Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khủng hoảng nộ công hy lạp và bài học kinh nghiệm đối với việt nam...

Tài liệu Khủng hoảng nộ công hy lạp và bài học kinh nghiệm đối với việt nam

.DOC
40
48
70

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ BỘ MÔN KINH TẾ QUỐC TẾ ------------ ĐỀ ÁN MÔN HỌC ĐỀ TÀI: KHỦNG HOẢNG NỘ CÔNG HY LẠP VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM Giáo viên hướng dẫn Sinh viên Lớp Khóa Hệ Mã SV : PGS.TS NGUYỄN NHƯ BÌNH : NGUYỄN THỊ HỒNG HOA : KINH TẾ QUỐC TẾ A : 51 : Chính quy : CQ511417 HÀ NỘI, 06/2012 ĐỀ TÀI KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG Ở HY LẠP VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM MỤC LỤC Lời nói đầu................................................................................................................ 1/ KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG............................................................................... 1.1 Khái niệm:........................................................................................................ 1.2 Khái quát về cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu......................................... 2/ KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG Ở HY LẠP............................................................. 2.1 Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng nợ công Hy Lạp.................................... 2.2 Diễn biến của khủng hoảng........................................................................... 2.3 Biện pháp của Hy Lạp đối với cuộc khủng hoảng........................................ 2.4 EUROZONE đối với cuộc khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp......................... 2.5 Tác động của nợ công ở Hy Lạp.................................................................... 3/ THỰC TRẠNG NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM.......................................................... 3.1 Thực trạng nợ công ở Việt Nam..................................................................... 3.2 Bài học của nợ công cuả Hy Lạp đối với Việt Nam...................................... 3.3 Giải pháp phòng ngừa nợ công của Việt Nam............................................... 4/ KẾT LUẬN.......................................................................................................... TỪ VIẾT TẮT N/A: Not Available ( không thể tính được) OECD :Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế S&P: Standard & Poor( là một trong ba cơ quan xếp hạng tín dụng lớn và uy tín nhất thế giới) IMF: Quỹ tiền tệ Quốc tế EFSF: Quỹ Bình ổn Tài chính châu Âu EFSF: Quỹ Công cụ Ổn định Tài chính Châu Âu Hiệp ước Maastricht :Hiệp ước về Liên minh châu Âu WB: Ngân hàng thế giới Lời nói đầu Trong hơn 50 năm hình thành và phát triển, Liên minh châu Âu - EU đã trở thành tổ chức liên kết khu vực thành công nhất trên thế giới. Quá trình phát triển EU đồng thời là quá trình hoàn thiện hệ thống thể chế chính trị, hướng tới xây dựng EU thành một nhà nước “Liên bang”. Và sự ra đời của đồng euro trên thực tế không chỉ dừng lại ở "giấc mơ" tạo sự gắn kết và thuận lợi hơn trong khu vực châu Âu, một cách tham vọng hơn, các nhà quản trị châu Âu muốn euro trở thành một loại "vũ khí" để làm đối trọng với đồng USD đang thống trị toàn thế giới. Giấc mơ đó không phải không có cơ sở, bởi trên thực tế với hai đầu tàu kinh tế hùng mạnh lúc bấy giời là Đức và Pháp, hơn 300 triệu người dân châu Âu hoàn toàn bị thuyết phục vào một tương lai tươi sáng của đồng tiền chung. Tuy nhiên "giấc mơ" châu Âu hợp nhất như sụp đổ hoàn toàn khi "đám cháy" bắt đầu từ Hy Lạp bắt đầu lan rộng. Năm 2012, châu Âu đánh dấu hành trình 10 năm phát triển của đồng tiền chung trong một không khí vô cùng ảm đạm. Lo ngại về khủng hoảng tài chính và tiền tệ các quốc gia có chung mối quan tâm là vấn đề nợ công. Hầu hết các nước đều đang duy trì một mức nợ nước ngoài nhất định. Thế nhưng, tình trạng khủng hoảng nợ công tại châu Âu lại khiến nỗi lo sợ vỡ nợ lan nhanh ra hầu khắp các khu vực. Sự sụp đổ của hai nền kinh tế từng được coi là những hình mẫu tăng trưởng của châu Âu là những bài học nhỡn tiền đối với tất cả các nước, bất kể là giàu hay nghèo. Thế giới, trong đó có Việt Nam, có thể học được gì từ đây? 1/ KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG 1.1 Khái niệm: Nợ công hoặc nợ quốc gia là tổng giá trị các khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách, vì