BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH
-------------------
TRƢƠNG THỊ KIM ANH
KHUYNH HƢỚNG HIỆN THỰC – HUYỀN ẢO
TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Nghệ An, năm 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH
-------------------
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
KHUYNH HƢỚNG HIỆN THỰC – HUYỀN ẢO
TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 9.22.01.21
Họ và tên NCS: Trƣơng Thị Kim Anh
Ngƣời hƣớng dẫn: 1. PGS.TS. Nguyễn Đăng Điệp
2. TS. Lê Thanh Nga
Nghệ An, năm 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các dẫn liệu được
sử dụng trong luận án là trung thực, có xuất xứ rõ ràng. Những phát hiện trong luận án
là kết quả nghiên cứu của tác giả luận án.
Tác giả luận án
Trƣơng Thị Kim Anh
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................. 3
5. Đóng góp của luận án ....................................................................................... 3
6. Cấu trúc của luận án ........................................................................................ 4
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ................................ 5
1.1. Khái lược tình hình nghiên cứu về khuynh hướng hiện thực – huyền ảo trong
tiểu thuyết trên thế giới ............................................................................................. 5
1.1.1. Nghiên cứu về tiểu thuyết .......................................................................... 5
1.1.2. Nghiên cứu về khuynh hướng hiện thực – huyền ảo trong tiểu thuyết ...... 10
1.2. Tình hình nghiên cứu về khuynh hướng hiện thực – huyền ảo trong tiểu thuyết
Việt Nam đương đại ................................................................................................. 15
1.2.1. Nghiên cứu về tiểu thuyết Việt Nam đương đại ........................................ 15
1.2.2. Nghiên cứu về khuynh hướng hiện thực – huyền ảo trong tiểu thuyết Việt
Nam đương đại ......................................................................................................... 21
1.3. Tiểu kết ......................................................................................................... 26
CHƢƠNG 2: SỰ XUẤT HIỆN CỦA KHUYNH HƢỚNG HIỆN THỰC –
HUYỀN ẢO TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI .................. 28
2.1. Giới thuyết về khuynh hướng và khuynh hướng hiện thực – huyền ảo ............. 28
2.1.1. Khái niệm khuynh hướng ........................................................................... 28
2.1.2. Khái niệm hiện thực – huyền ảo ................................................................ 30
2.1.3. Nguyên tắc phản ánh hiện thực của khuynh hướng hiện thực – huyền ảo ..... 35
2.1.4. Đặc điểm khuynh hướng hiện thực – huyền ảo ......................................... 37
2.2. Những tiền đề xuất hiện khuynh hướng hiện thực – huyền ảo trong tiểu thuyết
Việt Nam đương đại ................................................................................................. 40
2.2.1. Tiền đề lịch sử, văn hóa, xã hội ................................................................. 40
2.2.2. Những thay đổi về tư duy nghệ thuật trong tiểu thuyết ............................. 43
2.2.3. Sự đa dạng về khuynh hướng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại ....... 52
2.3. Khuynh hướng hiện thực – huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam trước và sau
1986 .......................................................................................................................... 55
2.3.1. Khuynh hướng hiện thực – huyền ảo trong văn học Việt Nam trước
1986 .......................................................................................................................... 55
2.3.2. Khuynh hướng hiện thực – huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam sau
1986 .......................................................................................................................... 61
2.4. Tiểu kết......................................................................................................... 67
CHƢƠNG 3: KHUYNH HƢỚNG HIỆN THỰC – HUYỀN ẢO TRONG TIỂU
THUYẾT VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI VỚI CHỨC NĂNG MIÊU TẢ THẾ GIỚI
.................................................................................................................................. 69
3.1. Hiện thực – huyền ảo với việc xử lí đề tài .................................................... 69
3.1.1. Đề tài chiến tranh ...................................................................................... 70
3.1.2. Đề tài nông thôn ........................................................................................ 75
3.1.3. Đề tài đô thị ................................................................................................ 80
3.2. Hiện thực – huyền ảo trong xây dựng nhân vật ............................................ 84
3.2.1. Kiểu nhân vật nghịch dị ............................................................................ 85
3.2.2. Kiểu nhân vật tâm linh, vô thức ................................................................. 88
3.2.3. Kiểu nhân vật hư ảo, ma quái..................................................................... 92
3.3. Hiện thực – huyền ảo với việc kiến tạo không gian và thời gian nghệ thuật ..96
3.3.1. Không gian nghệ thuật .............................................................................. 96
3.3.1.1. Không gian mộng ảo ............................................................................... 96
3.3.1.2. Không gian huyền thoại .......................................................................... 100
3.3.2. Thời gian nghệ thuật .................................................................................. 103
3.3.2.1. Thời gian mang tính phi thời................................................................... 103
3.3.2.2. Thời gian đồng hiện ................................................................................ 107
3.4. Tiểu kết.......................................................................................................... 111
CHƢƠNG 4: KHUYNH HƢỚNG HIỆN THỰC – HUYỀN ẢO TRONG TIỂU
THUYẾT VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI VỚI CHỨC NĂNG BIỂU ĐẠT THẾ GIỚI
....................................................................................................................................... 112
4.1. Hiện thực – huyền ảo với việc tổ chức kết cấu ................................................ 112
4.1.1. Kết cấu mê lộ .................................................................................................. 112
4.1.2. Kết cấu phân mảnh ......................................................................................... 115
4.1.3. Kết cấu đan xen thực - ảo ............................................................................... 120
4.2. Hiện thực – huyền ảo với nghệ thuật xây dựng biểu tượng ............................. 124
4.2.1. Biểu tượng thiên nhiên ................................................................................... 124
4.2.2. Biểu tượng con người ..................................................................................... 128
4.2.3. Biểu tượng văn hóa ......................................................................................... 131
4.3. Hiện thực – huyền ảo với sự nhòe mờ, đa nghĩa của ngôn ngữ tự sự .................... 135
4.3.1. Ngôn ngữ đậm chất “lạ hóa” .......................................................................... 135
4.3.2. Ngôn ngữ biểu đạt cái kì ảo, ma quái ............................................................. 138
4.3.3. Ngôn ngữ vô thức ........................................................................................... 141
4.4. Tiểu kết .............................................................................................................. 144
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 146
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN ................................. 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 152
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Sau 1975, đặc biệt từ sau Đổi mới (1986), văn học Việt Nam đã có sự
chuyển mình mạnh mẽ. Đó là quãng thời gian văn học Việt Nam đạt được nhiều thành
tựu quan trọng, đặc biệt trong lĩnh vực tiểu thuyết. Với tư cách là “cỗ máy cái” của văn
học, tiểu thuyết vẫn chứng tỏ được vai trò hạt nhân trong cấu trúc văn học hiện đại và
đương đại. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều người đã khẳng định thời hiện đại là “thời
của tiểu thuyết”. Cũng bởi thế, đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về tiểu
thuyết, trong đó có không ít nghiên cứu mang tính phát hiện. Tuy nhiên, còn nhiều vấn
đề của tiểu thuyết, đặc biệt là những cách tân nghệ thuật tiểu thuyết vẫn chưa được
tìm hiểu một cách cặn kẽ, hệ thống.
1.2. Trong nhãn quan nghiên cứu hiện đại, lịch sử của tiểu thuyết không phải là
phép cộng của những hiện thực được miêu tả, mà là lịch sử của sự miêu tả, nghĩa là
lịch sử của sự vận động, biến đổi, đặc biệt là những cách tân trong miêu tả hiện thực.
Bởi thế, việc nhận diện các khuynh hướng tiểu thuyết không chỉ mang đến lợi ích
trong phân tích, khám phá những nội dung xã hội được miêu tả, mà còn là những
nghiên cứu, khám phá trên bình diện nghệ thuật tiểu thuyết, nhằm làm cho việc nghiên
cứu tiểu thuyết trở nên toàn diện hơn. Khi nói về tiểu thuyết Việt Nam đương đại, tùy
theo quan điểm lý thuyết, mục đích, yêu cầu cụ thể của sự nghiên cứu, người ta có thể
vận dụng những cách nhìn, cách đánh giá, cách lựa chọn khác nhau khi phân loại trào
lưu, khuynh hướng hay đặc điểm tiểu thuyết... Mỗi cách tiếp cận đều có những ưu thế
và giới hạn riêng trong phân tích và luận giải về sự vận động cũng như tiềm năng của
thể loại lực lưỡng này.
1.3. Đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu công phu về các khuynh hướng
tiểu thuyết đương đại như khuynh hướng nhận thức lại, khuynh hướng lịch sử, khuynh
hướng triết luận, khuynh hướng tiểu thuyết luận đề... Riêng khuynh hướng hiện thực –
huyển ảo trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 cho dến nay vẫn chưa được quan tâm
thích đáng. Sau một thời gian dài, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, đặc
biệt là sự thái quá của cái nhìn duy lý và duy ý chí, yếu tố kỳ ảo, huyền thoại dường
như vắng bóng trong văn học. Từ 1986 đến nay, như một “cân bằng sinh thái”, cái kỳ
ảo đã xuất hiện trở lại, ngày càng đậm đặc hơn và dần hình thành khuynh hướng nghệ
2
thuật: khuynh hướng hiện thực - huyền ảo. Sự xuất hiện của khuynh hướng hiện thực huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại là một bằng chứng sinh động cho thấy
sự cách tân mạnh mẽ trong lãnh địa tiểu thuyết. Xuất phát từ mong muốn tìm hiểu một
cách hệ thống và chuyên sâu về khuynh hướng này, chúng tôi chọn đề tài “Khuynh
hướng hiện thực – huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại” để làm luận án tiến
sĩ. Hy vọng, luận án sẽ góp thêm một tiếng nói mới mẻ về nghiên cứu tiểu thuyết trong
bối cảnh đổi mới văn học hiện nay.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là khuynh hướng hiện thực – huyền ảo trong tiểu thuyết
Việt Nam đương đại.
Luận án chủ yếu tập trung phân tích những tiểu thuyết ra đời sau 1975, đặc biêt
sau 1986 như: Lời nguyền hai trăm năm (1989), Nỗi buồn chiến tranh (1990), Thiên sứ
(1995), Đi tìm nhân vật (2001), Những đứa trẻ chết già (2002), Người sông Mê
(2003), Giã biệt bóng tối (2004), Thiên thần sám hối (2004), Tàn đen đốm đỏ (2004),
Tấm ván phóng dao (2004), Chinatown (2004), Cõi người rung chuông tận thế (2004),
Thoạt kì thủy (2005), Khải huyền muộn (2005), Giàn thiêu (2005), Giữa vòng vây trần
gian (2005), Ngồi (2006), Trí nhớ suy tàn (2006), Cơ hội của Chúa (2006), Và khi tro
bụi (2006), T. mất tích (2006), Mảnh đất lắm người nhiều ma (2006), Mẫu thượng
ngàn (2006), Người đi vắng (2007), Mưa ở kiếp sau (2007), Giữa dòng chảy lạc
(2010), Thang máy Sài Gòn (2010), Thần thánh và bươm bướm (2010), Hoang tâm
(2011), SBC là săn bắt chuột (2011), Rụng xuống ngày hư ảo (2013), Xác phàm
(2014), Kín (2014), Trong sương hồng hiện ra (2015), Người thứ hai (2015)…
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Bên cạnh tập trung tìm hiểu các tiểu thuyết có yếu tố hiện thực - huyền ảo trong
văn học Việt Nam đương đại, chúng tôi mở rộng trường so sánh với tiểu thuyết hiện
thực - huyền ảo trong và ngoài nước ở những giai đoạn khác nhau để làm nổi bật nét
riêng của khuynh hướng hiện thực - huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
3
- Mục đích của luận án là nhận diện, phân tích những đặc điểm cơ bản của
khuynh hướng hiện thực - huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích tiền đề xã hội - thẩm mĩ dẫn đến sự xuất hiện khuynh hướng hiện
thực - huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
- Nhận diện, mô hình hóa và phân tích, làm rõ những đặc điểm cơ bản của tiểu
thuyết viết theo khuynh hướng hiện thực - huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam đương
đại.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp loại hình: Vận dụng tiêu chí loại hình để khu biệt các tác
phẩm viết theo khuynh hướng hiện thực - huyền ảo vơi các khuynh hướng khác trong
tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
4.2. Phương pháp cấu trúc – hệ thống: Đặt tiểu thuyết viết theo khuynh hướng
hiện thực - huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, đồng thời nhận diện cấu
trúc bên trong của loại hình tiểu thuyết này.
4.3. Phương pháp so sánh: Nhằm so sánh sự khác nhau giữa khuynh hướng hiện
thực – huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại với các khuynh hướng khác đã
có ở giai đoạn trước và cùng thời.
4.4. Tiếp cận thi pháp học: Phương pháp này tiếp cận các tác phẩm theo các
phạm trù thi pháp nhằm nghiên cứu các yếu tố tham gia cấu thành thế giới nghệ thuật
trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại viết theo khuynh hướng hiện thực – huyền ảo.
Ngoài các phương pháp chủ yếu trên, chúng tôi còn sử dụng các thao tác khác
như: phân tích – tổng hợp, thống kê, khảo sát, miêu tả… để đưa ra những kết luận
khoa học và thuyết phục.
5. Đóng góp của luận án
5.1. Bước đầu khái quát, hệ thống hóa về sự ra đời, phát triển của tiểu thuyết
hiện thực – huyền ảo trên thế giới và Việt Nam.
5.2. Nhận diện, phân tích những đặc điểm cơ bản của tiểu thuyết hiện thực huyền ảo trong văn học Việt Nam đương đại.
4
5.3. Phân tích, lý giải những cách tân nghệ thuật của tiểu thuyết hiện thực –
huyền ảo Việt Nam đương đại, qua đó góp phần làm sáng tỏ sự đổi mới tư duy nghệ
thuật tiểu thuyết từ 1986 đến nay.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận án
được triển khai thành bốn chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Sự xuất hiện khuynh hướng hiện thực – huyền ảo trong tiểu thuyết
Việt Nam đương đại
Chương 3: Khuynh hướng hiện thực – huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại với chức năng miêu tả thế giới
Chương 4: Khuynh hướng hiện thực – huyền ảo trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại với chức năng biểu đạt thế giới
5
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Khái lƣợc tình hình nghiên cứu về khuynh hƣớng hiện thực – huyền ảo
trong tiểu thuyết trên thế giới
1.1.1. Nghiên cứu về tiểu thuyết
Việc nghiên cứu tìm hiểu về tiểu thuyết trên thế giới khá là đa dạng với nhiều
trường phái, nhiều quan điểm khác nhau. Tuy nhiên, vì nhiều lí do khác nhau chúng tôi
không thể bao quát hết. Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi chỉ nhắc đến những công
trình lí luận tiêu biểu, có ảnh hưởng đến sự vận động của tiểu thuyết Việt Nam đương
đại trong dòng chảy tiểu thuyết thế giới.
Tiểu thuyết là một thể loại quan trọng trong đời sống văn chương trên thế giới.
Theo M.Bakhtin, từ vị thế của kẻ bên lề, tiểu thuyết dần trở thành “nhân vật chính”
trên sân khấu văn học hiện đại. Với tư cách là thể loại có khả năng dung nạp ưu thế
của nhiều thể loại khác, tiểu thuyết mở ra những ô cửa mới để khám phá thế giới trong
sự rộng lớn và thẳm sâu của nó. Tuy nhiên, ở mỗi thời đại khác nhau, chức năng và
cấu trúc của tiểu thuyết cũng khác nhau. Điều đó gắn liền với sự thay đổi của tư duy
nghệ thuật và vị thế của tiểu thuyết trong cộng đồng thể loại. Từ tiểu thuyết tiền hiện
đại đến hiện đại và hậu hiện đại là cả một lịch sử dài. Theo đó, việc nghiên cứu tiểu
thuyết cũng có những thay đổi quan trọng. Phanchelay Zarep trong công trình Sự tiến
triển sáng tạo của tiểu thuyết cho rằng: “Tiểu thuyết là chàng Vergilia đã hóa nên
khiêm tốn nhưng anh minh của chúng ta, đồng thời nó không che đậy cái mặt nạ cũ kỹ
của nhà truyền giáo” [60. tr.64]. Trong sự tiến hóa sáng tạo nội tại của mình, tiểu
thuyết đã có những khám phá phong phú và đa dạng hơn các thể loại khác. Nó mở tầm
nhìn và nhập sâu vào biện chứng của tâm hồn, nhìn rõ cái thiện và cái ác, cái cao cả và
cái bình thường. Vai trò và ý nghĩa của tiểu thuyết càng lớn lên thì những bí quyết
nghệ thuật của nó cũng tăng lên. Tuy nhiên, vào những năm 50 thế kỉ XX, thể loại này
gặp một số khó khăn trước sự lớn mạnh của các phương tiện truyền thông như báo chí,
truyền hình, điện ảnh… Bạn đọc tỏ ra chán nản, không thích đọc tiểu thuyết nữa. Một
số nhà tiểu thuyết có tiếng như J.P. Sartre, Malraux, Aragon, Simone de Beauvoir…
cũng thờ ơ với tiểu thuyết, mặc dù họ là những tiểu thuyết gia lớn. Điều này bộc lộ sự
hạn chế nhất định của thể loại này. Phải chăng tiểu thuyết truyền thống không còn đáp
6
ứng nhu cầu của con người thời hiện đại nữa. Chính vì vậy mà, thuật ngữ “Tiểu thuyết
mới” đã xuất hiện ở Pháp vào khoảng những năm 50 thế kỉ XX. Tiếng vang của nó có
hầu hết ở các nước phương Tây, nhất là ở Mỹ khá lớn, thậm chí còn lớn hơn ảnh
hưởng thực của nó. Trong công trình Alain Robbe – Grillet và sự đổi mới tiểu thuyết,
Lê Phong Tuyết đã giới thiệu đến bạn đọc nhóm Tiểu thuyết mới với các tác giả như:
Nathalie Sarraute , Michel Butor, Claude Simon, đặc biệt tác giả quan tâm nhiều đến
sự đóng góp của Alain Robbe – Grillet trong sự đổi mới tiểu thuyết. Theo như chính
các nhà Tiểu thuyết mới tự đánh giá thì: “Tiểu thuyết mới không phải là một trào lưu
văn học. Đó chỉ là một sự tìm tòi thôi” [60. Tr.7], tìm tòi một con đường để đổi mới
tiểu thuyết.
Xu hướng đổi mới của các nhà tiểu thuyết trên thế giới là mong muốn: “Trả cho
tác giả cái vị trí thích hợp với nó đồng thời buộc anh ta phải từ bỏ cách nhìn coi bản
thân mình như là một siêu nhân được trời phú cho đức tiên tri nhìn thấu mọi thứ có
mặt mọi nơi, để lĩnh lấy cái quyền được là người của thời đại chúng ta với những yêu
cầu dân chủ của nó” [60. tr.76]. Những tác giả được coi là “người tiên tri toàn năng
biết mọi thứ trên đời như nhà văn Balzac, hoặc vị trí của nhà chuẩn đoán tâm lý trong
tiểu thuyết của Pruxt, giờ đây đang bị chiếm giữ bởi một sinh thể hư ảo, tuyệt vọng, nó
hoàn toàn không có khả năng biểu đạt khúc chiết tư tưởng của mình” [60. tr.77].
Khuynh hướng hiện thực những năm cuối thế XIX và đầu thế kỉ XX đã sản sinh ra
những người tiên tri, những người thư kí biết mọi thứ trên đời từ tiểu thuyết của
Balzac và Lev Tolstoy, đến tiểu thuyết của Sholokhov và trong chừng mực nào đó của
Stendhal, Dickonz… Balzac với Tấn trò đời đã vẽ nên một bức tranh xã hội Paris nửa
đầu thế kỉ XIX một cách chân thực và đầy đủ mọi khía cạnh đúng như tinh thần
nguyên tắc phản ánh hiện thực của khuynh hướng hiện thực. Tấn trò đời của Balzac
được xem như là khuôn mẫu cho khuynh hướng hiện thực, đưa khuynh hướng này lên
đến đỉnh cao chói lọi những năm cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX.
Khuynh hướng hiện thực cố gắng tái hiện thực tế một cách toàn vẹn, chân thực,
lịch sử cụ thể, và nhìn thấy ý nghĩa, tác dụng xã hội của nghệ thuật trong tính đúng đắn
của sự miêu tả, trong tính chân thực đầy sức thuyết phục của hình tượng được sáng
tạo. Chính vì vậy mà Stendhal quan niệm rất rõ tiểu thuyết hiện thực “như tấm gương
di chuyển trên đường, khi phản ánh trời xanh, khi phản ánh bùn lầy nhưng cá nhân
7
nghệ sĩ không thể, không được giống tấm gương dửng dưng lãnh đạm” [137. tr.170].
Tuy nhiên, nếu cứ đi theo lối mòn này thì tiểu thuyết sẽ trở thành một món ăn “nhai đi
nhai lại” đến phát ngán đối với độc giả. Chính vì vậy, vào những năm năm mươi của
thế kỉ XX, một cuộc cách mạng đổi mới tiểu thuyết nổ ra rầm rộ ở khắp các nước trên
thế giới. Khi nói về sự đổi mới tiểu thuyết, tác giả Alain Robbe - Grillet từng đặc câu
hỏi: “Hãy xem – họ sẽ nói – trong những năm năm mươi người ta đã biết sáng tạo
những câu chuyện như thế nào!” [167. tr.40]. Những câu chuyện mà họ sáng tạo chắc
chắn sẽ khác với kiểu Tấn trò đời của Balzac, Sông Đông êm đềm của Sholokhov,
Chiến tranh và hòa bình của Lev Tolstoy … Các nhà tiểu thuyết mới không phải hoàn
toàn phủ nhận cốt truyện và tình tiết nhưng họ quyết không để cốt truyện chi phối bạn
đọc. Vì thế, “họ đưa ra những tiểu thuyết mà cốt truyện rất lỏng lẻo, nếu như không
nói là không có nó” [167. tr.9], coi tiểu thuyết là một “mê lộ”. Còn cách xây dựng
nhân vật có tính cách điển hình như trong tiểu thuyết truyền thống không phải là hiện
thực vì nó tước mất mặt “mờ tối” của hiện thực. Và “muốn tìm ra mặt mờ tối đó, phải
đi sâu vào việc khai thác tiềm thức” [167. tr.10]. Về thời gian được các nhà tiểu thuyết
mới phân tích, mổ xẻ dưới nhiều hình thức. Đó là,“thời gian trong Tiểu thuyết mới
không đi theo trình tự thông thường mà theo cái lô gíc tư duy. Nó có thể đan xen quá
khứ - hiện tại – tương lai” [167. tr.10]. Điều này chứng tỏ đã có một sự thay đổi lớn
trong cách viết tiểu thuyết trước sự phát triển lớn mạnh của phương tiện truyền thông
vào những năm 50, 60 thế kỉ XX trên thế giới.
Alain - Robbe - Grillet là một đại diện tiểu biểu của nhóm Tiểu thuyết mới,
ngoài các tác phẩm là tiểu thuyết, ông còn có một tuyển tập tiểu luận đáng chú ý đó là
Vì một tiểu thuyết mới (Lê Phong Tuyết dịch). Công trình này tập trung các bài viết
của Alain Robbe - Grillet về sự thay đổi tư duy trong tiểu thuyết. Ông kêu gọi: “Mỗi
tiểu thuyết gia, mỗi quyển tiểu thuyết, cần tạo ra hình thức riêng cho mình” [167.
tr.14]. Alain – Robbe - Grillet đả phá tính liên tục kiểu tiểu thuyết truyền thống. Ông
chủ trương: “Tự do sáng tạo một cách tuyệt đối là sức mạnh của tiểu thuyết hiện đại”
[167. tr.27]. Đặc biệt Alain Robbe - Grillet rất coi trọng “miêu tả”. Đối với ông miêu
tả có chức năng sáng tạo vì thế ông chủ trương miêu tả các sự kiện, đồ vật mà không
gán cho chúng một ý nghĩa nào. Trong cách miêu tả của Alain Robbe - Grillet:
“Không những cho thấy sự vật mà còn phá vỡ sự vật” [167. tr.28]. Ở đây, vai trò của
8
trí tưởng tượng và liên tưởng được phát huy mạnh mẽ trong sáng tạo nghệ thuật. Khi
nhắc đến các tác phẩm của Flaubert và Kafka, ông ca ngợi sự sáng tạo ở hai nhà văn
này, đặc biệt là sự sáng tạo trong việc miêu tả. Alain Robbe - Grillet đã nhận định: “Sự
say mê miêu tả khích lệ cả hai tác giả, chính nó là thứ người ta tìm thấy lại trong tiểu
thuyết mới hôm nay” [167. Tr.17]. Khi bàn về vấn đề nội dung và hình thức trong một
tiểu thuyết, ông cho rằng: “Giữa văn học hàn lâm của phương Tây và văn học kinh
viện của phương Đông chỉ có bài học là khác” [167. Tr.49], còn một câu chuyện hay,
lôi cuốn người đọc hay không phụ thuộc vào sự sáng tạo của nhà tiểu thuyết.
Trong công trình Số phận của tiểu thuyết (nhóm biên dịch Lại Nguyên Ân,
Nguyên Minh, Phong Vũ) đã tập hợp nhiều bài viết với các ý kiến khác nhau về tiểu
thuyết từ các tác giả trên thế giới. Đặc biệt trong công trình này các nhà lí luận, phê
bình quan tâm nhiều đến khu vực tiểu thuyết châu Âu và khu vực tiểu thuyết Mỹ
Latin. Hai khu vực này được xem là nơi có nền tiểu thuyết phát triển mạnh mẽ và có
tiếng vang lớn. Các cuộc tranh luận, các bài viết đều hướng tới việc tìm tòi và mổ xẻ
phân tích một hướng đi nào đó của tiểu thuyết, các tựa đề bài viết luôn có tính chất
luận đề như: Tiểu thuyết và tương lai, Lời nguyện cầu cho tiểu thuyết, Tiểu thuyết hiện
thời – chết hay đang biến hóa, Tiểu thuyết đi về đâu, Sự tiến triển sáng tạo của tiểu
thuyết, Tiểu thuyết ngày nay, Những khả năng của tiểu tuyết, Về một vài vấn đề sáng
tạo của tiểu thuyết, Mấy vấn đề của tiểu thuyết hiện thời… Các tác giả của các bài viết
đều hướng tới một vấn đề đặt ra là tương lai của tiểu thuyết sẽ đi về đâu trước sự thay
đổi lớn mạnh của đời sống hiện đại. Các nhà lí luận, phê bình cho rằng: “Tiểu thuyết
truyền thống với cốt truyện, hình tượng, bối cảnh xã hội có lẽ không thể là sự tương
đương về nghệ thuật, hoặc là sự tương xứng khách quan của cuộc sống hiện đại với
những mê cung và những hỗn độn của nó” [60. tr.104]. Đứng trước sự thay đổi lớn của
thời đại thì “tiểu thuyết cũng như bất cứ tác phẩm nghệ thuật nào khác, phải nhạy bén
với những biến đổi của thời gian” [60. tr.138].
M. Bakhtin trong công trình Lý luận và thi pháp tiểu thuyết đặt ra vấn đề về lý
thuyết và thể loại, ngôn ngữ trong tiểu thuyết. Khi bàn về vấn đề thể loại tiểu thuyết
như là một thể loại văn học luôn chuyển động, tác giả lí giải: “Do được xây dựng trong
khu vực tiếp xúc với những sự kiện đương diễn biến trong hiện tại, tiểu thuyết nhiều
khi phá rào, bước qua mọi ranh giới đặc trưng của văn học – nghệ thuật: lúc thì nó
9
biến thành một bản quyết giảng đạo đức, lúc thì nó biến thành một khảo luận triết học,
lúc thì nó trở thành một diễn văn chính trị (…). Tất cả các hiện tượng này là hết sức
đặc thù cho tiểu thuyết như một thể loại luôn luôn biến chuyển [10. tr.66]. Bàn về tính
đối thoại trong ngôn ngữ tiểu thuyết, M. Bakhtin cho rằng đó không đơn giản là
chuyện người này đối thoại với người kia mà điều quan trọng là đối thoại về tư tưởng,
quan điểm nằm trong chính phát ngôn của họ. Ông nhấn mạnh: “Chính sự định hướng
đối thoại của lời nói con người giữa những lời nói của người khác (với tất cả mọi mức
độ tính chất xa lạ) tạo cho ngôn từ những khả năng nghệ thuật mới và cốt yếu, tạo nên
tính văn xuôi nghệ thuật đặc thù mà biểu hiện đầy đủ nhất và sâu sắc nhất là ở trong
tiểu thuyết” [10. tr.93]. Vừa có ý nghĩa phương pháp luận, vừa có giá trị thực tiễn,
những luận điểm mà M. Bakhtin đặt ra trong công trình này (nói riêng về tiểu thuyết)
có thể xem như kim chỉ nam cho các nhà nghiên cứu sau này. Những vấn đề mà M.
Bakhtin đã lí giải (chẳng hạn như lí thuyết Canaval) đã tạo tiền đề cho nhiều nhà văn,
nhà nghiên cứu sau ông mở rộng và phát triển, qua đó giúp người đọc hiểu được thế
giới đặc thù của nghệ thuật, một thế giới thứ hai khác biệt với thế giới thường nhật.
Ngoài công trình trên, M. Bakhtin còn có công trình Những vấn đề thi pháp
Đôxtôiepxki (Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch). Công trình này
được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau và ở đâu cuốn sách cũng gây được hứng thú
sâu sắc, thúc đẩy sự tìm tòi những vấn đề thi pháp trong tiểu thuyết. Nhất là thi pháp
liên văn bản, giải cấu trúc, kí hiệu học…trong tiểu thuyết nói riêng và văn xuôi nói
chung.
Nếu như M. Bakhtin quan tâm đến “tính đối thoại” trong ngôn ngữ tiểu thuyết
thì M. Kundera trong cuốn Nghệ thuật tiểu thuyết lại chủ trương một quan niệm mới
mẻ và độc đáo về tiểu thuyết. Ông cho rằng: “Khi đọc đến phần cuối một cuốn sách,
anh phải còn đủ sức nhớ lại phần đầu. Nếu không cuốn tiểu thuyết sẽ thành dị hình,
tính sáng sủa về kết cấu sẽ tối sầm lại” [98. tr.74]. M. Kundera cũng bày tỏ sự lạc quan
khi đề cập đến những khả năng mà tiểu thuyết hoàn toàn có thể vươn tới. Thêm vào
đó, M. Kundera cũng mở ra cho các nhà tiểu thuyết khả năng sáng tạo vượt ra ngoài
ranh giới quan niệm về thể loại khi ông nói tới bốn tiếng gọi mà tiểu thuyết đã bỏ lỡ:
Tiếng gọi của trò chơi, tiếng gọi của giấc mơ, tiếng gọi của tư duy và tiếng gọi của
thời gian. Xây dựng tác phẩm trên tinh thần “trò chơi” này, tiểu thuyết sẽ không đi
10
theo con đường cũ và cũng không đến những nơi đã đến. Các ý kiến về nghệ thuật tiểu
thuyết của M. Kundera đã chạm đến vấn đề căn cốt của tiểu thuyết hiện đại. Nó không
mang tính hàn lâm nhưng lại có sự hòa trộn kinh nghiệm của một người viết tiểu
thuyết và sự sắc sảo của một nhà phê bình.
Ngoài những công trình chuyên sâu nghiên cứu về tiểu thuyết trên còn có một
số công trình nghiên cứu khác cũng bàn luận đến tiểu thuyết từ các tác giả nước ngoài
như: Độ không của lối viết của Roland Barthes (Nguyên Ngọc dịch), Bản mệnh của lí
thuyết văn chương và cảm nghĩ thông thường của Antoine Compagnon (Lê Hồng Sâm,
Đặng Anh Đào dịch), Cấu trúc văn bản nghệ thuật của IU.M. Lotman (Trần Ngọc
Vương, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy dịch), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự
phát triển của văn học của M.B. Khravchenco (Lê Sơn dịch), Thi pháp văn xuôi của
Tzretan Todorov (Đặng Anh Đào, Lê Hồng Sâm dịch)…
1.1.2. Nghiên cứu về khuynh hướng hiện thực – huyền ảo trong tiểu thuyết
Việc nghiên cứu về khuynh hướng hiện thực – huyền ảo trên thế giới khá là đa
dạng với nhiều trường phái, nhiều quan điểm khác nhau. Tuy nhiên, vì nhiều lí do
khác nhau chúng tôi không thể bao quát hết. Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi chỉ
nhắc đến sự nghiên cứu khuynh hướng hiện thực – huyền ảo trong tiểu thuyết ở khu
vực Mỹ Latin là chủ yếu.
Nhắc đến tiểu thuyết thì Mỹ Latin là một trong những khu vực tạo nên bước
ngoặt lớn trong sự phát triển mạnh mẽ của thể loại này. Khi đặt câu hỏi: Tiểu thuyết
giữ vị trí ra sao trong toàn bộ văn học Mỹ Latin? Nhà văn Hoakin Gutiêrrex cho rằng:
“Tiểu thuyết Mỹ Latin ngày càng sâu sắc hơn trong việc xây dựng những hình tượng
điển hình phức tạp ngày càng có giá trị hơn, xứng đáng đứng ngang hàng với những
tác phẩm muôn thuở lưu danh trong các mẫu mực thế giới cao nhất của thể loại này”
[60. tr.131]. Phong trào đổi mới tiểu thuyết từ các nước phương Tây những năm 50
của thế kỉ XX phần nào đó tác động đến tiểu thuyết khu vực Mỹ Latin. Nhà phê bình
văn học Chile J. Loveluck cho rằng: “Tiểu thuyết Mỹ Latin có bắt chước những thành
tựu của tiểu thuyết thế giới, nhưng đã cách tân, đã tiến lên một trình độ khác, cao hơn
rất nhiều” [76. tr.128]. Tại Hội nghị Văn học quốc tế Washington, nhà nghiên cứu văn
học M. P. Gonzales coi những năm 60 của thế kỉ XX là giai đoạn mới về chất trong
lịch sử tiểu thuyết Mỹ Latin. Ông cho rằng: “Sự nảy sinh ra thứ tiểu thuyết Mỹ Latin
11
theo ông là do ảnh hưởng của “tiểu thuyết mới” Tây Âu, đặc biệt là Pháp – loại tiểu
thuyết mà ông khẳng định là tiêu biểu cho sự suy đồi sâu sắc” [76. tr.128]. Tuy nhiên ý
kiến này của Gonzales không được mọi người trong Hội nghị Washington hoan
nghênh, họ cho rằng: “Tiểu thuyết Mỹ Latin ít nhiều có chịu ảnh hưởng của “tiểu
thuyết mới” Tây Âu, nhưng không phải ở tư tưởng suy đồi mà ở chỗ nó tiếp thu có
chọn lọc những kỹ thuật để diễn đạt những nội dung tiến bộ một cách hấp dẫn” [76.
tr.131]. Vấn đề này cũng có khá nhiều ý kiến khác nhau. Ngược lại với những ý kiến
trên thì F. Alegria trong bài Phong cách tiểu thuyết hay phong cách cuộc sống lại
khẳng định: “Phong cách tiểu thuyết ở Mexico, Argentina, Colombia, Chile và một số
nước khác ở châu Mỹ Latin gắn liền với phong cách cuộc sống ở những nước đó” [76.
tr.129]. Sự kết hợp giữa thần thoại của thổ dân da đỏ với trí tuệ của văn minh hiện đại,
sự pha trộn giữa các yếu tố hiện thực và hoang đường đã tạo ra một hệ thẩm mỹ đặc
biệt và đó chính là một sản phẩm rất đặc trưng của tiểu thuyết Mỹ Latin hiện đại. Sự
cách tân tiểu thuyết Mỹ Latin hiện đại ở chỗ nào? Tác giả J. Roy trả lời rằng: “Những
người đại diện cho tiểu thuyết mới Mỹ Latin có ý thức tách khỏi những truyền thống
của tiểu thuyết cổ điển. Họ tiến hành những sự tìm tòi táo bạo, thể nghiệm trong những
khuynh hướng đa dạng nhất, sử dụng lối kết cấu đa thanh, những nguyên lý và bố cục
điện ảnh, dòng ý thức, lối đối thoại cùng một lúc” [76. tr.104].
Trải qua một quá trình học hỏi và tiếp thu, người Mỹ Latin đã đến lúc làm ra cái
của riêng mình trong văn học nói riêng, trong nghệ thuật nói chung. Cái riêng đó chính
là sự ra đời khuynh hướng hiện thực - huyền ảo hay được gọi là Chủ nghĩa hiện thực
huyền ảo Mỹ Latin. Khuynh hướng hiện thực - huyền ảo ra đời ở văn học Mỹ Latin
nhằm vượt qua mô hình phản ánh hiện thực của chủ nghĩa hiện thực trước đó. Trong
công trình History of Latin America (1992), Edwin Williamson đã xác định cuộc thử
nghiệm sớm nhất của chủ nghĩa Hiện thực huyền ảo diễn ra ở Brazil với cuốn tiểu
thuyết Macunaima của Mario de Andrade. Tác giả Edwin Williamson viết: “Trong
Macunaima, những cuộc du ngoạn của một nhân vật dân gian biến hóa như thần Prote
khắp đất nước Brazil được kể lại trong câu chuyện không mạch lạc, lạ lùng, đan xen
với sự kỳ lạ mang tính thơ ca và sự gợi nhớ huyền thoại” [76. tr.136]. Tuy nhiên, nhiều
nhà nghiên cứu cho rằng người đặt nền móng đầu tiên cho chủ nghĩa hiện thực huyền
ảo Mỹ Latin là M. A. Asturias và A. Carpentier. A. Asturias từng phát biểu về khuynh
12
hướng nghệ thuật trong sáng tác của ông như sau: “Có thể gọi chủ nghĩa hiện thực của
tôi là “huyền ảo”, bởi vì một phần nó giống với các nhà siêu thực xử lý các giấc mơ
của họ, nhưng đồng thời nó cũng giống với các thổ dân Maya dựng lại thực tại trong
những cuốn sách thiêng liêng của họ” [76. tr.136]. Xác định được khuynh hướng nghệ
thuật ngay từ khi có cái gọi là “ồn ào” về tính chất hiện thực kì diệu trong tiểu thuyết
Mỹ Latin, chính vì vậy từ tác phẩm nổi tiếng Ngài tổng thống (1949) đến những tác
phẩm gây ấn tượng khác như: Những vị thần ngô (1956), Giáo hoàng xanh (1954),
Cơn bão (1956), Mắt những người bị chôn (1960)… và một số tác phẩm sau này của
Asturias đều sáng tác theo khuynh hướng hiện thực - huyền ảo.
Nếu nói về tính chất hiện thực kì diệu trong chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ
Latin thì Carpentier là người đầu tiên đã đúc kết kinh nghiệm và phát hiện ra tính chất
này, cũng là người đầu tiên đưa ra lý luận về chủ nghĩa hiện thực huyền ảo trong văn
học Mỹ Latin. Trong công trình nghiên cứu Alejo Carpentier và thi pháp của chủ
nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ Latin, Carlos khẳng định: “Carpentier là người đầu tiên
phát hiện ra chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ Latin”. Tác giả còn cho rằng quan niệm
phản ánh hiện thực của Carpentier là: “Dựng lại những sự kiện từng xảy ra, từng được
quan sát, được nhớ lại và tập hợp lại, sau đó biến chúng thành một cơ thể hoàn chỉnh,
một cơ thể sống” [76. tr137]. Dấu ấn hiện thực huyền ảo có khắp các sáng tác của ông
từ tiểu thuyết Vương quốc trần gian, Những dấu chân đã mất đến Vụ nổ trong thánh
đường, Cuộc săn đuổi, Lẽ của nhà nước… hướng tới tính kỳ diệu và tính siêu thực
như một phương thức để nhận thức Mỹ Latin. Khác với tiểu thuyết châu Âu, tiểu
thuyết Mỹ Latin với khuynh hướng hiện thực - huyền ảo tràn đầy sức sống, sức sáng
tạo. Nhưng cũng phải nói rằng, dù huyền ảo đến đâu cũng cần có nền tảng là hiện thực,
một hiện thực Mỹ Latin.
Người ta bắt đầu tìm thấy tính chất kì diệu của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo từ
những năm 40, 50 thế kỉ XX trong sáng tác của các tác giả như: Borges, Macedonio
Fernandez, Roberto Arlt và Leopoldo Marechal… Chất kì diệu đưa vào các truyện của
họ “nhằm phá vỡ ý tưởng cho rằng tiểu thuyết có thể đơn giản phản ánh hiện thực hay
nhà văn có thể hành động như một nguồn tác giả có căn cứ đích xác của hiện thực”
[76. tr.52]. Nhưng phát triển rực rỡ nhất của khuynh hướng này là vào những năm 60
thế kỉ XX với hàng loạt nhà văn Mỹ Latin đã gặt hái rất thành công như: Juan Rulfo,
13
Carlos Fuentes, Juan Ghi – Maraes Rosa, Agusto Roa Bastos, Julio Cortazar, Mario
Vargas Llosa… đặc biệt là Franz Kafka - một nhà văn lỗi lạc Cộng hòa Séc và Gabriel
Garcia Marquez - thiên tài văn chương người xứ Aracataca (Comlombia).
Franz Kafka, một nhà văn lỗi lạc Cộng hòa Séc, người được suy tôn là một
trong những bậc thầy vĩ đại nhất của nhân loại trong lĩnh vực văn chương. Trong công
trình Thời đại hiện nay và số phận của tiểu thuyết, tác giả E. F. Towrrutsenkô cho
rằng: “Kafka được xem là người khai sinh ra khuynh hướng hiện thực huyền ảo thế kỉ
XX, người sử dụng giọng văn trắng khi trần thuật và đan cài trong tác phẩm của mình
những yếu tố hiện thực và hoang đường một cách độc đáo” [11. tr.40]. Đặc trưng
xuyên thấm trong toàn bộ sáng tác của Kafka là cái thực và cái ảo không bao giờ tách
biệt nhau mà chúng hòa quyện với nhau như là một bản thể mang tính hai mặt: “trong
thực có ảo trong ảo có thực”. Trong lối viết của Kafka: “Cái hiện thực đời sống được
Kafka tổ chức làm biến dạng đi trở thành cái huyễn hoặc huyền ảo nhưng câu chuyện
lại hết sức mạch lạc, chính xác đến từng chi tiết khiến không khí huyền ảo huyễn hoặc
trở nên thật hơn cả hiện thực [11. Tr.160]. Tiểu thuyết Vụ án (The trial, 1925) được
xem là một trong những kiệt tác về sự chuyển hóa từ cái bình thường thành cái nghịch
dị của Kafka. Tiểu thuyết không chỉ đề cập đến sự phi lí của cái án mà Joseph K. bị
buộc phải mang mà còn đề cập đến nhiều cái phi lí khác như pháp luật, nạn hối lộ, thói
quan liêu, cửa quyền vô trách nhiệm của cả một hệ thống thống trị. Tác giả Alain
Robbe - Grillet nhận định tiểu thuyết Kafka: “Cái thế giới nhìn thấy được trong các
tiểu thuyết của ông là tốt, đối với ông, thế giới thực và cái thế giới đó dấu đằng sau
(nếu như có) có vẻ không có giá trị trước sự hiển nhiên của các vật, các động tác, lời
nói… Hiệu quả ảo giác xuất phát từ sự rõ ràng tuyệt đối của chúng chứ không phải là
sự trôi nổi hay sương mù. Tóm lại, không có sự hư ảo hơn sự chính xác” [54. Tr.206].
Khuynh hướng hiện thực - huyền ảo có mặt hầu như trong sáng tác của Kafka từ tiểu
thuyết Vụ án, Lâu đài đến các truyện ngắn như Hóa thân, Giấc mơ, Lời tuyên án, Làng
gần nhất…
Tác giả đưa chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ Latin lên đỉnh cao nhất đó là
Gabriel Garcia Marquez với tiểu thuyết Trăm năm cô đơn. Trăm năm cô đơn được giới
nghiên cứu phê bình văn học Anh, Mỹ và châu Âu đánh giá: “Có thể là một tác phẩm
vĩ đại nhất của văn học Mỹ Latin và văn học thế giới và chắc chắn là một tác phẩm
14
được nhiều người biết đến nhất” [76. Tr.138]. Cuốn tiểu thuyết không chỉ đưa tên tuổi
nhà văn Marquez lên tầm cao mới với giải thưởng Nobel Văn học năm 1982, nó còn
đưa tiểu thuyết Mỹ Latin mà đặc trưng là chủ nghĩa hiện thực huyền ảo vượt ra khỏi
khu vực Mỹ Latin đến với nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Nhà nghiên
cứu văn học người Nga V. Stolbov nhận định: “Marquez đã sáng tạo ra một tác phẩm
không những duy nhất trong văn học Mỹ Latin mà cả trong văn học thế giới hiện đại”
[76. Tr..139]. Ngay từ khi mới ra đời, Trăm năm cô đơn đã là một hiện tượng văn học
trong thế giới nói tiếng Tây Ban Nha. Không lâu sau tác phẩm được dịch ra nhiều thứ
tiếng trên thế giới. Tác phẩm được đánh giá là sản phẩm tuyệt vời của hư cấu nghệ
thuật. Chính vì vậy, tác phẩm được giới nghiên cứu văn học trên khắp thế giới bàn
luận sôi nổi và đánh giá cao. Khi nói đến Trăm năm cô đơn là nói đến chủ nghĩa hiện
thực huyền ảo, vì thế các công trình nghiên cứu thường ca ngợi tác phẩm như một biểu
tượng chói lọi của khuynh hướng này. Trong công trình Phê bình hậu hiện đại về
Trăm năm cô đơn của G. G. Marquez, Jofer Serapio (đăng tải trên trang web: http://
jofer serapio.wordpress.com) cho rằng: “Yếu tố thể hiện rõ nhất tính hậu hiện đại trong
tác phẩm này là hiện thực huyền ảo. Và nhà văn có sự pha trộn nhiều thể loại, lãng
mạn, lịch sử, kì ảo”. Như vậy khuynh hướng hiện thực - huyền ảo trong Trăm năm cô
đơn của Marquez không chỉ dừng lại ở tính chất văn học hiện đại mà nó còn chạm đến
tinh thần hậu hiện đại trên thế giới. Điều đó cho thấy khuynh hướng này đã mở ra
nhiều xu hướng viết khác nhau, nhà văn có thể tự do sáng tạo không phải làm một
người thư kí trung thành của mọi thời đại như Balzac hay Sholokhov, Lev Tolstoy như
thời kì trước.
Vượt lên trên các nhà tiên tri thời kì chủ nghĩa hiện thực, Marquez không chỉ
làm sống dậy tiểu thuyết Mỹ Latin mà còn làm sống dậy các nền tiểu thuyết khác trên
thế giới. Trăm năm cô đơn của ông đã đi khắp các châu lục, được nhiều quốc gia trên
thế giới xem như là biểu tượng tiểu thuyết Mỹ Latin. Vì vậy, sức lan tỏa của khuynh
hướng hiện thực - huyền ảo cũng không chỉ dừng lại ở các vùng lân cận châu Mỹ
Latin, ở châu Âu mà nó đã tràn sang các khu vực châu Á. Nhất là các nước như Nhật
Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc… trong đó có Việt Nam. Chính vì vậy, khuynh hướng
hiện thực - huyền ảo đã tác động rất lớn đến văn học Việt Nam đương đại, nhất là ở
thể loại tiểu thuyết.
- Xem thêm -