văn học kịch, sân khấu kịch, những công trình nghiên cứu, phê bình về văn học kịch và kịch bản văn học còn hết sức khiêm tốn. Chúng tôi nhận thức rằng, để nghiên cứu kịch bản văn học với tư cách là một đối tượng nghiên cứu của văn học thì người nghiên cứu sẽ gặp phải những khó khăn nhất định trong đánh giá, nhìn nhận đối tượng, cũng như công chúng của nó so với các thể loại khác của văn học. Tuy nhiên đã đến lúc giới nghiên cứu, phê bình văn học Thành phố Hồ Chí Minh không thể dè dặt trước văn học kịch thành phố. Nhất là khi sân khấu kịch nói ở Thành phố Hồ Chí Minh đang có chiều hướng rơi vào tình trạng khó khăn về khán giả và nguyên nhân đầu tiên được nhiều người nêu lên là chất lượng của kịch bản văn học. Từ nhận thức đó, chúng tôi chọn đề tài “Kịch bản văn học trong sự phát triển của sân khấu kịch nói đương đại ở Thành phố Hồ Chí Minh” cho luận án tiến sĩ của mình, với mong muốn khảo sát, đánh giá về kịch bản văn học ở Thành phố Hồ Chí 4 Minh trong hơn 20 năm qua trên phương diện nội dung lẫn nghệ thuật, từ đó chỉ ra những đóng góp, hạn chế của kịch bản văn học, nguyên nhân của hạn chế và đề xuất một số giải pháp cho việc nâng cao chất lượng kịch bản văn học ở thành phố. 2. Đối tượng nghiên cứu và giới hạn vấn đề 2.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án này là: kịch bản văn học của tác giả sinh sống tại Thành phố Hồ Chí Minh đã được dàn dựng trên sân khấu kịch nói đương đại ở Thành phố Hồ Chí Minh. 2.2. Giới hạn vấn đề 2.2.1. Về kịch bản văn học sử dụng khảo sát cho luận án Luận án này là một luận án chuyên ngành văn học, do vậy kịch bản văn học được khảo sát với tư cách là một thể loại của văn học. Để có một cái nhìn khách quan về đặc điểm kịch bản văn học đương đại ở Thành phố Hồ Chí Minh đặt trong bối cảnh so sánh với các trung tâm kịch nói khác của cả nước với những đặc điểm chung của kịch nói Việt Nam và đặc điểm riêng biệt mang tính chất địa phương nên chúng tôi chỉ tiến hành khảo sát kịch bản văn học của tác giả sinh sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Do khuôn khổ của luận án có hạn, kịch bản văn học của các tác giả đến từ địa phương khác chúng tôi không khảo sát trong luận án này. 2.2.2. Về khái niệm đương đại Khái niệm kịch bản văn học đương đại ở Thành phố Hồ Chí Minh hay sân khấu kịch nói đương đại ở Thành phố Hồ Chí Minh được sử dụng trong luận án này nhằm chỉ kịch bản văn học hay sân khấu kịch nói thành phố trong thời gian từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay. 3. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu 3.1. Cơ sở lý thuyết Trong khảo sát đối tượng nghiên cứu, luận án của chúng tôi dựa trên nền tảng lý thuyết: - Thứ nhất là lý luận nhận thức của Chủ nghĩa Mác-Lênin cũng như quan niệm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về nghệ thuật. - Thứ hai là những lý thuyết mang tính chất nền tảng về bản chất thẩm mỹ của kịch nói mà Aristotle là người mở đầu vĩ đại, được bồi đắp bởi những nhà văn, nhà lý luận hậu bối như Lessing, Hegel, Fretag… Thứ ba là những lý thuyết kịch nói Phương Tây và kịch Nga hiện đại như: Kịch hiện thực, Kịch hiện thực xã hội chủ nghĩa, Kịch hiện thực tâm lý, Kịch tượng trưng, Kịch biểu tượng, Kịch tự sự hay Kịch sử thi, Kịch phi lý... - 5 - 3.2. Thứ tư là lý thuyết về thi pháp văn học và thi pháp kịch nói. Cuối cùng là lý thuyết về văn hóa, trong đó chúng tôi vận dụng lý thuyết về mối quan hệ giữa văn hóa và văn học, lý thuyết về văn hóa vùng, lý thuyết về văn hóa đại chúng. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng ba phương pháp chủ yếu sau: Phương pháp lịch sử, xã hội: tìm hiểu kịch bản văn học ở Thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội của vùng Nam bộ thời hiện đại. Phương pháp phân tích, tổng hợp: được chúng tôi sử dụng xuyên suốt trong luận án của mình nhằm chỉ ra những đặc điểm nội dung và nghệ thuật của kịch bản văn học ở Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng cách tiếp cận của thi pháp học thể loại để phân tích một số đặc điểm nghệ thuật của kịch bản văn học ở Thành phố Hồ Chí Minh. 3.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án Về ý nghĩa khoa học: nghiên cứu kịch bản văn học trong mối quan hệ giữa nghệ thuật ngôn từ và nghệ thuật sân khấu; xem xét kịch bản văn học như một nhân tố quan trọng của tiến trình nghệ thuật kịch nói đương đại, có tác động tích cực đến sự phát triển của tiến trình đó. Về ý nghĩa thực tiễn: phân tích, đánh giá về kịch bản văn học từ góc độ nội dung, nghệ thuật đặt trong bối cảnh phát triển của sân khấu kịch nói ở Thành phố Hồ Chí Minh hơn 20 năm qua; qua đó góp phần bước đầu tổng kết văn học kịch của thành phố, đồng thời góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận liên quan đến kịch bản văn học, tác giả kịch bản văn học và công chúng của kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh; đề xuất những giải pháp cho việc nâng cao chất lượng kịch bản văn học ở Thành phố Hồ Chí Minh, góp phần vào sự phát triển của kịch nói ở thành phố thời gian tới. 4. Những đóng góp mới của luận án - Thứ nhất, khái quát tiến trình hình thành và phát triển của kịch nói ở Sài GònThành phố Hồ Chí Minh từ đầu thế kỷ XX cho đến nay, để làm rõ:  Tính chất phát triển liên tục, không ngắt quãng của kịch nói ở Thành phố Hồ Chí Minh.  