thế, nợ chính phủ, nói cách khác, là thâm hụt ngân sách luỹ kế tính đến một thời điểm nào đó. Để dễ hình dung quy mô của nợ chính phủ, người ta thường đo xem khoản nợ này bằng bao nhiêu phần trăm so với tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Nợ chính phủ thường được phân thành: Nợ trong nước (các khoản vay từ người cho vay trong nước) và nợ nước ngoài (các khoản vay từ người cho vay ngoài nước). Việc đi vay của chính phủ có thể được thực hiện thông qua phát hành trái phiếu chính phủ để vay từ các tổ chức, cá nhân. Trái phiếu chính phủ phát hành bằng nội tệ được coi là không có rủi ro tín dụng vì chính phủ vì có thể tăng thuế thậm chí in thêm tiền để thanh toán cả gốc lẫn lãi khi đáo hạn. So với trái phiếu chính phủ phát hành bằng nội tệ, trái phiếu chính phủ phát hành bằng ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh có cầu lớn) có rủi ro tín dụng cao hơn vì chính phủ có thể không có đủ ngoại tệ để thanh toán, thêm vào đó còn có thể xảy ra rủi ro về tỷ giá hối đoái. Ngoài việc vay bằng cách phát hành trái phiếu nói trên, chính phủ cũng có thể vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các thể chế tài chính quốc tế, chẳng hạn Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)… Hình thức vay này thường được chính phủ của các nước có độ tín cậy tín dụng thấp áp dụng vì khi đó khả năng vay nợ bằng hình thức phát hành trái phiếu chính phủ của họ không cao 1.2 Khái quát về cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu Khủng hoảng nợ công châu Âu là một cuộc khủng hoảng nợ công với điểm bùng nổ đầu tiên là Hy Lạp vào đầu năm 2010 khi chi phí cho các khoảng nợ Chính phủ liên tục tăng lên; cụ thể là lợi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 2 năm của Hy Lạp liên tục tăng cao từ 3,47% vào tháng 01 năm 2010, lên 9,73% thời điểm tháng 07 năm 2010 và nhảy vọt lên 26,65%/năm vào tháng 07 năm 2011. Cuộc khủng hoảng sau đó đã lan sang Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và tiếp theo là Ý trong khu vực đồng euro. Pháp đang là quốc gia có nhiều nguy cơ tụt hạng tín dụng. Cộng hòa Sip cũng đã bị đẩy tới bờ vực để nhận gói cứu trợ. Từ cuối năm 2009, lo ngại về cuộc khủng hoảng nợ quốc gia gia tăng giữa các nhà đầu tư liên quan đến một số nước châu Âu, mối lo sợ này tăng lên vào đầu năm 2010. Các quốc gia có vấn đề về nợ công trong khu vực châu Âu bao gồm các thành viên Hy Lạp, Ireland, Ý, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, và cũng có một số khu vực châu Âu không thuộc Liên minh châu Âu. Iceland, đất nước trải qua cuộc khủng hoảng tài chính lớn nhất trong năm 2008 khi toàn bộ hệ thống ngân hàng quốc tế của nó sụp đổ, ít bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng nợ công. Trong Liên minh châu Âu, đặc biệt là ở các nước nơi các khoản nợ công tăng mạnh do kế hoạch giải cứu ngân hàng, khủng hoảng niềm tin dấy lên với việc mở rộng lây lan lãi suất trái phiếu và bảo hiểm rủi ro giao dịch hoán đổi tín dụng mặc định giữa các nước này và các nước thành viên EU khác, quan trọng nhất là Đức. Ngày 2/5/2010, các nước thành viên khu vực đồng euro và Quỹ Tiền tệ Quốc tế đã thông qua khoản vay 110 tỷ euro cho Hy Lạp, với điều kiện nước này phải thực thi các biện pháp thắt lưng buộc bụng khắc nghiệt. Ngày 09/05/2010, Bộ trưởng Bộ Tài chính châu Âu đã thông qua gói giải cứu trị giá 750 tỷ euro nhằm đảm bảo sự ổn định tài chính ở khu vực châu Âu, và lập ra Ủy ban Ổn định Tài chính châu Âu. Tiếp theo đó là gói cứu trợ trị giá 85 tỷ euro cho Ireland vào tháng 11 năm 2010 và 78 tỷ euro cho Bồ Đào Nha vào tháng 5 năm 2011. Cuộc khủng hoảng nợ công đã đe dọa sự tồn tại của đồng tiền euro, gây ảnh hưởng nền tài chính toàn cầu, khiến cho thủ tướng Hy Lạp và thủ tướng Ý phải từ chức. Ngày 6/2/2012 Chính phủ Romania là chính phủ thứ 6 ở châu Âu sụp đổ do khủng hoảng nợ 2/ KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG Ở HY LẠP Cho đến nay, cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu đã kéo dài gần 3 năm, các nỗ lực cứu trợ cũng như các chương trình thắt lưng buộc bụng của các Chính phủ vẫn không ngừng được đưa ra nhưng tình hình thậm chí ngày càng xấu đi. Trong cuộc khủng hoảng này, Hy Lạp là cái tên được người ta nhắc đến nhiều nhất. Hy Lạp được đặt vào tình trạng khủng hoảng nợ công kể từ cuối năm 2009, khi Chính phủ mới của nước này thừa nhận rằng Chính phủ tiền nhiệm đã công bố những số liệu kinh tế không trung thực, đặc biệt là về thâm hụt ngân sách. Thực tế thâm hụt ngân sách của nước này năm 2009 là 13,6% chứ không phải là 6,7% GDP như đã từng được báo cáo, cao hơn nhiều hạn mức thâm hụt ngân sách 3% GDP cho phép đối với các nước thành viên EU. 2.1 Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng nợ công Hy Lạp 2.1.1Nguyên nhân chủ quan Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp xuất phát từ nguyên nhân chính là khả năng quản trị tài chính công yếu kém cùng với những khoản chi tiêu của chính phủ quá lớn, vượt khả năng kiểm soát. Nhưng có thể phân định rõ 5 nhóm nguyên nhân chủ yếu.  Thứ nhất: tiết kiệm trong nước thấp dẫn tới phải vay nợ nước ngoài cho chi tiêu công. Thập niên 90 tỷ lệ tiết kiệm trong nước bình quân của Hy Lạp chỉ ở mức 11%, thấp hơn nhiều so với mức 20% của các nước như Bồ Đào Nha, Ý, Tây Ban Nha và đang có xu hướng sụt giảm nhanh chóng. Do vậy, đầu tư trong nước phụ thuộc khá nhiều vào các dòng vốn đến từ bên ngoài. Lợi tức trái phiếu liên tục giảm nhờ vào việc gia nhập liên minh châu Âu EU (năm 1981) và làn sóng bán tháo trái phiếu từ dân chúng cho thấy Hy Lạp đã để vuột khỏi tay một kênh huy động vốn sẵn có buộc chính phủ Hy Lạp tăng cường vay nợ tài trợ cho chi tiêu công. khủng hoảng nợ bắt nguồn từ những chính sách duy trì đồng euro mạnh và lãi suất quá thấp trong gần thập kỉ qua ở khu vực châu Âu. Tận dụng lợi thế đó, Hi Lạp đã dễ dãi vay mượn với số nợ khổng lồ lên đến 400 tỉ $. Các tổ chức tài chính, bao gồm cả Goldman Sachs, cũng đã góp phần vào quá trình này bằng việc tạo ra các hợp đồng tài chính phức tạp giúp chính phủ trước đây của Hi Lạp che giấu mức độ thâm hụt ngân sách của mình. Khi kinh tế toàn cầu lâm vào khủng hoảng thì cũng là lúc Hi Lạp gặp khó khăn trong việc thanh toán các khoản nợ và gần như mất khả năng kiểm soát thâm hụt ngân sách.  Thứ hai: chi tiêu công tăng cao dẫn đến thâm hụt ngân sách. Tăng trưởng GDP của Hy Lạp vẫn được ca ngợi với tốc độ tăng trung bình hàng năm là 4,3% (2001 – 2007) so với mức trung bình của khu vực Eurozone là 3,1%. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, mức chi tiêu chính phủ tăng 87% trong khi mức thu của chính phủ chỉ tăng 31%, khiến cho ngân sách thâm hụt vượt quá mức cho phép 3% GDP của EU. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), chi tiêu cho quản lý công trong tổng số chi tiêu công của Hy Lạp năm 2004 đã cao hơn nhiều so với các nước thành viên OECD khác trong khi chất lượng và số lượng dịch vụ không được cải thiện nhiều. Năm 2008, khủng hoảng tài chính toàn nổ ra đã ảnh hưởng khá mạnh đến các ngành công nghiệp chủ chốt của Hy Lạp. Ngành du lịch và vận tải biển, doanh thu đều sụt giảm trên 15% trong năm 2009. Kinh tế Hy Lạp cũng lâm vào tình trạng khó khăn, nguồn thu để tài trợ cho ngân sách nhà nước bị co hẹp mạnh. Trong khi đó Hy Lạp lại phải tăng cường chi tiêu công để kích thích kinh tế hỗ trợ nền kinh tế vượt qua khủng hoảng. Tính đến tháng 01/2010, nợ công của Hy Lạp ước tính lên tới 216 tỷ Euro và mức nợ lũy kế đạt mức 130% GDP. Sự già hóa dân số và hệ thống lương hưu vào loại hào phóng bậc nhất khu vực châu Âu của Hy Lạp cũng được coi là một trong những gánh nặng cho chi tiêu công. Ước tính tổng số tiền chi trả cho lương hưu khu vực công của Hy Lạp sẽ tăng từ 11,5% GDP (2005) lên 24% (2050). Ngoài ra, do kinh tế lún sâu hơn vào suy thoái, mặc dù đã cam kết những chính sách khắc khổ nhằm giảm thâm hụt ngân sách nhưng thâm hụt ngân sách trong 8 tháng đầu năm 2011 của Hy Lạp đã lên tới 18,1 tỷ euro (24,67 tỷ USD), tăng mạnh so với 14,813 tỷ euro cùng kỳ năm ngoái. , thâm hụt ngân sách Hy Lạp lại chủ yếu gây ra bởi trình độ quản lý công yếu kém.  Thứ ba: nguồn thu giảm sút cũng là một nhân tố dẫn tới tình trạng thâm hụt ngân sách và gia tăng nợ công. Trốn thuế và hoạt động kinh tế ngầm ở Hy Lạp là nhân tố làm giảm nguồn thu ngân sách. Theo đánh giá của WB, kinh tế không chính thức ở Hy Lạp chiếm tới 25 - 30% GDP(so với mức 15,6% GDP của Việt Nam; 13,1% GDP của Trung Quốc và Singapore; 11,3% GDP của Nhật Bản). Hệ thống thuế với nhiều mức thuế cao và bộ luật phức tạp cùng với sự điều tiết dư thừa và thiếu hiệu quả của cơ quan quản lý là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trốn thuế và kinh tế ngầm phát triển ở Hy Lạp. , Hy Lạp là một trong những nước có tỷ lệ tham nhũng cao nhất trong EU. Năm 2008, hơn 13% người Hy Lạp đã chi tới 750 triệu EUR tiền phong bì cho các lãnh đạo khu vực công và khu vực tư, trong đó có bác sĩ là những người đòi nhiều tiền hơn cho các cuộc phẫu thuật; các nhà quy hoạch thành phố và các quan chức ở địa phương cũng liên quan đến những vụ việc nhận hối lộ... Thủ tướng Hy Lạp George Papandreou thừa nhận “tham nhũng mang tính hệ thống” là vấn đề cơ bản nhất dẫn đến tình trạng nợ công Hy Lạp. Thiệt hại mà tham nhũng gây ra cho Hy Lạp ước tính vào khoảng 8% GDP. Tham nhũng không chỉ gây ra trốn thuế, nó còn làm tăng chi tiêu chính phủ  Thứ tư: sự tiếp cận dễ dãi với nguồn vốn đầu tư nước ngoài và việc sử dụng nguồn vốn không hiệu quả. Bên cạnh đó, việc gia nhập Eurozone năm 2001 là cơ hội lớn để Hy Lạp có thể tiếp cận với thị trường vốn quốc tế với việc sử dụng một đồng tiền được những nền kinh tế lớn như Đức và Pháp bảo đảm cùng với sự quản lý chính sách tiền tệ của Ngân hàng TƯ châu Âu (ECB). Nhờ việc gia nhập Eurozone Hy Lạp nghiễm nhiên có được hình ảnh ổn định cao và chắc chắn trong mắt các nhà đầu tư, dễ dàng thu hút vốn đầu tư nước ngoài với mức lãi suất thấp. Gần một thập kỷ qua, Chính phủ Hy Lạp liên tục bán trái phiếu để thu về hàng trăm tỷ USD. Số tiền này lẽ ra có thể giúp kinh tế Hy Lạp tiến rất xa nếu chính phủ có kế hoạch chi tiêu hợp lý. Tuy nhiên, chính phủ Hy Lạp đã chi tiêu quá tay (phần lớn cho cơ sở hạ tầng) mà hầu như không quan tâm đến các kế hoạch trả nợ.  Thứ năm: thiếu tính minh bạch và niềm tin của các nhà đầu tư. Sự thiếu minh bạch trong số liệu thống kê của Hy Lạp đã làm mất niềm tin của các nhà đầu tư mà quốc gia này đã tạo dựng được với tư cách là một thành viên của Eurozone và nhanh chóng xuất hiện các làn sóng rút vốn ồ ạt khỏi các ngân hàng của Hy Lạp, đẩy quốc gia này vào tình trạng khó khăn trong việc huy động vốn trên thị trường vốn quốc tế. Sự phụ thuộc vào nguồn tài chính nước ngoài đã khiến cho Hy Lạp trở nên rất dễ bị tổn thương trước những thay đổi trong niềm tin của giới đầu tư. Trong thời đại hội nhập, thì minh bạch luôn là một đòi hỏi lớn của các nhà đầu tư. Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp do chính phủ không minh bạch các số liệu, cố gắng vẽ nên bức tranh sáng, màu hồng về tình trạng ngân sách về những chính sách sắp ban hành để khắc phục những khó khăn về ngân sách hay vấn đề kinh tế vĩ mô do vậy, hiệu lực của những chính sách đó sẽ bị hạn chế nhiều. 2.1.2 Nguyên nhân khách quan  Gia nhập vội vã. Theo hiệp ước Maastricht, trong đó có quy định mức bội chi của ngân sách phải nhỏ hơn hoặc bằng 3% GDP. Và theo quy định thì Hy Lạp không đủ điều kiện để gia nhập vào khu vực đồng tiền chung Châu Âu vào tháng 51998. Nhưng ngày 1-1-2001,mặc dù vẫn chưa đủ tiêu chuẩn nhưng Hy Lạp vẫn được chấp thuân gia nhập vào khu vực đồng tiền chung. 2.2 Diễn biến của khủng hoảng Từ những ngày đầu gia nhập khu vực đồng tiền chung châu Âu vào tháng 1/2001 sau khi gây áp lực nhằm vượt qua tiêu chuẩn nợ công 3% GDP của eurozone, Hy Lạp có một thời kỳ dài thâm hụt ngân sách. Tăng trưởng GDP đạt 4,3% (2001 - 2007), cao hơn so với mức trung bình của eurozone là 3,1% nhưng chi tiêu chính phủ Hy Lạp tăng tới 87% trong khi mức thu chỉ tăng 37%. Sau công cuộc đầu tư "khủng" cho Thế vận hội Athens năm 2004, Hy Lạp còn lại một ngân sách rỗng với tỷ lệ bội chi khoảng 8%, cao gấp gần 3 lần tiêu chuẩn của eurozone. Năm 2008, khi khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra, các ngành công nghiệp chủ đạo của Hy Lạp đều bị ảnh hưởng mạnh. Ngành du lịch và vận tải biển đều có mức sụt giảm doanh thu tới 15%. Nguồn thu để tài trợ ngân sách bị hạn chế, Chính phủ lại buộc phải tăng chi tiêu công nhằm kích thích tăng trưởng. Tính đến tháng 1/2010, nợ công của Hy Lạp ước đạt 216 tỷ euro, nợ lũy kế bằng 130% GDP. Trong gần một thập kỷ, chính phủ Hy Lạp liên tục bán trái phiếu để thu về hàng trăm tỷ USD và đầu tư dàn trải vào cơ sở hạ tầng trong khi không hề có kế hoạch trả nợ. Sự phụ thuộc vào nguồn tài chính nước ngoài khiến Hy Lạp dễ chịu tổn thương khi niềm tin nhà đầu tư thay đổi. "Giọt nước tràn ly" trong trường hợp của Hy Lạp là việc bị phanh phui những dối trá trong số liệu báo cáo của chính phủ tiền nhiệm. Ngày 20/10/2009, tân thủ tướng George Papandreou khẳng định thâm hụt ngân sách trong tài khóa 2009 phải ở mức 12,5%, gấp hơn 4 lần giới hạn cho phép của một quốc gia sử dụng đồng euro. Và cuộc khủng hoảng nợ bắt đầu vào tháng 12/2009 khi tình trạng thâm hụt ngân sách khổng lồ mà nước này đang mắc phải đưuọc công khai. Các nhà đầu tư bị sốc mạnh. Vào đầu năm 2010, nỗi lo sợ về khả năng mất thanh toán của Hi Lạp đã chuyển thành sự hoảng loạn tài chính khi các nhà đầu tư nghi ngờ khả năng của chính phủ Hi Lạp trong việc thực hiện các biện pháp cứng rắn như cam kết nhằm cắt giảm thâm hụt ngân sách. Khi sự sợ hãi này lan sang cả với Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha vì sự sụp đổ của Hi Lạp có thể kéo theo sự sụp đổ dây truyền của hàng loạt các tổ chức tài chính ở các quốc gia liên quan như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ai-xơ-len, Anh, Đức, Pháp,… do mối quan hệ tài chính phức tạp chằng chịt giữa họ. Các nhà lãnh đạo của các nước có ảnh hưởng lớn ở châu Âu như Đức và Pháp bắt đầu lo ngại về sự nguy hại kéo dài của nó đối với đồng euro. Họ cam kết bảo vệ đồng tiền của khu vực nhưng từ chối một gói cứu trợ ngay đối với Hi Lạp. Nhiều nhà kinh tế cho rằng, gói cứu trợ kinh tế, nếu có, thực chất là giảicứu cho cả khu vực châu Âu chứ không chỉ riêng mình Hi Lạp. Không còn bức tranh kinh tế đầy màu hồng và những lời hứa hẹn về chính sách khắc phục tình trạng thâm hụt ngân sách, Hy Lạp tiếp tục bán trái phiếu để có tiền cho ngân sách. Lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 2 năm của Hy Lạp liên tục tăng cao từ 3,47% vào tháng 1/2010, lên 9,73% thời điểm tháng 7/2010 và nhảy vọt lên 26,65% một năm vào tháng 7/2011. Những ngày cuối tháng 12/2010, Chính phủ Hy Lạp thông qua dự thảo ngân sách với dự báo thâm hụt 9,1%. Định mức tín nhiệm quốc gia này tiếp tục bị đánh tụt về mức BBB- của S&P. Một lần nữa, Quốc hội nước này lại điều chỉnh mức thâm hụt ngân sách về 8,7% và cắt giảm quỹ lương khoảng 4%. Từ đây, Hy Lạp rơi vào thời gian dài bất ổn xã hội do làn sóng biểu tình phản đối của người dân. Nội lực không đủ vực dậy nền kinh tế lớn thứ 27 thế giới, Hy Lạp trở thành mắt xích yếu nhất của eurozone. Châu Âu không thể để Hy Lạp vỡ nợ bởi những hệ lụy đổ vỡ hệ thống ngân hàng, mất khu vực đồng tiền chung và kéo theo nhiều quốc gia khác rơi vào hiệu ứng domino Cũng trong tháng 4/2010, ông Papandreou đã chính thức thỉnh cầu gói cứu trợ trị giá 60 tỉ $ nhằm cứu con tàu kinh tế đang chìm dần. Giới đầu tư quốc tế tiếp tục hạ thấp mức tín nhiệm của trái phiếu chính phủ Hi Lạp, điều này khiến Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và các đối tác của Hi Lạp ở châu Âu buộc phải đứng ra cam kết một gói cứu trợ lớn hơn. Vào ngày 11/4/2010 các nhà lãnh đạo châu Âu thông báo hứa sẽ cho chính phủ Hi Lạp vay 30 tỉ $, cùng với khoản vay 15 tỉ $ từ IMF, với mức lãi suất 5% - thấp hơn so với mức lãi suất 7,5% mà Hi Lạp đang phải trả, tuy nhiên nó cũng đủ lớn để các quan chức của Đức cho rằng đó không phải là một sự trợ cấp hay giải cứu đối với Hy Lạp. Tháng 5/2010, các nhà lãnh đạo eurozone và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) công bố gói cứu trợ kỳ hạn 3 năm trị giá 110 tỷ euro dành cho Hy Lạp. Sau đó, vào tháng 10/2010, IMF cho Hy Lạp vay thêm 2,5 tỷ euro (3,3 tỷ USD), nâng tổng giá trị các khoản vay khẩn cấp mà IMF dành để ngăn chặn khả năng vỡ nợ của nước này lên 10,58 tỷ euro (tương đương 13,98 tỷ USD). Đổi lại, chính phủ Hi Lạp phải đáp ứng những cam kết cắt giảm nợ trong vòng 3 năm tới. Chính phủ Hi Lạp đã đồng ý thực hiện các biện pháp thắt lưng buộc bụng và nhiều khả năng thâm hụt ngân sách sẽ giảm nhưng đồng thời cũng nhiều khả năng gây ra một chu kifkhungr hoảng kinh tế mới cho nước này. Tuy nhiên, thị trường tiếp tục hoài nghi với các khoản vay được cam kết này, các nhà đầu từ tiếp tục đẩy lãi suất đối với trái phiếu chỉnh phủ Hi Lạp lên cao hơn cả trái phiếu chính phủ của các nước đang phát triển như Ấn Độ và Philippines. Điều đó khiến Hi Lạp lầm vào tình thế khó khăn hơn trên thị trường tài chính và buộc ông Papandreou phải kêu gọi giải ngân ngay các khoản vay này nhằm tránh sự lo ngại leo thang. Từ tháng 5/2010 và 6/2011, Ngân hàng Trung ương Châu Âu đã mua khoảng 45 tỷ euro trái phiếu chính phủ Hy Lạp. Ngoài ra, các khoản hỗ trợ thanh khoản mà ECB dành cho các ngân hàng Hy Lạp đã tăng từ mức 47 tỷ euro vào tháng 1/2010 lên mức 98 tỷ euro vào tháng 5/2011. Ngày 18/5/2010 Hi Lạp đã nhận được khoản vay đầu tiên trong gói cứu trợ kéo dài 3 năm của 10 nước châu Âu, trong đó có Đức, và IFM nhằm tránh khả năng phá sản. Gói cứu trợ kéo dài 3 năm này được đưa ra nhằm giúp Hi Lạp không cần dựa vào thị trường tài chính cho tới cuối năm 2011 và quý đầu của năm 2012. Tuy nhiên bộ trưởng tài chính Hi Lạp Papaconstantinou cho rằng nước này có thể không cần phải đợi đến thời gian đó nếu kinh tế Hi Lạp hồi phục và niềm tin của các nhà đầu tư trên thị trường tài chính đối với trái phiếu chính phủ Hi Lạp quay trở lại. Khoản giải ngân ngày 18/5 đã giúp Hi Lạp trả món nợ trị giá 8,5 tỉ euro đáo hạn vào ngày hôm sau. Khoản nợ tiếp theo mà chính phủ Hi Lạp cần phải chi trả trị giá 8,6 tỷ euro sẽ đáo hạn vào tháng 3/2011. Như vậy, sau khi những lời hứa thất bại trong việc lấy lại niềm tin của thị trường tài chính vào Hi Lạp thì phần đầu tiên của gói cứu trợ đã thực sự được giải ngân. Những lo ngại về khả năng tuyên bố phá sản và quỵt nợ của Hi Lạp hầu như không còn nữa. Giá trị đồng euro, thể hiện niềm tin của giới đầu tư vào khu vực châu Âu, đã tăng nhẹ trở lại. Cái mà thế giới đang quan tâm lúc này chính là khả năng phục hồi của kinh tế Hi Lạp cũng như tác động của nó đến kinh tế thế giới mà đầu tàu là kinh tế Mĩ. Đáp lại, ngày 21/10/2010, Hy Lạp thông qua chính sách tiết kiệm ngân sách mới bao gồm tăng thuế, cắt giảm trợ cấp, sa thải 30.000 công chức trước áp lực nợ công lên tới 162% GDP. Sau nhiều lần trì hoãn, gói cứu trợ thứ 2 trị giá 130 tỷ euro đã được thành viên cuối cùng của châu Âu là Đức thông qua nhằm giúp đưa nợ công quốc gia này giảm về gần 121% GDP vào năm 2020. Tháng 3/2012, các chủ nợ tư nhân đồng ý hoán đổi 85% nợ cho Hy Lạp, giúp cắt giảm khoảng 100 tỷ EUR nợ khỏi nghĩ vụ nợ của quốc gia này. Ngay lập tức, ngày 9/3, Fitch và Moody’s đồng loạt tuyên bố Hy Lạp đã vỡ nợ. Trước đó, vào ngày 28/2, Athens cũng bị một hãng định mức tín nhiệm hàng đầu khác là S& P xem là đã vỡ nợ một phần. Châu Âu có thể cứu được Hy Lạp với thỏa thuận hoán đổi nợ kỷ lục, với những gói cứu trợ lên tới hàng trăm tỷ EUR, nhưng Hy Lạp không còn là vấn đề duy nhất của khu vực này. Cơn hỗn loạn tài chính đã lan đến Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và tiếp theo sẽ là Italy. Ngày 14/3/2012, các nước khu vực châu Âu đã phê duyệt gói cứu trợ thứ hai 130 tỷ Euro cho Hy Lạp. Gói cứu trợ này sẽ giúp Hy Lạp thoát khỏi tình trạng vỡ nợ trong thời gian ngắn Theo Chủ tịch các Bộ trưởng tài chính khu vực đồng tiền chung Euro cho biết Cơ sở ổn định Tài chính Châu Âu (EFSF) từng được các thành viên trong khu vực ủy quyền quyết định đưa ra gói cứu trợ đầu tiên là 39,4 tỷ Euro cho Hy Lạp theo đề án được giải ngân theo nhiều đợt. Trong khi các khoản cứu trợ bắt đầu được rót cho Hy Lạp, các cơ quan xếp hạng tín nhiệm cũng đã xem xét lại mức tín nhiệm nợ của nước này. Việc thỏa thuận hoán đổi nợ đã giúp Hy Lạp bớt đi đáng kể mối lo về nợ nần cũng như giảm nguy cơ tái diễn những khó khăn ngắn hạn trong thanh toán nợ. Cùng với đó, triển vọng kinh tế - tài chính của Hy Lạp cũng được nhận định tương đối lạc quan. Sau khi thông qua khoản hỗ trợ mới cho Hy Lạp, IMF nhận định đất nước này sẽ thoát khỏi suy thoái vào năm 2014. IMF dự báo kinh tế Hy Lạp sẽ giảm 4,8% trong năm 2012, không tăng trưởng trong năm 2013 và tăng trưởng 2,5% vào năm 2014. Mức nợ của Hy Lạp sẽ từ 163% GDP trong năm 2012 lên 167% GDP vào năm 2013, song sau đó sẽ từng bước giảm xuống 116,5% GDP vào năm 2020, trong khi mục tiêu là 120% GDP. 2.3 Biện pháp của Hy Lạp đối với cuộc khủng hoảng Trước tình hình khủng hoảng Hy Lạp đã có những biện pháp đối với cuộc khủng hoảng. 2.3.1 Hy Lạp và cải cách kinh tế - Đầu tháng 3/2010 chính phủ Hi Lạp đã phê chuẩn một kế hoạch cắt giảm chi tiêu bao gồm: cắt giảm lương của khu vực công, tăng thuế, và cắt giảm lương hưu. Những biện pháp thắt lưng buộc bụng khó khăn này đã gặp phải sự phản ứng giận dữ từ công chúng khi mà có tới 1/3 lực lượng lao động thuộc khu vực nhà nước. Các nhà phân tích cho rằng, các cuộc biểu tình có thể là tín hiệu khởi đầu của một xã hội bất ổn. Nó có thể làm tê liệt và đẩy nền kinh tế lún sâu vào suy thoái. - Tăng thuế VAT từ 21% lên 23%, giữ nguyên tiền lương và bỏ tiền thưởng của khu vực công. Đồng thời, các thành viên quốc hội sẽ không nhận tiền thưởng. Những quy định đặc biệt cho phép về hưu sớm sẽ được thắt chặt và chính phủ dự định tăng thuế đối với nhiên liệu, thuốc lá, và rượu khoảng 10%. Hi Lạp hi vọng những cải cách kinh tế sẽ giúp thâm hụt ngân sách của Hi Lạp giảm xuống còn 8,1% GDP trong năm nay, so với mức 13,6% của năm 2009. Theo quy định của EU, các nước nên giới hạn thâm hụt ngân sách không quá 3% GDP nếu không muốn bị trừng phạt. Hi Lạp dự kiến sẽ cắt giảm thâm hụt ngân sách xuống còn 4,9% vào năm 2013 và xuống dưới mức giới hạn của EU vào năm 2014. - Tuy nhiên, kế hoạch này tiếp tục khiến hàng nghìn người Hy Lạp biểu tình phản đối ở Thủ đô Athens và vì nền kinh tế đang lâm vào suy thoái và thất nghiệp cao, việc thắt chắt chặt tài khóa trong khi không có khả năng nới lỏng tiền tệ, chỉ làm cho mọi thứ xấu thêm, lại càng bị cuốn nhanh hơn vào vòng suy thoái, khi khu vực sản xuất, sức mua của người dân sụt giảm. Nếu kịch bản đen tối này xảy ra thì Hy Lạp lại càng lâm vào thế hiểm nghèo. Do vậy, có lẽ còn phải rất lâu nữa kinh tế Hi Lạp mới thoát khỏi khủng hoảng hiện tại. 2.3.2 Thực hiện “Chương trình tăng trưởng và ổn định Hy Lạp” Theo Bộ trưởng Tài chính Hy Lạp thì trong bối cảnh đang mắc phải nhiều vấn đề rối ren về tài chính, nước này trông đợi một giải pháp từ phía Châu Âu, tuy nhiên, các cuộc thảo luận đang diễn ra cho thấy, tình thế là khá phức tạp. Bộ trưởng Tài chính cho rằng, đây không chỉ là vấn đề của riêng Hy Lạp mà còn là sự ổn định và tương lai của toàn bộ khu vực Euro zone. Và cách đảm bảo tốt nhất đối với Hy Lạp hiện giờ là việc tuân thủ nghiêm túc “ chương trình tăng trưởng và ổn định Hy Lạp”. Ngoài ra, theo ông Papaconstantinou thì chương trình này sẽ mang lại nhiều thành công bởi nó được dựa trên những vấn đề cải cách mang tính triệt để. 2.4 EUROZONE đối với cuộc khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp Mặc dù chỉ chiếm 2% GDP của EU, nhưng khủng hỏang nợ của Hy Lạp sẽ tác động mạnh tới sự ổn định của đồng Euro, tạo nên phản ứng dây chuyền đối với các nền kinh tế trong khu vực. Những quốc gia nắm giữ số lượng lớn trái phiếu của Hy Lạp như Pháp, Đức, Thụy Sỹ đứng trước nguy cơ mất trắng số trái phiếu này nếu Hy Lạp vỡ nợ, điều này tác động đến ngân sách của các nước chủ nợ. Do Hy Lạp dùng đồng Euro, bê bối về tài chính của họ làm suy yếu đồng tiền này và có thể sẽ làm tỷ giá trên tòan châu Âu tăng cao. Những rắc rối về nợ công ở Hy Lạp đã châm ngòi cho cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất trong lịch sử 11 năm của khu vực sử dụng đồng tiền chung Euro. Với số nợ 404 tỉ USD (113% GDP) của Hy Lạp nếu không được giải quyết sớm sẽ gây ảnh hưởng đến cả châu Âu, nền kinh tế Mỹ và nhiều quốc gia khác, có nguy cơ đẩy hàng vạn người lao động đến tình cảnh thất nghiệp. Nếu không được kiểm soát tốt, khủng hoảng sẽ đe dọa đến sự ổn định của 16 nước đang dùng đồng tiền chung Euro và rất có thể lan sang Đại Tây Dương đến nước Mỹ. Trong bối cảnh khủng hoảng nợ này, đồng đô la Mỹ đang mạnh hơn đồng Euro. Theo quy luật thị trường, đồng tiền mạnh hơn sẽ làm cho hàng hóa Mỹ xuất đi châu Âu có giá đắt hơn. Thêm vào đó, giá trị của đồng Euro ở châu Âu đang giảm mạnh, tỉ giá giữa Euro và USD càng ngày càng chênh lệch lớn. Hai yếu tố này sẽ khiến các công tychâu Âu không thể mua nhiều sản phẩm đến từ nước Mỹ. lãnh đạo EU và IMF đã ra "tối hậu thư" yêu cầu Hy Lạp làm sáng tỏ những quan ngại nảy sinh sau tuyên bố gây sốc của Thủ tướng nước này là ông Papandreou về việc tiến hành cuộc trưng cầu ý dân về thỏa thuận cứu trợ Hy Lạp do Hội nghị thượng đỉnh EU đưa ra tại Bỉ hôm 26.10 và lần đầu tiên công khai thảo luận về khả năng một nước thành viên phải ra khỏi Khu vực đồng euro (Eurozone). Các nhà lãnh đạo Pháp và Đức khẳng định muốn Hy Lạp tiếp tục ở lại Eurozone, nhưng cảnh báo Hy Lạp không được phép "tự mình chèo thuyền theo một hướng". Tổng Giám đốc IMF cũng khẳng định IMF chỉ quyết định có giải ngân khoản cứu trợ thứ 6 dành cho Hy Lạp hay không sau khi Athen hoàn tất cuộc trưng cầu ý dân sắp tới. Theo Tổng thống Hy Lạp Sarkozy, quyết định của Athen tổ chức trưng cầu ý dân về thỏa thuận cứu trợ mới phải được gắn liền với việc Hy Lạp sẽ tiếp tục ở lại hay ra khỏi Eurozone, vì người châu Âu không thể tiếp tục chịu đựng thời kỳ bất ổn kéo dài như hiện nay. Ông nhấn mạnh, lãnh đạo EU không muốn đồng euro bị phá hủy, người dân Hy Lạp có quyền đưa ra quyết định của mình, song "có những nguyên tắc phải được tôn trọng" và "EU phải chịu trách nhiệm về sự ổn định của Eurozone". Ông cho biết, EU và IMF không thể giải n`gân khoản cứu trợ thứ 6 trị giá 8 tỷ euro trong gói cứu trợ thứ nhất dành cho Athen cho đến khi Hy Lạp tán thành thỏa thuận cứu trợ mới. Các nhà quan sát cảnh báo nếu không nhận được số tiền này trong vài tuần tới, Hy Lạp sẽ rơi vào tình trạng vỡ nợ, thậm chí không có tiền trả lương cho viên chức. EUROZONE đã có nhưng hành động để giải quyết cuộc khủng hoảng này. 2.4.1 Tài trợ cho Hy Lạp: Sau khi quyết định tài trợ 110 tỷ € cho Hy Lạp trong vòng 3 năm, lãnh đạo khối đồng Euro cho rằngrằng mọi việc sẽ từng bước ổn định. Thế nhưng, thị trường tài chính không như mong muốn, thậm chí, có người còn cho rằngngoài Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, thì có thể cả Ý và Pháp cũng gặp khó khăn. Theo tính toán của ngân hàng Natixis thì từ năm 2010 đến 2012, Bồ Đào Nha sẽ cần 65 tỷ €, Tây Ban Nha 410 tỷ. Các bộ trưởng tài chính khối các nước sử dụng đồng euro (eurozone) đã chính thức thông qua gói giải cứu thứ hai cho Hy Lạp, bao gồm 130 tỉ euro (173 tỉ USD) sau cuộc họp kéo dài hơn 13 giờ ngày 20/2/2012 tại Brussels, Bỉ. Thông bào chính thức ngày 14/3/2012,một ngày trước khi Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế(IMF) bỏ phiếu thông qua khoản đống góp của quỹ này. Như vậy, Hy Lạp gần như chắc chắn sẽ nhận được trên 100 tỷ euro trong 3 năm tới từ quỹ Công cụ Ổn định Tài chính Châu Âu(EFSF), bắt đầu với khoản hỗ trợ 5,9 tỷ Euro vào tháng 3. 3,3 tỷ vào tháng 4 và 5,3 tỷ vào tháng 5 Các bộ trưởng từ 17 nước thuộc eurozone đã trao cho Hy Lạp nguồn tài chính mà nước này cần có để tránh vỡ nợ vào tháng tới. Trong khi thỏa thuận mới này cung cấp cho Hy Lạp khoản trợ giúp ngắn hạn thì những ngày khó khăn đang ở phía trước khi chính phủ cố gắng cắt giảm món nợ xuống 121% GDP cả nước vào năm 2020. Sau 5 năm khủng hoảng, tổng nợ của Hy Lạp hiện vào khoảng 160% GDP. Để nhận được gói hỗ trợ 130 tỷ euro và được khu vực tư nhân xóa một phần nợ tương đương với 100 tỷ euro, Hy Lạp đã phải chấp nhận hàng loạt các biện pháp cắt giảm chi tiêu, giảm lương công nhân viên chức nhà nước, kể cả mức lương tối thiểu, tiền thù lao của nhân viên trong khu vực tư nhân hay tiền hưu trí. Chính quyền của Thủ tướng Papademos cũng đã chấp nhận sa thải hàng loạt công nhân viên nhà nước, đóng cửa nhiều dịch vụ công cộng, trong đó có trường học, bệnh viện... Hàng triệu người Hy Lạp than phiền rằng, họ đã hy sinh đủ rồi và họ không biết làm cách nào để có thể xoay sở trong tình trạng lương bổng và quyền lợi bị cắt giảm. Hôm 21/2, hàng nghìn người Hy Lạp biểu tình tại Athens để phản đối các biện pháp "thắt lưng buộc bụng" của Chính phủ. Trong khi đó, nợ công của Hy Lạp ngày càng chồng chất. Tổng sản phẩm nội địa của nước này trong quý IV/2011 giảm 7%, tỷ lệ thất nghiệp lên tới 20 % và một nửa thanh niên không có việc làm. Tổng Giám đốc Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), nói rằng sau những cuộc thương thuyết giải cứu Hy Lạp, quyết định mới giúp Hy Lạp đủ thời gian để cải thiện khả năng cạnh tranh và mục đích của các điều kiện mới là tạo ra sức tăng trưởng cho nền kinh tế nước này. Thông báo về thỏa thuận của nhóm, đại diện eurozone nhấn mạnh chương trình mới này sẽ đem lại “sự ổn định ở Hy Lạp và khu vực châu Âu như một toàn thể”, eurozone ý thức đầy đủ về những cố gắng đáng kể của người dân Hy Lạp nhưng cũng đòi hỏi nhiều nỗ lực hơn từ phía xã hội Hy Lạp để đưa nền kinh tế trở về quỹ đạo phát triển có thể chấp nhận được. 2.4.2 Xóa bớt nợ Hội nghị thượng đỉnh Liên minh châu Âu (EU) lần hai tại Brussels (Bỉ) đã kết thúc thành công, với việc thông qua một thỏa thuận quan trọng, gồm ba điểm then chốt, nhằm xoa dịu những lo ngại trên các thị trường về nguy cơ sụp đổ của khu vực sử dụng đồng euro (Eurozone) nếu không có một chiến lược giải quyết cuộc khủng hoảng nợ công tại khu vực này. Sau thất bại của Hội nghị thượng đỉnh EU lần đầu diễn ra ngày 23/10/2011, tại hội nghị được coi là tối quan trọng ngày 26/10/2011 nhằm tìm kiếm giải pháp cho cuộc khủng hoảng nợ công có nguy cơ lan rộng trong Eurozone, các nhà lãnh đạo EU đã đạt được thỏa thuận: xóa nợ cho Hy Lạp; tái cấp vốn cho các ngân hàng; và tăng cường sức mạnh cho Quỹ Bình ổn Tài chính châu Âu (EFSF). Theo thỏa thuận đạt được sau hơn 8 giờ đàm phán căng thẳng, các nhà cho vay tư nhân, chủ yếu là các hãng bảo hiểm và ngân hàng tư nhân, đã tự nguyện chấp thuận xóa 50% trong khoản nợ 350 tỷ Euro cho Hy Lạp và các khoản nợ cho Hy Lạp so với mức 21% đã được thống nhất tại Hội nghị thượng đỉnh Eurozone hồi tháng 7/2011 như một phần trong gói cứu trợ tài chính thứ hai cho Athens. Động thái này hy vọng sẽ góp phần giúp Hy Lạp củng cố "sức khỏe" tài chính và tiến tới giảm gánh nặng nợ công từ 160% GDP hiện nay, xuống còn 120% GDP vào năm 2020. Ngoài ra, kế hoạch giải cứu nợ công còn bao gồm việc tái cơ cấu vốn các ngân hàng vào tháng 6.2012 và tăng quỹ cứu trợ Châu Âu lên 1.000 tỉ euro. Theo Thủ tướng Hy Lạp George Papandreou, thoả thuận trên đã mở ra “một chương mới, một kỷ nguyên mới” cho nước này. Song các nhà kinh tế tỏ ra
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan