PHẦN MỞ ĐẦU
Trong các loại hàng hóa thì điện năng là một loại hàng hoá đặc biệt,nên thị
trường và mô hình rất lớn và có rất nhiều đặc thù riêng của ngành. Cấu trúc chi phí
của doanh nghiệp điện lực tuỳthuộc vào từng hoạt động chính của doanh nghiệp đó
(nguồn: nhiệt điện, thủy điện, lưới …). Doanh nghiệp điện lực kinh doanh sản
phẩm tới tận hộ tiêu dùng. Các doanh nghiệp độc quyền nhà nước thường không
được quyết định giá đối với hộ tiêu dùng cuối cùng do tư nhân hoá, công ích, lợi
ích nhà cung cấp, quyền lợi người tiêu dùng.
Quá trình kinh doanh điện năng bao gồm 3 khâu liên hoàn: Sản xuất Truyền tải - Phân phối điện năng xảy ra đồng thời liên tục, từ khâu sản xuất đến
khâu tiêu thụ không qua một khâu thương mại trung gian nào. Điện năng được sản
xuất ra khi đủ khả năng tiêu thụ vì đặc điểm của hệ thống điện là ở bất kỳ thời
điểm nào cũng có sự cân bằng giữa công suất phát ra và công suất tiêu thụ và đảm
bảo yêu cầu về kĩ thuật rất chắn chẽ như sai số về tần số và điện áp là 5%...
Thị trường điện lực được hình thành đầu tiên ở Anh được gọi là Pool và dần
dần các nước phát triển cũng đã và đang bắt đầu hình thành và phát triển thị trường
điện cạnh tranh điện lực như Mĩ, bên cạnh đó vẫn còn có 1 số nước vẫn áp dụng thị
trường điện độc quyền nhà nước như Việt Nam. Trong những năm trở lại đây đã có
sự chuyển dịch cơ cấu sang thị trường điện cạnh tranh nhưng vì có một số yếu tố
khiến việc phát triển vẫn còn gặp khó khăn, vị trí và thị phần của EVN luôn cao và
gần như là vững chắc khó cho các doanh nghiệp tư nhân hay tập đoàn kinh tế có
thể bước chân vào kinh doanh điện với EVN được khi thị trường điện bấy lâu nay
EVN vẫn là độc quyền ngành điện và đặc thù của ngành điện là mang tính quy mô
cao. Nhưng việc phát triển không phải chỉ dừng lại ở điều đó mà cần thời gian từng
bước phát triển và các chính sách khuyến khích của nhà nước. Nhưng việc phát
triển thị trường điện cạnh tranh như thế nào để phù hợp với những điều kiện của
1
Việt Nam thì chúng ta cũng cần phải xem xét và xác định rõ ràng hướng đi để
tránh khỏi các rủi do như cuộc khủng hoảng điện ở Cariforlia. Chúng ta có thể dựa
và các thị trường lớn trên thế như thị trường điện lực của Anh và Mĩ để rút ra
những yếu tố phù hợp với thị trường điện Việt Nam để có thể xây dựng 1 thị
trường điện lực cạnh tranh ở Việt Nam trong thời gian sớm nhất. Có nhiều điểm
khác nhau về thị trường điện lực tuy nhiên về cơ bản thị trường điện lực là việc hộ
tiêu thụ cuối tiêu thụ điện năng từ các nhà máy sản xuất điện thông qua hệ thống
truyền tải điện (được xem như độc quyền tự nhiên) hình thành nên thị trường điện
bán buôn giữa các nhà máy điện và thị trường điện bán lẻ cho các hộ tiêu thụ điện
năng.Phương thức quản lý độc quyền nhà nước của hoạt động sản xuất kinh doanh
điện hiện nay còn nhiều bất cập. Việc nghiên cứu đưa ra mô hình quản lý thị
trường điện lực nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong đầu tư, phát triển, quản lý và
vận hành hệ thống điện, đồng thời xem xét vấn đề giá điện và chất lượng dịch vụ
điện cũng như huy động các nguồn tài chính mới cho nhu cầu phát triển điện lực là
rất cần thiết và phù hợp với điều kiện phát triển của nền kinh tế thị trường.
2
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 : KHỦNG HOẢNG ĐIỆN Ở CARIFORNIA VÀ XÂY
DỰNG THỊ TRƯỜNG ĐIỆN LỰC Ở VIỆT NAM
1.1 CUỘI KHỦNG HOẢNG ĐIỆN CARIFORNIA
Cuộc khủng hoảng điện California còn được gọi là cuộc khủng hoảng năng
lượng phương Tây Hoa Kì năm 2000 và 2001 là sự kiện mà trong đó bang
California đã rơi vào tình trạng thiếu điện trầm trọng. Tình trạng này được gây ra
bởi các thao tác thị trường và tắt máy bất hợp pháp của đường ống dẫn dầu của tập
đoàn năng lượng Texas. Nhà nước phải chấp nhận mất điên với quy mô lớn. Một
trong những công ty năng lượng lớn nhất của nhà nước sụp đổ và nền kinh tế phải
hứng chụi nhiều tổn thất lớn.
Hạn hán,sự chậm trễ trong phê duyệt xây dựng các nhà máy điện mới cùng
với thị trường cung giảm mạnh,điều này đã gây ra tăng 800% giá điện giá bán
buôn từ tháng 4 năm 2000 đến tháng 12 năm 2000. Ngoài ra mất điện ảnh hưởng
tới nhiều doanh nghiệp phụ thuộc vào một nguồn cung cấp điện đáng tin cậy,và bất
tiện đến một số lượng lớn người tiêu dung hay đại lí bán lẻ.
California có công suất lắp đặt 45 GW. Tại thời gian mất điện nhu cầu là 28
GW. Một khoảng cách cung cầu đã được tọa ra bởi các công ty năng lượng,chủ
yếu là Enron,để tạo ra một tình trạng thiếu điện nhân tạo. Thương nhân năng lượng
đã đóng cửa để bảo trì nhà máy điện trong những ngày nhu cầu tăng cao nhằm đẩy
giá điện tăng cao. Do đó thương nhân có thể bán điện với giá cao,đôi khi giá điện
tăng gấp 20 lần so với giá trị bình thường của nó. Bởi vì chính phủ tiểu bang có
một mức giá nắp trên cho các chi phí bán điện lẻ,lũng đoạn thị trường này,ép lợi
nhuận doanh thu của ngành công nghiệp,gây ra sự phá sản của công ty Pacific Gas
Electric (PG & E) và rơi vào bờ vực phá sản của công ty Southem California
3
Edison vào đầu năm 2001. Cuộc khủng khoảng này đã làm nền kinh tế thiệt hại
khoảng 40 – 45 tỷ USD.
1.1.1 Các sự kiện chính của khủng hoảng
- 1996 : California bắt đầu thay đổi điều khiển trên thị trường năng lượng của
nó và áp dụng các biện pháp bề ngoài là để tăng tính cạnh tranh.
-4/1998 : Thị trường năng lượng mới bắt đầu hoặt động.
-5/2000 : Sự gia tăng đáng kể giá năng lượng.
-14/6/2000 : mất điện ảnh hưởng đến 97.000 khách hàng trong khu vực vịnh
San Francisco trong một làn sóng nhiệt.
-8/2000 : San Diego Gas & Electric Công ty nộp đơn khiếu nại cáo buộc thao
túng thị trường.
-17 - 18/1/2001 : Mất điện ảnh hưởng đến hàng trăm nghìn khách hàng.
-17/1/2011 : Tổng thống Davis tuyên bố tình trạng khẩn cấp.
-19 – 20/3/2011 : Mất điện ảnh hưởng đến 1,5 triệu khách hàng
-4/2011 : Pacific Gas & Electric Co tuyên bố phá sản.
-7 – 8/2001 : Mất điện làm ảnh hưởng tới hơn 167.000 khách hàng.
-9/2011 : Giá năng lượng bình thường hóa.
-12/2001 : Sau khi phá sản của Enron, nó được cho rằng giá năng lượng đã
được chế tác bởi Enron.
-2/2002 : Uỷ ban điều tiết năng lượng liên bang bắt đầu điều tra sự tham gia của
Enron
- Mùa đông 2002 : Các vụ bê bối của Enron bắt đầu nổi lên
-13/11/2002 : Tổng thống DaVis thong báo kết thúc tình trạng khẩn cấp
1.1.2 Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng
Thị trường
4
Khi FERC báo cáo kết luận, thị trường thao tác chỉ có thể là kết quả của thị
trường phức tạp thiết kế sản xuất bởi quá trình bãi bỏ quy định một phần. Chiến
lược thao tác đã được biết đến với thương nhân năng lượng theo những cái tên như
"Fat Boy "," Ricochet "," Ping Pong "," Black Widow "," Big Foot "," Red Congo "
"Công Catcher" và "Shorty". [ 11 ] Một số trong số này đã được điều tra rộng rãi và
được mô tả trong các báo cáo.
Megawatt rửa thời hạn, tương tự như rửa tiền, đặt ra để mô tả quá trình che
giấu nguồn gốc thực sự của số lượng điện cụ thể đang được bán trên thị trường
năng lượng. Thị trường năng lượng California cho phép các công ty năng lượng để
bán lại với giá cao hơn cho điện sản xuất của nhà nước. Do đó thuận lợi để làm cho
nó xuất hiện điện đã được tạo ra một nơi nào đó khác hơn so với California
Overscheduling là một thuật ngữ được sử dụng trong việc mô tả các thao
tác của năng lực sẵn có cho việc vận chuyển điện dọc theo đường dây điện. Đường
dây điện có tải tối đa được xác định. Đường dây phải được đặt (hoặc dự kiến )
trước để vận chuyển số lượng mua và bán điện. "Overscheduling" có nghĩa là đặt
có chủ ý của việc sử dụng dây chuyền hơn là thực sự cần thiết và có thể tạo ra sự
xuất hiện các đường dây điện bị tắc nghẽn. Overscheduling là một trong các khối
xây dựng của một số vụ lừa đảo. Ví dụ, Death Star nhóm lừa đảo chơi trên các quy
tắc thị trường mà yêu cầu nhà nước trả tiền "phí tắc nghẽn" để giảm bớt tắc nghẽn
trên đường dây điện chính. "Phí tắc nghẽn" là một loạt các khuyến khích tài chính
nhằm đảm bảo cung cấp điện năng giải quyết vấn đề tắc nghẽn. Nhưng trong kịch
bản sao chết, tắc nghẽn hoàn toàn ảo tưởng và lệ phí tắc nghẽn sẽ do đó chỉ đơn
giản là tăng lợi nhuận.
Trong một bức thư gửi từ David Fabian Thượng nghị sĩ Boxer vào năm
2002, nó đã được cho rằng: "Có 1 kết nối duy nhất giữa miền bắc và lưới điện
miền Nam California của tôi nghe mà thương nhân Enron cố đặt trước vượt quá
5
rằng dòng, những người khác sau đó gây ra để cần nó.. Tiếp theo, California thị
trường tự do quy tắc, Enron đã được cho phép để giá dao vụm theo ý muốn.
Có một kết nối duy nhất giữa miền bắc và lưới điện miền Nam California
của tôi nghe mà thương nhân Enron cố đặt trước vượt quá rằng dòng, những người
khác sau đó gây ra để cần nó.. Tiếp theo, California thị trường tự do quy tắc, Enron
đã được cho phép để giá dao vụm theo ý muốn.
Ảnh hưởng của bãi bỏ quy định một phần
Một phần của California bãi bỏ quy định quá trình, được quảng cáo là một
phương tiện cạnh tranh ngày càng tăng, liên quan đến lấy đi một phần tháng 3 năm
1998 của thế hệ điện trạm tiện íchđương nhiệm , những người vẫn phải chịu trách
nhiệm phân phối điện và cạnh tranh với độc lập trong thị trường bán lẻ . Tổng cộng
có 40% công suất lắp đặt 20 GW - đã được bán cho những gì được gọi là "quyền
lực độc lập sản xuất . " Những bao gồm Mirant , Reliant , Williams , Dynegy ,
và AES . Các tiện ích được yêu cầu để mua điện của họ từ các thị trường mới được
tạo ra chỉ ngày trước, California Power Exchange (PX). Tiện ích đã được loại trừ
từ tham gia vào thỏa thuận dài hạn mà sẽ cho phép họ phải dè chừng mua năng
lượng của họ và giảm nhẹ ngày biến động giá do gián đoạn nguồn cung thoáng qua
và nhu cầu gai từ thời tiết nóng
Sau đó, vào năm 2000, giá bán buôn đã được bãi bỏ, nhưng giá bán lẻ
được quy định cho các đương nhiệm như là một phần của một thỏa thuận với cơ
quan điều hành, cho phép các tiện ích đương nhiệm để thu hồi chi phí của tài sản
mà có thể bị mắc kẹt như là một kết quả của cạnh tranh lớn hơn, dựa trên kỳ vọng
rằng "đóng băng" tỷ giá sẽ vẫn cao hơn so với giá bán buôn. Giả định này vẫn thực
sự từ tháng 4 năm 1998 thông qua tháng 5 năm 2000.
Năng lượng bãi bỏ quy định đặt ba công ty phân phối điện vào một tình
huống khó khăn. Bãi bỏ quy định chính sách năng lượng đóng băng hoặc giới hạn
6
giá năng lượng hiện có của ba nhà phân phối năng lượng có thể tính phí. bãi bỏ các
nhà sản xuất năng lượng không giảm chi phí năng lượng. Bãi bỏ quy định không
khuyến khích sản xuất mới để tạo ra năng lượng nhiều hơn và ổ đĩa giảm giá. Thay
vào đó, với nhu cầu ngày càng tăng về điện, các nhà sản xuất năng lượng bị tính
phí nhiều hơn cho điện. Các nhà sản xuất sử dụng những khoảnh khắc của sản xuất
năng lượng tăng đột biến tăng giá của năng lượng. Trong tháng 1 năm 2001, các
nhà sản xuất năng lượng bắt đầu đóng cửa các nhà máy gia tăng giá cả.
Khi giá bán buôn điện vượt quá bán lẻ giá cả, nhu cầu người dùng cuối
không bị ảnh hưởng, nhưng các công ty tiện ích đương nhiệm vẫn phải mua điện,
mặc dù ở một mất mát. Điều này cho phép sản xuất độc lập để thao tác giá trong
thị trường điện lực phát điện từ khấu trừ, arbitraging giá giữa các thế hệ nội bộ và
quyền lực (tiểu bang) nhập khẩu, và gây nhân tạo truyền hạn chế. Đây là một thủ
tục gọi là "thị trường chơi game". Trong điều kiện kinh tế, các đương nhiệm vẫn
còn để mũ giá bán lẻ đã phải đối mặt với nhu cầu không co giãn (xem thêm: đáp
ứng nhu cầu ). Họ không thể vượt qua mức giá cao hơn cho người tiêu dùng mà
không có sự chấp thuận từ Ủy ban tiện ích công cộng. Các đương nhiệm bị ảnh
hưởng là Southern California Edison (SCE) và Pacific Gas & Electric (PG &
E). Những người ủng hộ Pro- tư nhân khẳng định nguyên nhân của vấn đề là điều
vẫn còn tổ chức kiểm soát quá nhiều trên thị trường, và quá trình thị trường thực sự
đã gây trở ngại trong khi đối thủ của bãi bỏ quy định khẳng định rằng hệ thống
quản lý đầy đủ đã làm việc cho 40 năm mà không mất điện
Chính phủ mũ giá
Bằng cách giữ giá tiêu dùng điện thấp một cách giả tạo, chính phủ California
khuyến khích công dân thực hành bảo tồn. Trong tháng hai năm 2001, thống đốc
California Gray Davis nói, "Believe tôi, nếu tôi muốn tăng lãi suất, tôi có thể giải
quyết vấn đề này trong 20 phút".
7
Quy định giá năng lượng động viên các nhà cung cấp khẩu phần cung cấp
điện của họ hơn là mở rộng sản xuất. Sự khan hiếm kết quả tạo ra cơ hội cho các
thao tác thị trường của các nhà đầu cơ năng lượng.
Các nhà lập pháp Nhà nước dự kiến giá điện giảm do sự cạnh tranh kết quả,
vì vậy họ giới hạn giá điện ở mức độ bãi bỏ quy định trước. Kể từ khi họ cũng nhìn
thấy nó như là bắt buộc rằng việc cung cấp điện vẫn không bị gián đoạn, các công
ty tiện ích được yêu cầu theo quy định của pháp luật để mua điện từ thị trường tại
chỗ với giá uncapped khi phải đối mặt với tình trạng thiếu điện xảy ra.
Khi nhu cầu điện ở California hoa hồng, tiện ích không có khuyến khích tài
chính để mở rộng sản xuất, khi giá dài hạn được giới hạn. Thay vào đó, bán buôn
như Enron thao túng thị trường để buộc các công ty tiện ích vào các thị trường tại
chỗ hàng ngày để kiếm lợi nhuận ngắn hạn. Ví dụ, một kỹ thuật thị trường được
gọi là rửa megawatt, bán buôn mua hết điện ở California bên dưới nắp giá bán ra
của nhà nước, tạo ra sự thiếu hụt. Trong một số trường hợp, bán buôn dự kiến
truyền tải điện để tạo ra tắc nghẽn và làm tăng giá.
Sau khi mở rộng điều tra Ủy ban Điều tiết Năng lượng Liên bang (FERC)
đáng kể đã thoả thuận trong năm 2003:
"... Sự mất cân bằng cung cầu, thị trường không hoàn thiện thiết kế và quy
định không phù hợp thực hiện thao tác có thể thị trường quan trọng như mô
tả trong báo cáo điều tra cuối cùng. Nếu không có rối loạn chức năng thị
trường cơ bản, cố gắng để thao tác các thị trường sẽ không thành công."
"... Chiến lược kinh doanh làm việc cho Enron và các công ty khác vi phạm
quy định chống chơi game ..."
"Giá điện tại các thị trường tại chỗ của California đã bị ảnh hưởng bằng cách
khấu trừ kinh tế và đấu thầu giá tăng cao, vi phạm quy định chống chơi
game của thuế quan."
8
Các lỗ hổng lớn của chương trình bãi bỏ quy định rằng đó là một bãi bỏ quy
định không đầy đủ, có nghĩa là, các nhà phân phối trung gian "tiện ích tiếp tục
được quy định và buộc phải bán lại với giá cố định, và tiếp tục có sự lựa chọn về
hạn chế của các nhà cung cấp điện. Khác, ít bi quan hơn năng lượng đề án bãi bỏ
quy định, chẳng hạn như Pennsylvania, đã bãi bỏ các tiện ích nhưng vẫn giữ các
nhà cung cấp dịch vụ quy định, hoặc bãi bỏ cả hai
Cung cấp và nhu cầu
California có số dân tăng 13% trong những năm 1990. Nhà nước không xây
dựng bất kỳ nhà máy điện mới trong thời gian đó, mặc dù tồn tại trong các nhà
máy điện nhà nước đã được mở rộng và sản lượng điện đã tăng gần 30% từ 1990
đến 2001.
Tiện ích của California đến phụ thuộc một phần vào việc nhập khẩu vượt
quá xuất
thuỷ
điện từ
các vùng
Tây
Bắc
Thái
Bình
Dương bang Oregon và Washington . California tiêu chuẩn không khí sạch sẽ ủng
hộ thế hệ điện trong tiểu bang đó đốt cháy khí tự nhiên do khí thải của nó thấp hơn,
như trái ngược với than có lượng khí thải độc hại hơn và có chứa chất gây ô nhiễm
hơn
Trong mùa hè năm 2001, hạn hán ở các bang phía tây bắc làm giảm lượng
thủy điện tới California. Mặc dù không có điểm trong cuộc khủng hoảng là
California tổng hợp của thực tế điện-công suất phát điện ít hơn nhu cầu, dự trữ
năng lượng của California là thấp đủ rằng trong giờ cao điểm các ngành công
nghiệp tư nhân mà thuộc sở hữu nhà máy điện, tạo ra có thể có hiệu quả giữ làm
con tin Nhà nước bằng cách đóng cửa các nhà máy của họ cho "bảo dưỡng" để
thao tác cung và cầu. Những tắt máy quan trọng này thường xảy ra không có lý do
khác hơn là buộc các nhà quản lý của lưới điện California vào một vị trí nơi họ sẽ
bị buộc phải mua điện trên thị trường giao ngay ", nơi mà máy phát điện tư nhân có
9
thể tính lãi thiên văn. Mặc dù các mức giá bán quy định và gắn liền với giá khí
thiên nhiên, các công ty (bao gồm năng lượng Enron và Reliant) kiểm soát việc
cung cấp khí tự nhiên là tốt. Thao tác của ngành công nghiệp giá khí đốt tự nhiên
dẫn đến giá điện cao hơn có thể được tính phí theo các quy định bán.
Ngoài ra, các công ty năng lượng đã lợi dụng sự yếu kém cơ sở hạ tầng điện
của California. Dòng chính cho phép điện để đi du lịch từ phía bắc đến phía
nam, con đường 15 , đã không được cải thiện nhiều năm và trở thành một điểm
nút cổ chai lớn, hạn chế lượng điện năng có thể được gửi đến 3.900 MW . Nếu
không có sự thao túng bởi các công ty năng lượng, nút cổ chai này không có vấn
đề, nhưng những ảnh hưởng của nút cổ chai hợp các thao tác giá hamstringing
quản lý lưới điện năng lượng trong khả năng của họ để vận chuyển điện từ một
trong những khu vực khác. Với một hồ bơi nhỏ hơn của máy phát điện có sẵn để
rút ra từ trong từng lĩnh vực, các nhà quản lý đã bị buộc phải làm việc tại hai thị
trường để mua năng lượng, cả hai đều được chế tác bởi các công ty năng lượng.
Cơ quan Năng lượng Quốc tế ước tính 5% giảm của nhu cầu sẽ dẫn đến
giảm giá 50% trong những giờ cao điểm của cuộc khủng hoảng điện California
2000/2001. Với đáp ứng nhu cầu tốt hơn, thị trường cũng trở nên đàn hồi thu hồi
cố ý cung cấp từ phía cung.
1.2 BÀI HỌC RÚT RA CHO VIỆC PHÁT TRIỆN THỊ TRƯỜNG ĐIỆN Ở
VIỆT NAM
Vấn đề xảy ra tại California đại thời điểm đó khi mà tất cả các bang đang
trong quá trình tái cơ cấu hoặc nó đang là vấn đề gây tranh cãi. Từ đó rút ra được
nhiều bài học cho các quốc gia về Cung – Cầu điện lực. Đặc biệt, nếu thay vì ấp
đặt giá điện thì cần phải để nó tự điều chỉnh theo giá thị trường, như mùa hè ở
California năm đó là rất nóng đối với người phương Tây. Các bên Cung và Cầu
phải cùng nhau điều chỉnh để khắc phục tình trạgj thất thường như vậy.
10
1.2.1 Bài học từ cung cấp
Những bài học về phía cung có hai mặt. Trước tiên, việc chuyển dịch sẽ dễ
dàng thành công hơn khi mà có nhiều thành phần tham gia đáp ứng trong khi giá
điều chỉnh theo thị trường. Ở California, họ đã cố gắng tái cơ cấu để hạn chế độc
quyền của Nhà nước từ từ trên xuống dưới. Thứ hai, các dịch vụ nên được tự do
quản lý bởi nhà cung cấp như các biến động về giá gây bất lợi trong thị trường
cạnh canh bằng việc ký kết các hợp đồng dài hạn. Một bài học cũng từ California
là khi mà cầu đang ở mức thấp so với khả năng đáp ứng thì cũng có thể việc đầu tư
là không hiệu quả.
Nếu tái cơ cấu ở khâu phát để cho phép đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị
trường, hạn chế độc quyền thì cũng phải cần xem xét đến khu vực truyền tải.
Vì khi thị trường sau khi tái cơ cấu hoạt động có hiệu quả thì ngay sau đó sẽ
nhận được phản hồi tích cực như gia tăng nhu cầu sử dụng, các khu vực trước kia
chưa tính đến thì rất có thể sẽ là thị trường mới tiếp theo. Khi công suất của các
nhà máy điện tăng mà cùng với một mức chi phi vận hành nếu làm như vậy sẽ tiết
kiệm được khoản chi phí lớn (Trong quá trình truyền tải điên, khoảng 9 % lượng
điện sẽ bị tổn thất trên đường dây). Hơn nữa, khi đáp ứng cung cấp toàn khi vực,
nhà cung cấp có thể điều tiết cho phù hợp với thực tế, ví dụ như nhu cầu điện tăng
cao ở một khu vực nào đó trong khi khu vực khác lại không sử dụng hết công suất
như dự kiến. Tuy nhiên, người tiêu dùng cũng phải sẵn sàng chấp nhận giá đôi khi
sẽ tăng do Nhà nước sẽ điều tiết để tạo phúc lợi xã hội cần thiết.
Và cũng đảm bảo rằng công suất truyền tải không quá giới hạn cung cấp khi
có sự thay đổi trong dịch vụ truyền tải quy định và giá mới (Như là một chính sách
ưu đãi cho các nhà đầu tư mới) và đường truyền mới được phê duyệt.
Ví dụ: Một số nhà phân tích đã kêu gọi tính phí khác nhau, lãi suất khác
nhau trong thị trường truyền tải trong các khu vực và bộ phận khác nhau.
11
Tái cơ cấu sẽ có khả năng thành công cao hơn nếu được tự do sử dụng các
công cụ quản lý rủi ro tiêu chuẩn. Để cả hai bên kí hợp đồng cùng có lợi, khi tham
gia vào hợp đồng dài hạn thì các nhà phân phối điện năng cũng nên cung cấp với
mức giá cố định có xét đến tương lai là cách bảo vệ họ khỏi rủi ro trước biến động
về giá. Nó cũng cho phép họ có thể tự do cố định mức giá bán lẻ cạnh tranh. Điều
đó là quan trọng không chỉ bảo vệ người tiêu dùng chống lại giá độc quyền mà nó
tạo ra môi trường thuận lợi cho các nhà sản xuất, phân phối và tiêu dùng.
Tạo ra một thị trường cạnh tranh là điều có thể thực hiện được? Thật vậy,
nếu ở California triển khai thực hiện kế hoạch của mình vào đầu năm 1990, khi mà
phúc lợi của Nhà nước vẫn chiếm phần lớn hơn họ cần thì thị trường sẽ xủ lý tốt
hơn các căng thẳng phát sinh như vào mùa hè năm 2000 và có thể xóa được một số
lỗi trong tái cơ cấu.
Tạo ra một quỹ bình ổn như là một vấn đề thuộc chính sach, tuy nhiên nó thực sự
là tốn kém khi để ổn định giá cả. Một trong những lý do mà Nhà nước chuyển sang
thị trường cạnh tranh là để giảm giá điện bằng cách giảm công suất dự trữ. Trong
một thị trường cạnh tranh, đầu tư sản xuất trong khả năng dự trữ nên có giá cả phù
hợp và ổn định mà người tiêu dùng sẵn sàng trả tiền cho các hợp đồng dài hạn.
1.2.2 Bài học từ nhu cầu
Giá bán lẻ điện ở California đã bị đóng băng dù người tiêu dùng có phản
ứng trước cách quản lý giá điện của Nhà nước. Vì vậy, nó được chứng minh là một
yếu tố quan trọng trong cuộc khủng hoảng tiếp theo. Một bài học mà đơn giản là
người tiêu dùng cần phải đối mặt với chi phí thực tế của điện. Chỉ ra rằng người
tiêu dùng sẽ có xu hướng thay đổi và tăng sử dụng khi giá giảm và cắt bớt sử dụng
khi giá tăng lên. Khi mà giá không thay đổi cũng với các chi phí, khi lượng điện
năng yêu cầu không thể đáp ứng đủ với giá theo cách đó, khi đó cần một sự điều
chỉnh lớn hơn phải được thực hiện trên phía cung của thị trường.
12
Chính sách giá nên khuyến khích người tiêu dùng không chỉ mua điện nhiều
hoặc ít hơn bây giờ mà cũng phải chú ý đến việc điều chỉnh sử dụng điện trong
tương lai của họ. Khi mà biểu giá điện có hai thành phần, để đáp ứng nhu cầu của
người sử dụng trong khi giá vẫn tính là giá thị trường thì họ có thể có một số chính
sách bồi thường để giảm công suất sử dụng hoặc cho phía cung cho phép khách
hàng bán lại cho bên thứ ba ( Người thứ 3 sẽ trả tiền thay khách hàng kia).
Việc giảm sử dụng điện có sự khác biệt quan trọng giữa ngắn hạn và dài
hạn. Tại California, người tiêu dùng đã có những cách hạn chế việc tiêu dùng điện
trong những thời kỳ giá điện tăng cao như mua vật liệu cách nhiệt cho các tòa nhà,
sử dụng các thiết bị tiết kiệm điện, chuyển sang dùng khí đốt tự nhiên. Đó là đầu tư
dài hạn. Tuy nhiên, các biện pháp đó chỉ giúp họ tiết kiệm trong ngắn hạn mà lý do
là không phải lúc nào giá điện cũng tăng cao, và lý do khác là giá điện ở California
đã ổn định.
Một số nhà phân tích tin rằng những điều chỉnh cung và tăng giá ở California sẽ
nhỏ hơn nhiều nếu các biện pháp quản lý cùng với công nghệ hiện đại được sử
dụng rộng rãi.
Ví dụ: Họ có thể đặt các màn hình theo dõi quá trình sử dụng điện và ngắt
điện khi việc sử dụng thiếu kiểm soát. Khách hàng lớn (Như khu Công nghiệp, khu
Chế suất…) đã có khả năng nắm bắt tình hình và điều chỉnh nhu cầu của họ trong
khi giá điện đang tăng và thực tế đã làm như vậy.
Chuyển dịch cơ cấu thành công đòi hỏi người sử dụng cũng phải có một
trình độ quản lý sử dụng của mình một cách khoa học và hiện đại.
13
CHƯƠNG 2: THỊ TRƯỜNG ĐIỆN CẠNH TRANH VÀ ỨNG DỰNG MÔ
HÌNH VÀO THỊ TRƯỜNG ĐIỆN Ở VIỆT NAM
2.1 THỊ TRƯỜNG ĐIỆN LỰC CẠNH TRANH
2.1.1 Đặc điểm
Đầu tiên ta nói về việc định giá đó là mỗi loại thị trường thì việc định giá
phụ thuộc vào cấu trúc và đặc điểm kinh doanh của ngành điện, đối tượng, khu vực
định giá.
•Cấu trúc độc quyền: Giá điện là giá độc quyền nhà nước, công ty điện lực thay
mặt nhà nước thực hiện mọi hoạt động sản xuất kinh doanh điện năng và định giá
•Cấu trúc cạnh tranh: giá điện là giá cạnh tranh, tuz từng mô hình cạnh tranh mà có
các loại biểu giá khác nhau.
•Cấu trúc cạnh tranh độc quyền: giá phụ thuộc vào cường độ cạnh tranh, quan hệ
giữa các lực lượng cạnh tranh, cách thức tổ chức thị trường
•Giá điện trong thị trường cạnh tranh do thị truờng quy định, không có các hoạt
động công ích trong ngành điện.
•Cách thức định giá phụ thuộc vào mô hình cạnh tranh, cách thức tổ chức vận hành
thị trường và đặc điểm kinh doanh của ngành điện.
Tiếp theo là phân biệt Giá điện thị trường và giá điện áp dụng cho hộ tiêu
dùng cuối cùng:
14
•Giá điện thị trường (đến ngưỡng nhà phân phối) được hình thành phụ thuộc theo
cấu trúc thị trường, giá độc quyền hạch toán nội bộ, hoặc giá từ áp lực cạnh tranh.
•Giá áp dụng cho hộ tiêu dùng cuối cùng: Hợp đồng mua bán điện, có nguyên tắc
xây dựng khung biểu giá, cơ chế giá, có sự can thiệp của nhà nước.
•PV-POWER: giá điện thị trường, khi tham gia vào khu vực cung cấp >> giá cho
hộ tiêu dùng cuối cùng
2.1.2 Cấu trúc và sự hình thành giá cả
•Phân loại cấu trúc: 4 cấu trúc cơ bản (phân loại theo mức độ tập trung)
–Thị trường cạnh tranh hoàn hảo
–Thị trường độc quyền thuần tuý
–Thị trường cạnh tranh độc quyền
–Thị trường độc quyền nhóm
•Giá được hình thành theo cấu trúc (Bỏ qua những dao động trong ngắn hạn), tức
là quyền lực của người bán, hay người mua trong định giá
•Nguyên tắc định giá biên MR = MC (nguyên tắc chi phí, đúng với mọi cấu trúc)
15
2.2 PHÂN BIỆT THỊ TRƯỜNG ĐIỆN LỰC ANH VÀ MỸ
THỊ TRƯỜNG ĐIỆN LỰC ANH
THỊ TRƯỜNG ĐIỆN LỰC MỸ
Bao gồm các nhà sản xuất cạnh tranhTổ
vớichức cung cấp điện được thực hiện theo
nhau để bán điện vào lưới và bán choliên
cácbang (quá lớn)
hộ tiêu thụ lớn.
+ Có sự tham gia của các khu vực tư nhân
+ Các công ty phân phối cạnh tranh nhau
vào trong tất cả các khâu:hệ thống truyền
bán điện cho những người tiêu thụ nhỏtảivàdo công ty công cộng và tư nhân nắm
cũng có thể cả một vài hộ tiêu thụ lớn nữa.
giữ công ty phân phối sở hữu địa phương
+ Cho đến nay, Pool cũng như hầu hếtvàcáccông ty phát độc lập thuộc sở hữu tư
thị trường điện, đều xảy ra quá trình cạnh
nhân.
tranh ở hai cấp độ: Sản xuất và Phân phối.
+Mỗi bang có một uỷ ban công (PUC+ Người mua điện có thể tự do lựa chọnPublic
các Utility Commission) , liên bang có
nhà cung cấp, đó là điều không thể xảy
uỷraban điều tiết (FERC –Federal Ênergy
đối với một hệ thống điện độc quyền. Regulation)
-PUC -Thực hiện các chức năng điều tiết
hoạt động đầu tư, giám sát việc định giá
bán lẻ của các công ty trong phạm vi bang
-FERC giám sát quá trình định giá bán
buôn, giám sát định giá truyền tải trong
toàn liên bang.
2.2 ỨNG DỤNG MÔ HÌNH THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM
Hai mô hình thị trường điện trên đều là những mô hình cạnh tranh điển hình
về thị trường điện lực. Chúng ta đang là nước có thị trường điện lực là thị trường
điện độc quyền nhà nước do EVN quản lý chịu trách nhiệm trực tiếp và gián tiếp
16
tất các các khâu phát điện, truyền tải và phân phối. Thi trường điện của Việt Nam
có đặc điểm đầu tiên là hệ thống chuyển tải đã được xấy dưng và phát triển từ rất
lâu nên việc các doanh nghiệp muốn cạnh tranh là không thể và rất khó để có thể
cạnh tranh khi đâu tư vào mạng lưới điện quốc gia với quy mô và hệ thống lớn như
vậy. Vậy việc cạnh tranh trong thị trường điện lực ở Việt Nam chỉ có thể hay là
cạnh tranh dễ dàng nhất là ở khâu phát điện và khâu phân phối như thị trường điện
lực ở Anh. Với thị trường phát điện cạnh tranh, các đơn vị phát điện sẽ tham gia
chào giá cạnh tranh và ký hợp đồng bán buôn điện có thời hạn cho công ty mua
bán điện. Công ty này sẽ ký hợp đồng bán buôn cho các công ty bán lẻ điện. Các
công ty bán lẻ điện thực hiện bán lẻ đến khách hàng. Thị trường bán buôn điện
cạnh tranh là thị trường có nhiều người bán và nhiều người mua. Bên cạnh các
công ty phát điện, có nhiều công ty bán buôn điện và bán lẻ điện.Với thị trường
bán lẻ điện cạnh tranh, các khách hàng được quyền lựa chọn nhà cung cấp điện cho
mình. Để hình thành thị trường điện thì việc hình thành Công ty mua bán điện là
việc làm cần thiết. Công ty mua bán điện được thành lập sẽ đứng ra mua điện từ
các nhà máy qua thị trường điện hoặc theo hợp đồng dài hạn và bán buôn cho các
công ty bán lẻ. Mô hình của công ty này sẽ là công ty cổ phần gồm các thành viên
là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước như: Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Than và
Khoáng sản, Bưu chính Viễn thông, Tổng Công ty Thép, Tổng Công ty Lắp máy,
Tổng Công ty Xi măng... chiếm 49% vốn điều lệ, còn EVN chiếm 51% vốn điều
lệ. Vốn điều lệ của công ty này dự kiến là 1.000 tỷ đồng. Công ty cổ phần mua bán
điện có nhiệm vụ quan trọng là đảm bảo kinh doanh có lãi và chịu trách nhiệm
cung ứng, đáp ứng đầy đủ điện cho các công ty bán lẻ điện (hiện nay là các công ty
điện lực thuộc EVN).
Trong giai đoạn 2007-2010, do biểu giá bán điện chưa được điều chỉnh theo
các yếu tố đầu vào nên Công ty cổ phần mua bán điện thực hiện hạch toán phi thị
trường. Giá bán điện của các nhà máy hạch toán phụ thuộc của EVN chỉ duy trì ở
17
mức thấp để giá bán buôn của Công ty cổ phần mua bán điện cho các công ty điện
lực không quá cao, đảm bảo có lãi.
Sau khi biểu giá điện bán lẻ được điều chỉnh theo các yếu tố đầu vào và
Chính phủ có cơ chế giá công ích, thì giá mua bán điện sẽ thực hiện theo cơ chế giá
điện quy định. Công ty cổ phần mua bán điện sẽ tiến tới niêm yết trên thị trường
chứng khoán và phát hành cổ phiếu rộng rãi ra công chúng.
Hiện tại nước chúng ta có mức phụ tải không tập trung và đồ thị phụ tải phức tạp,
nên việc cung ứng cho từng nơi khác nhau tại những thơi điểm khác nhau thì thật
sự là không phải đơn giản , không chỉ là phần công suốt mà còn các yếu tố như chi
phí vận hành , chi phí phát … điều này thì không thể chỉ điều tiết trong hệ thống
vừa và nhỏ được, hơn nữa việc dân số không tập trung nên việc chuyền tải điện
đến các hộ tiêu thụ ở xa như ở vùng núi và hải đảo thì phần khấu hao đó một doanh
nghiệp bình thường chỉ mang hệ thống nhỏ như một tỉnh hay thành phố không thể
chấp nhận được. Vì vậy các doanh nghiệp luôn muốn thu được lợi nhuận cao nên
họ chỉ sẵn sang và lao vào nơi nào có nhiêu thị phần và mức chi phí thấp và tập
trung như là ở thành phố Hà Nội, Huế ,… vì đây là nhưng nơi tập trung dân cư,
nhu cầu điện cao và ổn định, mạng lưới hệ thống nhỏ nhưng lại mang lại hiểu quả.
Vì vậy không thể đáp ứng được nhu cầu điện năng ở các nơi có mật độ dân cư ít.vì
vậy lại đi trái với đường lối của nhà nước, vì vậy cần phải có cơ quan điều tiết như
trong thị trường điện lực của Mỹ ở các bang.
Xét về điều kiện địa lý thì nước Mỹ là một đất nước rộng lớn nên khó có thể
áp dụng mô hình tổ chức thị trường điện của họ vào nước ta mặc dù đã có nhiều
bài học kinh nghiệm từ thị trường điện California. Ngoài ra, bộ máy hoạt động của
nhiều tổ chức Nhà nước ở nước ta và nước Mỹ là vô cùng khác biệt cũng như cơ
chế chính sách, luật pháp của Mỹ có thể chỉ áp dụng cho một bang. Mô hình hoạt
động của họ có thể coi hoạt động như trong mô hình Cournot khi gồm nhiều bang
với các công ty điện hoạt động tách biệt với nhau. Ở Việt Nam, thị trường điện
18
ngày đầu đã là cạnh tranh giữa các công ty điện lực có quyền lực thị trường không
cân xứng mà chính vì lý do đó mà chúng ta tập trung tái cơ cấu theo từng giai đoạn
theo đề án quy hoạch tổng thể (Quy hoạch 7). Và tổ chức thị trường điện ở nước
Anh có nhiều đặc điểm phù hợp có thể áp dụng vào tái cơ cấu ngành điện, phát
triển theo hướng cạnh tranh trước hết là ở khâu phát.
CHƯƠNG 3: THỊ TRƯỜNG PHÁT ĐIỆN CẠNH TRANH VIỆT NAM
Thị trường phát điện cạnh tranh Việt Nam có tên tiếng Anh là: Vietnam
Competitive Generation Market (VCGM).
19
3.1 CƠ CẤU VÀ NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG
3.1.1 Cơ cấu của thị trường:
Thị trường phát điện cạnh tranh Việt Nam gồm 2 thị trường thành phần chính
sau:
- Thị trường hợp đồng: Các đơn vị phát điện ký hợp đồng với Đơn vị mua buôn
duy
nhất
theo
cơ
chế
hợp
đồng.
- Thị trường điện giao ngay: áp dụng mô hình thị trường điều độ tập trung chào giá
theo chi phí (tiếng Anh: Mandatory Cost-based Gross Pool);
3.1.2
Nguyên
tắc
hoạt
động
của
thị
trường
- Trong thị trường phát điện cạnh tranh VCGM, toàn bộ điện năng phát của các nhà
máy điện được bán cho đơn vị mua buôn duy nhất, lịch huy động các tổ máy được
lập căn cứ trên bản chào giá theo chi phí biến đổi. Điện năng mua bán được thanh
toán theo giá hợp đồng và giá thị trường giao ngay của từng chu kỳ giao dịch thông
qua
hợp
đồng
sai
khác;
- Tỷ lệ điện năng thanh toán theo giá hợp đồng cho năm đầu tiên của thị trường
được quy định ở mức bằng 90% - 95% tổng sản lượng điện phát của nhà máy,
phần còn lại được thanh toán theo giá thị trường giao ngay. Tỷ lệ này sẽ được giảm
dần qua các năm tiếp theo để tăng tính cạnh tranh trong hoạt động phát điện, nhưng
không thấp hơn 60%.
3.2 CÁC ĐỐI TƯỢNG THAM GIA THỊ TRƯỜNG
Các đơn vị tham gia cạnh tranh phát điện: gồm các nhà máy điện có công suất
đặt từ 30 MW trở lên đấu nối vào lưới điện quốc gia (trừ các nhà máy điện gió,
điện
địa
nhiệt);
- Đơn vị mua buôn duy nhất: Công ty Mua bán điện thuộc Tập đoàn Điện lực Việt
20
- Xem thêm -