Sự nối tiếp, kế thừa truyền thống của kịch nói ở Thành phố Hồ Chí Minh. - Thứ hai, khảo sát nội dung và nghệ thuật xây dựng kịch bản văn học đương đại ở Thành phố Hồ Chí Minh, để làm rõ:  Phạm vi hiện thực và nội dung hiện thực mà kịch bản văn học quan tâm phản ánh. Ở đây chúng tôi phân tích và chỉ ra các đặc điểm về đề tài, nội dung xung đột kịch, loại xung đột kịch và xu hướng giải quyết xung đột. 6  Xác định đặc điểm nghệ thuật xây dựng kịch bản văn học, qua đó định vị sự phát triển của nghệ thuật xây dựng kịch bản văn học thành phố trong tiến trình phát triển chung của kịch nói Việt Nam và thế giới. Ở đây chúng tôi phân tích và chỉ ra đặc điểm nghệ thuật xây dựng kịch bản văn học ở ba thành phần: xây dựng cốt truyện và kết cấu, xây dựng nhân vật, xây dựng ngôn từ. - Thứ ba, trong quá trình phân tích nội dung và nghệ thuật xây dựng kịch bản văn học, chúng tôi cố gắng chỉ ra xu hướng sáng tác của các tác giả và cả xu hướng sử dụng kịch bản của sân khấu kịch nói ở Thành phố Hồ Chí Minh; sự tác động của sân khấu và khán giả kịch nói đối với xu hướng sáng tác của kịch bản văn học đương đại ở Thành phố Hồ Chí Minh. - Thứ tư, trên cơ sở chỉ ra những đặc điểm của kịch bản văn học ở Thành phố Hồ Chí Minh, đặt trong sự tác động, ảnh hưởng của nhiều nhân tố, chúng tôi đề xuất một số giải pháp cho việc nâng cao chất lượng kịch bản văn học, góp phần cho sự phát triển của văn học kịch và sân khấu kịch nói ở Thành phố Hồ Chí Minh thời gian tới. 5. Cấu trúc của luận án Bên cạnh phần Dẫn nhập, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án gồm 4 chương sau: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh đương đại. Chương 2: Thể loại kịch nói và tiến trình hình thành, phát triển của kịch nói ở Thành phố Hồ Chí Minh. Chương 3: Xung đột trong kịch bản văn học ở Thành phố Hồ Chí Minh. Chương 4: Nghệ thuật xây dựng cốt truyện, nhân vật và ngôn ngữ trong kịch bản văn học ở Thành phố Hồ Chí Minh. CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU KỊCH NÓI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ĐƯƠNG ĐẠI 1.1. Các công trình, chuyên luận, bài viết về kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh đương đại Một số công trình, bài viết đề cập đến kịch bản văn học và sân khấu kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh đáng lưu ý như sau: Cuốn Sân khấu và tôi (Nhà xuất bản Sân khấu, Hà Nội, 1999) của nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Minh Thái. Công trình Văn học Việt Nam thế kỷ XX: Những vấn đề lịch sử và lý luận, do Phan Cự Đệ chủ biên (Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2004). Công trình dành hẳn một 7 phần, do Phan Trọng Thưởng phụ trách, để mô tả, nhận định và đánh giá tiến trình phát triển của kịch nói Việt Nam cho đến cuối thế kỷ XX. Cuốn Kịch Việt Nam: thưởng thức và bình luận của Trần Trọng Đăng Đàn (Nhà xuất bản Văn hóa-Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2011) tập hợp những bài viết chuyên về kịch nói của tác giả đã in trong Nghệ thuật sân khấu Việt Nam (Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, năm 2004). Công trình Kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh: một chặng đường lịch sử của Nguyễn Văn Thành (Nhà xuất bản Sân khấu, Hà Nội, 2008). Tháng 5 năm 2012, Báo Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh kết hợp với Trường Đại học Sân khấu-Điện ảnh Hà Nội tổ chức Hội thảo khoa học Sân khấu kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh – thực trạng và hướng phát triển. Kỷ yếu hội thảo gồm 10 tham luận của các nhà nghiên cứu sân khấu, đạo diễn, diễn viên, các nhà quản lý sân khấu, nhà báo. Công trình Những thay đổi trong đời sống văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh thời gian 1986-2006 do Hoàng Hương, Cao Tự Thanh chủ biên (Phân Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Văn hóa-Nghệ thuật, Thành phố Hồ Chí Minh, 2013). Trong số những bài viết thì bài viết “Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh một chặng đường nghệ thuật chuyên nghiệp”của Trần Minh Ngọc in trong Văn học, nghệ thuật Việt Nam hôm nay: mấy vấn đề trong sự phát triển do GS.TS Đinh Xuân Dũng chủ biên (Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật trung ương, Hà Nội, 2013) là nổi bật vì bài viết đã chỉ ra những vấn đề bản chất của sự phát triển của sân khấu kịch Thành phố Hồ Chí Minh từ những năm 90 của thế kỷ XX đến nay. Nghiên cứu một cách hệ thống về nghệ thuật biên kịch Việt Nam hiện đại và đương đại đáng lưu ý là công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ: Sự phát triển nghệ thuật biên kịch kịch nói Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX, nghiệm thu năm 2004 tại Viện Sân khấu-Điện ảnh (thuộc Trường Đại học Sân khấu-Điện ảnh Hà Nội) do Nguyễn Chiến Thạc làm chủ nhiệm đề tài. 1.2. Những vấn đề đã nghiên cứu, bàn luận về kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh đương đại Tóm lại, kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh đương đại đã được nghiên cứu ở các nội dung sau: - Thứ nhất, mô tả và lý giải về sự chuyển mình và phát triển mạnh mẽ của kịch nói ở thành phố, trong đó tập trung vào phương thức xã hội hóa sân khấu và mô hình sân khấu nhỏ. - Thứ hai, đánh giá hoạt động tổ chức biểu diễn kịch nói ở thành phố. Bên cạnh việc nêu lên những thành tựu, các nghiên cứu cũng chỉ ra những hạn chế, bất cập của hoạt động tổ chức biểu diễn như: cơ sở vật chất, tính chất chuyên nghiệp trong việc dàn dựng tác phẩm, đội ngũ diễn viên, áp lực về kinh doanh 8 của các sân khấu… đồng thời đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động và sản phẩm nghệ thuật của các sân khấu kịch nói xã hội hóa ở thành phố. - Thứ ba, phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật một số tác phẩm sân khấu tiêu biểu, thu hút sự quan tâm của công chúng. - Thứ tư, phân tích, đánh giá một số kịch bản văn học, trong đó tập trung chủ yếu vào nội dung phản ánh; đồng thời bước đầu chỉ ra xu hướng sáng tác của các tác giả kịch bản thành phố và nêu lên một số hạn chế trong nghệ thuật xây dựng kịch bản. CHƯƠNG 2: THỂ LOẠI KỊCH NÓI VÀ TIẾN TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA KỊCH NÓI Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2.1. Một số vấn đề về kịch nói và văn học kịch Đề cập đến đặc trưng thẩm mỹ của văn học kịch không thể không đề cập trước hết đến sự chi phối của tính chất sân khấu. Theo chúng tôi sự chi phối thể hiện tập trung ở ba điểm sau: Thứ nhất là thời gian và không gian trình diễn. Giới hạn về thời gian và không gian của trình diễn buộc kịch phải dồn nén, cô đọng. Điều này đã tạo nên tính chất tập trung, dồn nén, cô đọng của kịch. Tính chất ấy thể hiện trong việc kịch lựa chọn xung đột làm nội dung, sự sắc nét trong xây dựng tính cách nhân vật, sự thống nhất hành động, nhịp điệu nhanh, dồn dập, bố cục tác phẩm theo dạng cảnh, màn và ngôn ngữ đối thoại chắt lọc. Thứ hai là tính chất vận động, sinh động của sân khấu. Cách thức tiếp nhận của kịch là trực quan đã quy định nên tính chất vận động. Những gì tĩnh lặng, chậm chạp, đều đều rất khó thể hiện trên sân khấu và thu hút khán giả theo dõi trong một khoảng thời gian dài mà phải chọn những gì đang vận động và diễn ra một cách sinh động. Kịch thực tại hóa những sự kiện đã diễn ra trong quá khứ. Nghĩa là kịch không kể lại một câu chuyện đã diễn ra trong quá khứ mà trình diễn một câu chuyện đang diễn ra sinh động trước mắt khán giả. Bên cạnh đó, phương tiện biểu hiện của vở kịch chính là nghệ thuật diễn xuất của diễn viên. Nghệ thuật này bao gồm: ngôn từ văn học, động tác, hình thể, tâm lý. Tính chất vận động đó tạo nên bản chất mô phỏng hành động và mô tả những con người hành động như cách nói của Aristotle, quy định hành động kịch là đặc trưng thẩm mỹ bản chất của kịch đồng thời là cơ sở để diễn viên diễn xuất, tạo nên sự thu hút, hấp dẫn khán giả. Thứ ba là tính chất tổng hợp. Kịch là một loại hình nghệ thuật tổng hợp. Kịch có sự kết hợp hữu cơ giữa nghệ thuật trình diễn sân khấu với nghệ thuật văn chương, âm nhạc, hội họa, kiến trúc, thậm chí cả vũ đạo. Sự kết hợp tổng hợp đó nhằm tăng 9 cường khả năng thể hiện, biểu hiện của nghệ thuật sân khấu, tạo nên hiệu ứng truyền cảm từ tập thể sáng tạo đến khán giả. Chính vì vậy, tuy là một trong ba loại hình văn học (tự sự, trữ tình, kịch) nhưng so với tự sự và trữ tình, kịch còn chịu sự chi phối của tính chất sân khấu. Và do đó, văn học kịch mang ba đặc điểm cơ bản sau: Lấy xung đột làm nội dung phản ánh Phản ánh xung đột giúp kịch vượt qua những giới hạn về thời gian và không gian của nghệ thuật trình diễn để chiếm lĩnh hiện thực đồng thời đáp ứng được tính chất động của sân khấu. Lấy hành động để triển khai xung đột Hành động kịch được thể hiện và thúc đẩy thông qua hệ thống hành động của nhân vật. Hệ thống hành động của nhân vật trong kịch bao gồm hành vi, suy nghĩ, động tác, ngôn từ của nhân vật. Kịch tính được tạo nên do hành động của nhân vật. Hành động của nhân vật trong kịch không phải là những hành động đơn lẻ mà là một chuỗi những hành động nối tiếp nhau. Trong quá trình hành động, các nhân vật va chạm với nhau, có khi phủ định lẫn nhau, từ đó làm thay đổi tư thế của mình so với khi mở đầu. Lấy ngôn từ đối thoại làm chất liệu thể hiện Chất liệu thể hiện của kịch chủ yếu là ngôn từ đối thoại của nhân vật. Ngôn từ đối thoại trong kịch thực hiện nhiều chức năng như: miêu tả, tường thuật, trần thuật, bộc lộ tính cách nhân vật và thể hiện hành động nhân vật cũng như hành động kịch. Vì vậy ngôn từ đối thoại trong kịch bên cạnh những đặc điểm của ngôn ngữ văn học thì nổi bật lên ba đặc điểm phổ biến là: khẩu ngữ, tính cách hóa, hành động. Từ những đặc trưng trên, ở góc độ văn học, chúng tôi đi đến quan niệm về kịch và kịch bản văn học như sau: Kịch là một loại hình sáng tác của văn học, phản ánh những xung đột của cuộc sống hoặc cá nhân thông qua hành động của nhân vật và ngôn từ đối thoại. Kịch bản văn học là văn bản thuộc thể loại kịch, thể hiện quan niệm của tác giả về cuộc sống và con người thông qua phản ánh xung đột, tổ chức hành động nhân vật và bằng ngôn từ đối thoại. 2.2. Những đổi mới trong nghệ thuật xây dựng kịch bản văn học hiện đại ở Phương Tây 2.2.1. Hai giai đoạn đổi mới Căn cứ trên những thay đổi về quan niệm thẩm mỹ về thể loại cùng những cách tân trong nội dung và nghệ thuật xây dựng kịch bản, chúng tôi cho rằng từ cuối thế kỷ XIX đến nay, văn học kịch Phương Tây có hai giai đoạn quan trọng: 10 - Giai đoạn thứ nhất là từ cuối thế kỷ XIX đến trước Chiến tranh thế giới thứ hai. Ở giai đoạn này, kịch nói Phương Tây chuyển từ kịch cổ điển sang hiện đại, với việc quan niệm kịch phải phản ánh những vấn đề, thân phận con người trong cuộc sống thường nhật, phá bỏ những quy phạm, ước lệ, nguyên tắc nghệ thuật gò bó, đồng thời mở rộng giới hạn phản ánh của kịch về không gian, thời gian cũng như quy mô, tăng cường các kỹ thuật mới nhằm khám phá thế giới nội tâm, nội cảm của nhân vật. - Giai đoạn thứ hai là từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Giai đoạn này đánh dấu những thay đổi cơ bản trên phương diện quan niệm thẩm mỹ về thể loại kịch cũng như nội dung và nghệ thuật xây dựng kịch bản so với kịch cổ điển, truyền thống. 2.2.2. Hai xu hướng đổi mới Nhìn chung, sự thay đổi trong nghệ thuật xây dựng kịch bản văn học hiện đại ở Phương Tây diễn ra theo hai xu hướng: - Xu hướng thứ nhất là kế thừa những nguyên tắc cơ bản của kịch cổ điển, phá bỏ quy phạm, mở rộng giới hạn về thời gian, không gian, quy mô và đổi mới nghệ thuật xây dựng cốt truyện, xây dựng nhân vật, xây dựng ngôn ngữ và cấu trúc kịch bản. - Xu hướng thứ hai là thay đổi hoàn toàn nghệ thuật xây dựng kịch bản văn học so với kịch truyền thống. Đại diện cho xu hướng thứ nhất có thể kể đến các tác giả, tác phẩm thuộc trào lưu Kịch hiện thực, Kịch hiện thực phê phán và Kịch hiện thực xã hội chủ nghĩa. Các tác giả, tác phẩm theo xu hướng này vẫn tuân theo cách thức tổ chức xung đột và hành động kịch của kịch cổ điển, truyền thống. Xung đột là động lực của hành động kịch. Cốt truyện đóng vai trò là khung tổ chức hành động kịch, bao gồm hệ thống các sự kiện, biến cố mà thông qua đó tính cách nhân vật được bộc lộ, đồng thời thôi thúc nhân vật tự do ý chí và hành động. Cốt truyện dồn nén, tạo không khí kịch tính. Hành động được đẩy từ thấp đến cao trào, rồi hạ dần và kết thúc, theo quy luật nhân quả. Sự đổi mới được thể hiện tập trung ở việc mở rộng giới hạn không gian, thời gian, quy mô tác phẩm, thay đổi trật tự cấu trúc và nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật. Xu hướng thay đổi hoàn toàn nghệ thuật xây dựng tác phẩm so với kịch truyền thống phải kể đến Kịch sử thi (Epic drama) của Bertolt Brecht, Kịch hiện thực tâm lý của Chekhov và Kịch phi lý gắn liền với tên tuổi của Ionesco, Samuel Beckett và Adamov. Các trường phái kịch này thay đổi hoàn toàn quan niệm về tác phẩm kịch và kỹ thuật xây dựng tác phẩm truyền thống. Trong số các trường phái kịch này, ngoại trừ Kịch sử thi của Bertolt Brecht còn giữ truyền thống xây dựng tác phẩm trên cơ sở lấy cốt truyện làm thành phần quan trọng thì hai trường phái kịch còn lại không chú trọng vào cốt truyện mà chú trọng vào xây dựng tình huống kịch. Hai trường phái kịch này không theo hướng thúc đẩy hành động kịch qua quá trình hành động của nhân vật hay sự va chạm về tính cách như kịch truyền thống mà chủ yếu là làm bật lên tính chất bất 11 động của nhân vật hoặc hành động của nhân vật không phải xuất phát từ bên trong nhân vật quyết định mà bị chi phối bởi những điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài. Tiếp nhận sau, kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh đương đại cũng có những tiếp thu và vận dụng sáng tạo kỹ thuật xây dựng kịch bản của kịch nói hiện đại ở Phương Tây, đóng góp cho văn học kịch thành phố nói riêng và văn học kịch Việt Nam nói chung những tác phẩm mang xu hướng hiện đại của kịch nói thế giới. 2.3. Tổng quan về tiến trình hình thành và phát triển của kịch nói ở Thành phố Hồ Chí Minh 2.3.1. Kịch nói ở Sài Gòn-Thành phố Hồ Chí Minh từ khi hình thành đến năm 1975 Thể loại kịch nói theo bước chân xâm lược của người Pháp xuất hiện tại Sài Gòn (năm 1976 đổi tên là Thành phố Hồ Chí Minh) vào khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Lực lượng tiếp nhận kịch nói tại Sài Gòn chủ yếu là trí thức, công chức, học sinh, sinh viên Tây học. Kịch nói được tiếp nhận từ nguyên bản kịch Pháp, Việt hóa, rồi trở thành một thể loại của văn học và sân khấu ở Sài Gòn vào đầu thế kỷ XX. Đây cũng là thời gian thể loại cải lương hình thành và phát triển rực rỡ. Thời gian từ đầu thế kỷ XX đến năm 1975, tuy kịch không phải là thể loại đứng ở vị trí hàng đầu trong đời sống văn học-nghệ thuật Sài Gòn nhưng đây là giai đoạn tích lũy quan trọng để kịch nói đạt được những bước phát triển dài và mạnh mẽ ở giai đoạn sau. 2.3.2. Kịch nói ở Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1975 đến 1985 Kịch nói ở Thành phố Hồ Chí Minh thời gian 10 năm hậu chiến (1975-1985) thể hiện hai nhiệm vụ là ngợi ca chủ nghĩa yêu nước của người miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, thống nhất đất nước và tuyên truyền, cổ vũ tinh thần xây dựng và phát triển thành phố. Đoàn kịch nói Kim Cương và Đoàn kịch nói Bông Hồng đã nối dài quá trình phát triển của kịch Sài Gòn trong điều kiện, hoàn cảnh lịch sử mới, bên cạnh Đoàn kịch nói Cửu Long Giang đóng vai trò dẫn dắt sân khấu kịch nói thành phố theo đúng chủ trương, đường lối. Câu lạc bộ thể nghiệm là một nhân tố mới tích cực của kịch nói thành phố. Song song đó, văn học kịch Thành phố Hồ Chí Minh có những khởi sắc và xuất hiện những nhân tố sẽ đóng vai trò trụ cột cho thời gian phát triển về sau. Cùng những nỗ lực của chính quyền thành phố cũng như những nghệ sĩ tâm huyết với nghề, khán giả Thành phố Hồ Chí Minh bắt đầu dành nhiều quan tâm đến kịch nói. Vị trí của kịch nói trong đời sống văn học-nghệ thuật của thành phố bắt đầu có những thay đổi theo hướng phát triển. Thời gian 1975-1985 có thể xem là thời gian tạo nên những tiền đề cần thiết cho sự cất cánh của kịch nói ở Thành phố Hồ Chí Minh sau năm 1986. 2.3.3. Kịch nói ở Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1986 đến nay 12 Thời gian từ 1986 đến nay, kịch nói ở Thành phố Hồ Chí Minh đã có bước chuyển mạnh mẽ. Từ chỗ rơi vào khó khăn về khán giả, kịch nói thành phố đã tìm được hướng đi, trở thành một trong những trung tâm của sân khấu kịch nói và văn học kịch Việt Nam. Song song đó, văn học kịch của thành phố diễn ra một cách sôi động, chỉ tính riêng các trại sáng tác do Hội Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức thì hàng năm có hơn 20 tác phẩm mới được ra đời và nhiều tác phẩm trong số đó đã đến với công chúng thông qua sân khấu kịch nói. Điều đáng tiếc trong sự phát triển của văn học kịch thành phố là hiện nay công chúng chưa được thưởng thức nhiều các tác phẩm văn học kịch qua văn bản. CHƯƠNG 3: XUNG ĐỘT TRONG KỊCH BẢN VĂN HỌC Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 3.1. Xung đột kịch 3.1.1. Xung đột là đặc trưng thẩm mỹ cơ bản của kịch Xung đột không phải là đối tượng phản ánh của riêng thể loại kịch. Nhưng ở thể loại kịch phản ánh xung đột là đặc tính của thể loại này vì mục tiêu cuối cùng của kịch bản văn học là được dựng trên sân khấu. Nội dung của kịch bản chịu sự chi phối của không gian-thời gian thực tế của một đêm diễn và tính chất động của hoạt động trình diễn. Do vậy, tác giả khó chiếm lĩnh và thể hiện hiện thực như thể loại văn xuôi mà phải thể hiện tập trung và dồn nén. Cho nên việc chọn trạng thái mà hai mặt đối lập của mâu thuẫn đã phát triển đến mức độ đấu tranh, va chạm với nhau, đòi hỏi phải giải quyết là cách vừa có thể chiếm lĩnh hiện thực, thể hiện bản chất của cuộc sống vừa khắc phục được sự hạn chế về không gian-thời gian và đáp ứng được tính chất động của một thể loại mang tính chất trình diễn. Xung đột kịch mang hai đặc điểm cơ bản: một là tập trung thể hiện mâu thuẫn của cuộc sống và cá nhân ở đỉnh điểm, cao trào; hai là có quá trình phát triển và kết thúc. 3.1.2. Mối quan hệ giữa xung đột và các thành phần của kịch Đối với hành động nhân vật, mối quan hệ giữa xung đột và hành động nhân vật trong kịch là mối tương tác hai chiều. Xung đột là động lực thúc đẩy nhân vật hành động. Còn hành động của nhân vật làm cho xung đột bộc lộ, vận động và được giải quyết. Mặt khác, xung đột là động lực chính để hành động nhân vật phát triển. Mức độ tăng hay giảm của xung đột cũng làm cho nhịp độ và cường độ hành động của nhân vật tăng giảm theo. 13 Tình huống kịch hay cũng có người gọi là tình cảnh kịch là cơ sở để xung đột kịch xuất hiện. Tình huống kịch bao gồm tình huống cụ thể của nhân vật và sự kiện bất ngờ. Ở đây tính chất bất ngờ là rất quan trọng. Nó tạo sự hấp dẫn, lôi cuốn độc giả hay khán giả dõi theo xung đột. Kịch tính là đặc tính tinh thần hay không khí tinh thần cho người tiếp nhận ở thể loại kịch. Chính điều này làm nên tính chất hấp dẫn của thể loại kịch. Xung đột kịch góp phần kích thích sự hào hứng của khán giả. Một số người xem kịch tính là đặc trưng quan trọng và thứ nhất của kịch. Nhưng thực chất nếu không có mâu thuẫn và xung đột thì sẽ không có động lực thúc đẩy các nhân vật va chạm với nhau và vì vậy không xuất hiện kịch tính. Do đó có thể xem xung đột cũng chính là cơ sở tạo nên kịch tính. Đối với tính cách nhân vật, xung đột đưa tính cách nhân vật vào những hành động có trọng tâm, giúp bộc lộ tính cách nhân vật. Quá trình phát triển của tính cách cũng chỉ có được khi nhân vật tham gia vào xung đột. Mức độ nông sâu của tính cách phụ thuộc trước hết vào sự tham gia vào xung đột của nhân vật. Xung đột cũng là thành phần tác động đến tổ chức nghệ thuật của kịch bản văn học từ cốt truyện, kết cấu đến cấu trúc của kịch bản. Thực chất việc kết cấu kịch bản văn học theo dạng màn cảnh hay phân chia thành kịch 3 hồi, kịch 5 hồi là việc tổ chức tác phẩm theo vận động của xung đột. Xung đột không chỉ là đặc trưng nội dung mà còn là yếu tố quan trọng chi phối đến tổ chức nghệ thuật của kịch bản văn học. Xung đột bao trùm lên cả nội dung lẫn tổ chức nghệ thuật của kịch bản văn học. 3.2. Xung đột trong kịch bản văn học ở Thành phố Hồ Chí Minh 3.2.1. Phạm vi hiện thực phản ánh Ở góc độ đề tài, phạm vi hiện thực phản ánh của kịch bản văn học ở Thành phố Hồ Chí Minh có thể khái quát thành các nhóm như sau: 1. Thời sự, chính luận. 2. Lịch sử. 3. Tình yêu-hôn nhân-gia đình. 4. Đạo đức cá nhân. Số lượng tác phẩm ở các mảng đề tài có khác nhau nhưng nhìn chung phạm vi hiện thực mà kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh quan tâm khá rộng chứ không chỉ tập trung ở những đề tài về tình yêu đôi lứa như một số nhận định của dư luận gần đây. Đi vào nội dung cụ thể thì phạm vi hiện thực phản ánh của kịch bản văn học ở Thành phố Hồ Chí Minh khá rộng. 14 Đề tài liên quan đến phạm vi hiện thực cá nhân được kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh thể hiện nhiều nhất. Riêng trong tổng số 78 tác phẩm mà luận án khảo sát thì số lượng tác phẩm liên quan đến phạm vi hiện thực cá nhân chiếm 73%. Xu hướng phản ánh hiện thực cá nhân của kịch nói ở Thành phố Hồ Chí Minh cũng nằm trong xu hướng chung của kịch nói Việt Nam. 3.2.2. Nội dung xung đột theo đề tài 3.2.2.1. Xung đột trong mảng đề tài về thời sự, chính luận và lịch sử Nhìn chung, kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh ở mảng đề tài thời sự, chính luận đã phản ánh được phần nào những vấn đề mà công chúng quan tâm hiện nay. Tuy nhiên, nhiều kịch bản chỉ mới dừng lại ở đặt vấn đề hoặc nêu lên xung đột chứ tác giả chưa đi đến bản chất, chưa thực sự đặt ra rốt ráo và gợi mở hướng giải quyết thuyết phục để công chúng nghiền ngẫm. Các nhân vật trong phạm vi xung đột này cũng hành động một cách chừng mực và tiết chế, chưa quyết liệt. Đây có thể xem là điều đáng tiếc trong nội dung của kịch bản văn học ở thành phố. Kịch bản văn học thành phố thiếu những tác phẩm chính luận tiêu biểu, sắc sảo nhất là khi đề cập đến những bất cập trong quản lý xã hội, sự thoái hóa, biến chất, suy thoái đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay, tệ nạn tham ô, tham nhũng ngày càng tinh vi, chiều hướng xuống cấp của đạo đức xã hội... mà công chúng quan tâm. Như một sự bổ sung cho những thiếu hụt ở mảng đề tài thời sự, chính luận, các tác phẩm ở mảng đề tài lịch sử lại nêu lên được những xung đột mang tính chất thời sự, sắc sảo thông qua những giai thoại và nhân vật lịch sử. Có thể nói, tuy số lượng kịch bản văn học khiêm tốn nhưng chính ở mảng đề tài lịch sử, kịch nói ở Thành phố Hồ Chí Minh mới có những tác phẩm tiêu biểu, gây được tiếng vang. Thông qua việc tái hiện và làm mới những xung đột lịch sử, các tác giả đã đặt ra và giải quyết thấu đáo những xung đột mang tính thời sự, chính luận của đất nước. 3.2.2.2. Xung đột trong mảng đề tài về tình yêu, hôn nhân, gia đình Đây là mảng đề tài có số lượng tác phẩm đông đảo nhất trong kịch bản văn học ở Thành phố Hồ Chí Minh. Những kịch bản ở mảng đề tài này thường khai thác hai dạng xung đột: thứ nhất là những xung đột mang tính muôn thuở trong tình yêu, hôn nhân, gia đình và thứ hai là những xung đột gắn với bối cảnh, tác động của môi trường xã hội. Ở dạng thứ nhất, kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh đi vào những xung đột mang tính chất phổ biến trong tình yêu, hôn nhân, gia đình. Ở dạng thứ hai, việc phản ánh xung đột trong tình yêu-hôn nhân-gia đình gắn với ảnh hưởng của những tác động xã hội. Tuy vậy, ở nhiều tác phẩm, yếu tố xã hội chỉ mang tính chất làm nền, khá mờ nhạt, chưa được tác giả tập trung thể hiện, lý giải thấu đáo cho nên xung đột vận động và được giải quyết thường khá đơn giản. 15 Không chú trọng vào việc đẩy cao xung đột, các kịch bản thuộc đề tài này thường khai thác chủ yếu ở những va chạm, hiểu lầm của các nhân vật để hướng tới việc rút ra những bài học nhẹ nhàng về nhận thức và hành vi trong tình yêu-hôn nhângia đình. Ngoài ra, ở mảng đề tài này, kịch bản văn học ở Thành phố Hồ Chí Minh còn thể hiện nội dung xung đột trong tình yêu của người đồng tính. Các kịch bản này thường khai thác những dằn xé, xung đột trong nội tâm các nhân vật trước việc phải dấu mình, tránh sự kỳ thị của những người xung quanh hay chấp nhận và sống thật với con người mình. Thông qua tác phẩm, tác giả mong muốn công chúng có cái nhìn bao dung, thông cảm hơn với những người đồng tính trong xã hội ta hiện nay. Tính chất giáo dục nhẹ nhàng là đặc điểm nổi bật trong các kịch bản văn học thuộc mảng đề tài tình yêu-hôn nhân-gia đình. Cách tạo lập và lý giải xung đột của các tác giả chủ yếu dựa trên nhận thức và hành động mang tính chất cá nhân chứ chưa đi sâu vào yếu tố tác động của bối cảnh, môi trường xã hội khiến cho nội dung xung đột của phần lớn các kịch bản văn học khá mờ nhạt, hành động nhân vật yếu và vì vậy thông điệp đến từ các tác phẩm này cũng không sâu mà chỉ mới dừng lại ở sự cảnh tỉnh. 3.2.2.3. Xung đột trong mảng đề tài về đạo đức cá nhân Xung đột trong các tác phẩm thuộc mảng đề tài này thường là xung đột giữa cái thiện và cái ác, giữa tích cực và tiêu cực, cho nên thường diễn ra gay gắt, kịch tính. Xung đột trong đề tài này ít nhiều được các tác giả đặt ra và lý giải từ góc độ tác động tiêu cực của xã hội lên đạo đức, nhân phẩm con người. Các tác phẩm như một sự cảnh báo và truyền đến công chúng thông điệp về giữ gìn nhân phẩm, đạo đức trước những cám dỗ của vật chất, danh vọng. Nhìn chung, phần lớn các kịch bản văn học thuộc mảng đề tài này đều chỉ ra tác hại và ảnh hưởng của sự suy thoái nhân cách, đạo đức cá nhân hiện nay đối với tính chất nền tảng, tính ổn định, bền vững của gia đình và xã hội. Do đó, thông điệp truyền đến khán giả là giữ gìn nhân phẩm, đạo đức trước những cám dỗ của vật chất, danh vọng. Điều hạn chế là tuy nhìn thấy thực trạng và ảnh hưởng, tác hại của suy thoái đạo đức cá nhân đối với gia đình, xã hội, quốc gia nhưng nhiều kịch bản chưa lý giải thấu đáo căn nguyên của sự suy thoái đó, chưa nhận thấy những nguyên nhân tạo nên suy thoái như từ tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường, từ việc chưa gắn chặt giữa phát triển kinh tế với xây dựng văn hóa, đạo đức hay từ việc buông lỏng quản lý và giáo dục văn hóa, đạo đức. Việc lý giải chỉ mới dừng lại ở góc độ nhận thức và hành động mang tính chất cá nhân nên còn thiếu sức thuyết phục. Ngoài ra, ở một số kịch bản, nhất là kịch bản được gọi là kịch kinh dị, kịch tính được tạo nên không phải là từ sự va chạm, đấu tranh của các nhân vật mà từ những thủ pháp tạo nên không khí hồi 16 hộp mang tính chất hoang đường như hồn ma, những sự kiện ngẫu nhiên kỳ bí… trong khi đó ý nghĩa xã hội của hành động kịch lại không được tác giả lý giải thấu đáo hoặc nêu lên một cách mờ nhạt, khiến cho tác phẩm nặng tính chất giải trí và hiệu quả giáo dục, hướng thiện không cao. Tóm lại, tuy phạm vi hiện thực khá rộng nhưng nội dung xung đột của kịch bản văn học ở Thành phố Hồ Chí Minh mới chỉ dừng ở góc độ phản ánh và khơi gợi tình cảm cho công chúng. Không nhiều kịch bản đặt ra cho công chúng những vấn đề cần suy nghĩ và đề xuất hướng giải quyết những vướng mắc trong cuộc sống hôm nay của người dân Thành phố và vùng Nam bộ. Thiếu tính vấn đề, thiếu những xung đột được xây dựng đầy đặn nên kịch bản văn học ở Thành phố Hồ Chí Minh chưa thực sự thể hiện rõ nét vai trò tiên phong, nhạy cảm trước thời cuộc. Nội dung kịch bản văn học thành phố chịu sự tác động và chi phối mạnh mẽ của thị trường mà biểu hiện cụ thể là thỏa mãn nhu cầu giải trí của khán giả đại chúng. 3.2.3. Loại xung đột Về loại xung đột, kịch bản văn học ở Thành phố Hồ Chí Minh khai thác cả xung đột bên trong lẫn xung đột bên ngoài nhưng chủ yếu vẫn sử dụng xung đột bên ngoài, biểu hiện qua xung đột giữa tính cách với tính cách. Phần lớn nội dung xung đột bên ngoài trong kịch bản văn học thành phố đều là sự va chạm của các tính cách chứ không thấy có xung đột giữa tính cách với hoàn cảnh hoặc xã hội cho nên cảm hứng chủ đạo của phần lớn các tác phẩm hoặc là khẳng định tính tích cực của cá nhân trong việc cải tạo hoàn cảnh, cải tạo bản thân hoặc biểu hiện với cảm hứng lạc quan, hài hước chứ không mang màu sắc bi quan. Vì vậy có thể hiểu tại sao kịch bản văn học Thành phố Hồ Chí Minh đương đại phần lớn sử dụng thể loại chính kịch và thể loại hài kịch chứ không nhiều kịch bản văn học sử dụng thể loại bi kịch. Ngoài ra, kịch bản văn học ở Thành phố Hồ Chí Minh thiên về xu hướng thể hiện một xung đột xuyên suốt tác phẩm. Không nhiều kịch bản thể hiện nhiều tuyến xung đột chồng chéo, phức tạp. Không nhiều kịch bản văn học khai thác xung đột nội tâm gây được tiếng vang, mặc dù số lượng tác phẩm theo hướng khai thác hiện thực xung đột liên quan đến cá nhân chiếm số lượng lớn. Điều đó làm cho kịch nói thành phố thiếu những tác phẩm giúp công chúng trải nghiệm, khám phá những giằng xé, day dứt trong nội tâm, nội cảm của con người trước những thay đổi, biến chuyển của cuộc sống hôm nay. CHƯƠNG 4: 17 NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG CỐT TRUYỆN, NHÂN VẬT VÀ NGÔN NGỮ TRONG KỊCH BẢN VĂN HỌC Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 4.1. Xu hướng nghệ thuật xây dựng kịch bản văn học ở Thành phố Hồ Chí Minh Nằm trong tiến trình chung của kịch nói Việt Nam từ khoảng thập niên cuối của thế kỷ XX đến nay, nghệ thuật xây dựng kịch bản văn học ở Thành phố Hồ Chí Minh phát triển theo hai xu hướng: - Thứ nhất, theo những nguyên tắc nghệ thuật của kịch nói cổ điển, trên nền tảng quan niệm và tư duy nghệ thuật của Chủ nghĩa hiện thực và Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. - Thứ hai, tiếp thu một số kỹ thuật xây dựng kịch bản mới của kịch nói hiện đại ở Phương Tây. 4.2. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện và kết cấu Kịch nói ở Thành phố Hồ Chí Minh đa phần thuộc dòng kịch kịch tính hay hòa cảm. Nhìn chung, cốt truyện đều theo mô hình kết cấu kịch 5 hồi. Với mô hình tổ chức sự kiện theo 5 hồi, hành động nhân vật vận động theo quy luật nhân quả và thời gian tuyến tính. Sự khác biệt chỉ nằm ở phần cao trào và phần mở nút thành một, đồng thời không gò bó về thời gian và không gian hành động. Trong xây dựng cốt truyện, tác giả kịch bản ở Thành phố Hồ Chí Minh thường sử dụng sự kiện bất ngờ ở phần cao trào và mở nút của tác phẩm. Với việc xây dựng cốt truyện theo nguyên tắc cổ điển, truyền thống, cấu trúc kịch bản văn học ở Thành phố Hồ Chí Minh phần lớn là cấu trúc khép kín, theo công thức phổ biến: xung đột kịch thúc đẩy hành động kịch vận động cho đến khi xung đột được giải quyết thì kết thúc tác phẩm. Kịch bản văn học ở Thành phố Hồ Chí Minh phổ biến với hai cách giải quyết xung đột: theo hướng dứt điểm và theo hướng điều hòa, hóa giải. Ở hướng giải quyết thứ nhất, phần chiến thắng thường thuộc về cái thiện, cái chính nghĩa, cái tích cực. Giải quyết xung đột theo hướng điều hòa, hóa giải là hướng giải quyết phổ biến của kịch bản văn học ở Thành phố Hồ Chí Minh. Theo chúng tôi, sở dĩ nhiều kịch bản thành phố chọn cách giải quyết theo hướng này có lẽ xuất phát từ việc đáp ứng thói quen, nhu cầu của công chúng đại chúng của kịch nói thành phố. Sau một ngày bề bộn của cuộc sống, khán giả đại chúng thành phố tìm đến sân khấu kịch nói để thỏa mãn nhu cầu giải trí, đồng thời thông qua đó có được những bài học gần gũi, dung dị về cuộc sống. Ở những kịch bản chọn cách giải quyết xung đột theo hướng điều hòa, hóa giải, nhân vật hay tuyến nhân vật đối kháng tự nhận thấy mình sai, lầm lạc và quay về cái đúng đắn, tích cực. Để giải quyết xung đột theo hướng điều hòa, trong quá trình vận 18 động của xung đột, các tác giả tiết chế việc đẩy xung đột lên cao. Ở cao trào, một sự kiện hoặc hành động đột ngột diễn ra làm cho cục diện thay đổi hoặc sự thật dấu kín được phơi bày khiến nhân vật thức tỉnh. Để giải quyết xung đột theo hướng điều hòa, hóa giải của kịch bản văn học thành phố thường dựa vào các sự kiện hoặc hành động mang tính bất ngờ để thay đổi cục diện. Đa số cách giải quyết này chưa thực sự thuyết phục. Cái kết đôi khi bất ngờ với chính nhân vật và công chúng. Tuy nhiên cách giải quyết xung đột như vậy giúp khán giả vui vẻ rời khỏi rạp, không phải tư duy nhiều, đáp ứng mục tiêu giải trí. Giải quyết xung đột theo hướng mở là hướng giải quyết không được nhiều tác giả lựa chọn. Mặc dù đây là cách chuyển tải nội dung và thông điệp theo hướng hiện đại nhưng có lẽ trong tình hình dàn dựng tác phẩm sân khấu hướng đến nhu cầu giải trí của công chúng đại chúng hiện nay thì việc các kịch bản văn học giải quyết xung đột theo cách này thường khó được lựa chọn để dàn dựng trên sân khấu. Cho nên xây dựng và chuyển tải nội dung xung đột theo hướng cách tân, hiện đại của kịch bản văn học ở Thành phố Hồ Chí Minh cũng chỉ mới dừng lại ở một vài tác phẩm mà chưa trở thành xu hướng chung. Bên cạnh đa số tác phẩm xây dựng cốt truyện theo nguyên tắc truyền thống và khép kín thì kịch nói ở Thành phố Hồ Chí Minh cũng có những kịch bản văn học linh hoạt, sáng tạo trong xây dựng cốt truyện và cấu trúc kịch bản hoặc theo xu hướng xây dựng tình huống, với kết cấu mở. Nhìn chung trong nỗ lực đổi mới nghệ thuật xây dựng kịch bản, các tác giả đã tiếp thu lối cấu trúc tác phẩm mở của kịch nói hiện đại Phương Tây phù hợp với thói quen tiếp nhận kịch của khán giả thành phố. Việc tiếp thu dạng cấu trúc này theo hai hướng, thứ nhất đặt những nhân vật của mình vào sự kiện giả định để nhân vật hành động và thứ hai là tạo tình huống để nhân vật bộc lộ thế giới nội tâm và nội cảm của mình. Sự phù hợp thể hiện ở chỗ vẫn có yếu tố “truyện” để người xem dõi theo chứ không hoàn toàn phi cốt truyện như dòng Kịch hiện thực tâm lý hay Kịch phi lý. 4.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật Ở góc độ nội dung, hình tượng nhân vật trong kịch bản văn học ở Thành phố Hồ Chí Minh khá phong phú Nhưng nếu khái quát lên thì kịch bản văn học thành phố phổ biến với hai loại nhân vật là: nhân vật đời thường và nhân vật lịch sử. Ở góc độ kiểu nhân vật, kịch bản văn học ở Thành phố Hồ Chí Minh phổ biến với kiểu nhân vật tính cách, được xây dựng theo nguyên tắc của Chủ nghĩa hiện thực. Ngoài ra, kịch bản văn học thành phố bước đầu có những tác phẩm xây dựng nhân vật biểu trưng, biểu tượng. Mặc dù số lượng kịch bản thời gian qua khá lớn, kiểu, loại nhân vật được thể hiện trong kịch bản phong phú nhưng kịch nói ở Thành phố Hồ Chí Minh chưa có 19 nhiều hình tượng nhân vật lưu dấu sâu đậm trong tâm trí của độc giả cũng như khán giả. Một vấn đề nữa trong xây dựng nhân vật của kịch bản văn học ở Thành phố Hồ Chí Minh là vẫn còn nhiều kịch bản mà nhân vật được xây dựng khá đơn giản, mặc định thành hai thái cực tốt-xấu, tích cực-tiêu cực hơn là thể hiện được tính cách sinh động, có chiều sâu, với sức khái quát mang tính chất xã hội. Nguyên nhân này thuộc về trình độ sáng tác của tác giả kịch bản. Các nhân vật tuy được xây dựng theo nguyên tắc sáng tác hiện thực nhưng chất liệu, cơ sở của hiện thực nội dung và hiện thực tâm lý nhân vật chưa chắc chắn và nhuần nhuyễn. Cốt truyện chưa xây dựng được những sự kiện, biến cố mang tính logic, phù hợp với tích cách và sự phát triển của nhân vật. Cho nên hành động của nhân vật trước các sự kiện, biến cố mang tính chất khiên cưỡng, không làm bật lên tính cách nhân vật cũng như tính hợp lý về hành động của nhân vật. 4.4. Nghệ thuật xây dựng ngôn ngữ Ở nghệ thuật xây dựng ngôn ngữ đối thoại, nhìn chung, kịch bản văn học ở Thành phố Hồ Chí Minh phần lớn vẫn mang những đặc điểm chung của ngôn ngữ kịch nói Việt Nam cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XX và không có nhiều cách tân. 4.4.1. Ngôn ngữ đối thoại Ngôn ngữ đối thoại của kịch bản văn học ở Thành phố Hồ Chí Minh là ngôn ngữ thể hiện hành động và tính cách nhân vật. Điểm đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng ngôn ngữ đối thoại của kịch bản văn học ở Thành phố Hồ Chí Minh là việc miêu tả và khắc họa tính cách nhân vật theo hình tượng con người Nam bộ. Việc khắc họa tính cách Nam bộ được thể hiện thông qua lối khẩu ngữ Nam bộ. Ngôn ngữ đối thoại theo lối khẩu ngữ Nam bộ thể hiện ở việc sử dụng lối nói và phương ngữ Nam bộ. Bên cạnh đó, ngôn ngữ đối thoại của nhân vật trong kịch bản văn học ở Thành phố Hồ Chí Minh đương đại đa phần đều là dạng ngôn ngữ hồn nhiên, chất phác, ít bóng bảy, ẩn ý hay cao giọng lý luận, triết lý. Ngôn ngữ nhân vật này là phản chiếu phong cách ngôn ngữ và tư duy của người Việt vùng Nam bộ. Điều này vừa góp phần đưa kịch nói gần gũi với độc giả, khán giả Nam bộ vừa cá tính hóa nhân vật kịch trong bối cảnh đời sống, xã hội, văn hóa và con người vùng Nam bộ. Xây dựng ngôn ngữ đối thoại theo hướng này làm nên đặc trưng gần gũi với hiện thực đời sống, hiện thực sinh hoạt thường nhật của kịch nói ở Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng bên cạnh những kịch bản đạt chuẩn mực về xây dựng ngôn ngữ nghệ thuật thì cũng còn không ít những kịch bản xây dựng ngôn ngữ chỉ mới ở dạng thô, không chau chuốt, mang tính chất tự nhiên khiến cho sức hấp dẫn của tác phẩm giảm sút. Ngôn ngữ đối thoại thiếu đi tính chất chọn lọc về mặt ngôn từ nên kịch bản văn học thiếu chiều sâu. 4.4.2. Ngôn ngữ độc thoại và bàng thoại Ngôn ngữ độc thoại và bàng thoại trong kịch bản văn học ở Thành phố Hồ Chí Minh thể hiện chức năng chung của dạng ngôn ngữ này trong kịch nói. 20 Khi chuyển từ ngôn ngữ đối thoại sang ngôn ngữ độc thoại, tác giả kịch bản thường chỉ dẫn độc giả như: độc thoại, thầm thì, nói một mình, nói bằng ý nghĩ, lầm bầm... cũng có khi nhân vật nói một mình với một bức tranh, bức ảnh hoặc kỷ vật. Sự khác biệt giữa ngôn ngữ độc thoại và ngôn ngữ đối thoại là ở chỗ lời nói của nhân vật hướng đến bản thân mình chứ không hướng đến đối tượng bên ngoài. Ngôn ngữ độc thoại thường giúp bộc lộ điều mà nhân vật cảm nhận, suy nghĩ thật sự, khác với nội dung mà nhân vật đối thoại; thể hiện đấu tranh tư tưởng hay sự tự thú của nhân vật với bản thân mình; góp phần bộc lộ và làm rõ động cơ của hành động, những toan tính của nhân vật. Ngôn ngữ bàng thoại của nhân vật trong kịch bản văn học ở Thành phố Hồ Chí Minh cũng là một thủ pháp nghệ thuật tạo nên không khí sinh động của kịch bản đồng thời góp phần khắc họa tính cách nhân vật. Ngôn ngữ bàng thoại thể hiện vai trò bổ sung thêm thông tin cho đoạn đối thoại, suy nghĩ của nhân vật hoặc giúp nhân vật giải thích, phân trần thêm. Ngôn ngữ độc thoại và bàng thoại trong kịch bản văn học thành phố mang chức năng và đặc điểm phổ biến của hai loại ngôn ngữ này trong kịch bản văn học Việt Nam hiện đại. Với những chức năng như vậy, có thể thấy rằng, bên cạnh là một thủ pháp nghệ thuật, ngôn ngữ đối thoại góp phần khắc họa chân thật tính cách của nhân vật. Hai loại ngôn ngữ này cùng ngôn ngữ đối thoại giúp công chúng hình dung thêm tính cách của nhân vật, đồng thời thay đổi không khí, tạo nên tính chất sinh động cho ngôn ngữ kịch. KẾT LUẬN Hơn 20 năm qua, kịch bản văn học ở Thành phố Hồ Chí Minh đã có những đóng góp nhất định trên phương diện nội dung lẫn nghệ thuật. Trong thành công chung của kịch nói ở Thành phố Hồ Chí Minh hơn 20 năm qua, kịch bản văn học góp một phần không nhỏ. Kịch bản văn học góp phần làm nên những tác phẩm sân khấu thu hút sự quan tâm của công chúng cả nước. Trong hoạt động sân khấu, tác giả kịch bản góp phần duy trì sự ra đời thường xuyên của các tác phẩm sân khấu mới, đáp ứng nhu cầu khán giả. Bên cạnh đó, với những tiếp thu từ nghệ thuật xây dựng kịch bản hiện đại thế giới, kịch bản văn học cũng đã tạo nên nền tảng cho một số đổi mới về nghệ thuật dàn dựng và trình diễn của kịch nói thành phố. Tuy nhiên chất lượng tư tưởng và nghệ thuật của kịch bản văn học ở Thành phố Hồ Chí Minh chưa tương xứng với số lượng. Kịch bản văn học tiêu biểu, kết tinh cho sự phát triển hơn 20 năm của văn học kịch thành phố, thu hút sự quan tâm của công chúng còn ít. Phần lớn nội dung kịch bản văn học được sáng tác theo những góc nhìn, điểm nhìn và cách đánh giá không mới, tính phát hiện chưa cao. Nghệ thuật xây dựng kịch bản văn học chưa có nhiều cách tân.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan