Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khổng tử - nhà giáo dục vĩ đại...

Tài liệu Khổng tử - nhà giáo dục vĩ đại

.PDF
77
87
118

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LẠC HỒNG KHOA ĐÔNG PHƯƠNG HỌC ----[ \---- BÁO CÁO NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ĐỀ TÀI: KHỔNG TỬ - NHÀ GIÁO DỤC VĨ ĐẠI Sinh viên thực hiện: CHÍ ĐAN HẠ Giáo viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Lê Tuấn BIÊN HÒA, THÁNG 12/2010 LỜI CẢM ƠN FX›WG Thấm thoát 4 năm đại học đã trôi qua, khóa luận của em cũng hoàn tất. Trong quá trình tiến hành làm bài nghiên cứu khoa học này, tuy gặp không ít khó khăn nhưng với sự quan tâm giúp đỡ từ phía nhà trường, quý thầy cô và bạn bè, em hoàn thành khóa luận này một cách thuận lợi nhất. Đầu tiên xin cho em gởi lời cám ơn chân thành nhất đến Tiến sĩ Trần HànhHiệu trưởng trường Đại học Lạc Hồng kiêm Trưởng khoa Đông Phương cùng Thạc sĩ Bùi Thị Thu Thủy- Phó khoa Đông Phương đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để giúp đỡ em hoàn tất khóa luận. Tiếp đến em xin chân thành cảm ơn Giáo viên hướng dẫn của mình thầy Thạc sĩ Nguyễn Lê Tuấn đã cho em những lời khuyên quý báu, luôn nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ và chỉ bảo em trong suốt quá trình làm bài. Con cám ơn bố mẹ đã cho con bước vào giảng đường Đại học, luôn cổ vũ, tiếp sức cho con trong suốt thời gian qua. Cám ơn sự yêu thương của gia đình, sự động viên, giúp đỡ của bạn bè đã giúp tôi có thêm được niềm tin vào chính mình. Cuối cùng cho mình gửi lời cám ơn sâu sắc đến các bạn trên cộng đồng mạng QQ đã giúp đỡ mình rất nhiều trong suốt quá trình viết khóa luận. Xin chân thành cảm ơn mọi người! MỤC LỤC A. PHẦN DẪN LUẬN...............................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................1 2. Lịch sử nghiên cứu đề tài .....................................................................................1 3. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu ..........................................................................2 4. Phương pháp nghiên cứu......................................................................................2 5. Những đóng góp của đề tài...................................................................................2 6. Cấu trúc của đề tài ................................................................................................3 B. NỘI DUNG CHÍNH .............................................................................................4 CHƯƠNG I: CUỘC ĐỜI KHỔNG TỬ ..................................................................4 1.1 Thân thế ..............................................................................................................4 1.1.1 Xuất thân....................................................................................................4 1.1.2 Những nét chính trong cuộc đời Khổng Tử...............................................5 1.2 Sự nghiệp............................................................................................................7 1.2.1 Sự nghiệp chính trị.....................................................................................7 1.2.2 Sự nghiệp giáo dục ....................................................................................9 1.3 Học thuật ..........................................................................................................11 CHƯƠNG II: NỘI DUNG TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ ........13 2.1 Quan điểm về giáo dục của Khổng Tử.............................................................13 2.1.1 Giáo dục không phân biệt giai cấp ..........................................................13 2.1.2 Học không biết chán, dạy không biết mệt ...............................................14 2.2 Mục đích giáo dục của Khổng Tử ....................................................................15 2.2.1 Thành nhân ..............................................................................................16 2.2.2 Làm quan giúp nước ................................................................................17 2.3 Cách nhìn về nghề dạy học của Khổng Tử ......................................................18 2.3.1 Lấy mình làm gương................................................................................19 2.3.2 Yêu mến học trò.......................................................................................20 2.4 Phương pháp dạy học của Khổng Tử ...............................................................23 2.4.1 Dạy theo đối tượng ..................................................................................23 2.4.2 Cách dạy gợi mở ......................................................................................25 2.4.3 Học đi đôi với hành..................................................................................27 2.4.4 Ôn cũ biết mới .........................................................................................28 CHƯƠNG III: THÀNH TỰU VÀ TẦM ẢNH HƯỞNG VỀ TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ .........................................................................................29 3.1 Thành tựu của tư tưởng giáo dục Khổng Tử ....................................................29 3.1.1 Sáng lập trường tư, bồi dưỡng nhân tài ...................................................29 3.1.2 Cách dạy khoa học, giúp trò thành danh..................................................31 3.2 Tầm ảnh hưởng của tư tưởng giáo dục Khổng Tử ...........................................33 3.2.1 Ảnh hưởng tư tưởng giáo dục Khổng Tử ở Trung Quốc và ở nước ngoài.................................................................................................33 3.2.2 Học viện Khổng Tử và sự truyền bá văn hoá Trung Hoa ở nước ngoài..35 C. PHẦN KẾT LUẬN.............................................................................................37 D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................40 -1- A. PHẦN DẪN LUẬN 1. Lý do chọn đề tài Người xưa nói: “Thập niên thụ mộc, bách niên thụ nhân”. Như mọi người đã biết giáo dục là một vấn đề luôn giữ một vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi người, mỗi gia đình, mỗi quốc gia. Nó là cơ sở, là nền tảng, là sức mạnh của quốc gia đó. Quốc gia nào có một nền giáo dục hoàn thiện thì quốc gia đó có nền xã hội rất phát triển. Vậy nền giáo dục như thế nào mới là một nền giáo dục hoàn thiện? Có lẽ những học thuyết của Khổng Tử hơn hai ngàn năm trước sẽ trả lời được phần nào câu hỏi này. Chính vì thế tôi đã quyết định chọn đề tài “Khổng Tử - Nhà giáo dục vĩ đại” làm khóa luận tốt nghiệp của mình. Khổng Tử là một nhà tư tưởng, nhà giáo dục vĩ đại, là người sáng lập ra phái Nho gia và là một trong những danh nhân văn hoá thế giới. Học thuyết của ông lưu truyền cho đến muôn đời sau với những bài giảng vượt qua không gian và thời gian, ông trở thành một vị thầy tiêu biểu của mọi thời đại. Điều gì đã khiến học thuyết giáo dục của ông trở nên nổi tiếng như vậy? Chúng ta sẽ thông qua khoá luận nghiên cứu về tư tưởng giáo dục của Khổng Tử này để tìm ra phần nào đáp án. 2. Lịch sử nghiên cứu đề tài Có rất nhiều đề tài nghiên cứu xung quanh Khổng Tử. Đa số các công trình nghiên cứu về lịch sử văn hóa Trung Quốc đều dành một phần nhất định để nói về ông, như là trong các công trình “Lịch sử văn minh Trung Hoa” do Phùng Quốc Siêu chủ biên, Nxb Văn hóa thông tin, 2004; “Đạo nho và văn hóa phương Đông” do Hà Thúc Minh chủ biên, Nxb Giáo dục, 2001. Trong cuốn “Vạn thế sư biểu” của Lương Xuân Hùng, 2003, Nxb Trẻ, tác giả đã đi tìm hiểu về những lời dạy của Đức Khổng Tử và một số môn đệ của ông về những phẩm hạnh mà con người cần phải tu dưỡng như: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, hiếu… và một số nội dung liên quan đến việc tu thân tề gia trị quốc bình thiên hạ. -2- Ngoài ra còn có rất nhiều công trình khác như “Đạo nho” của Trần Kim Trọng, Nxb Văn Học, 2003; Cuốn “Sự tái sinh của truyền thống” của Thẩm Thanh Tùng, Nxb Phương Đông, 2005; “Khổng Tử” của Nguyễn Hiến Lê, Nxb Văn hóa Thông tin, 2006… Những cuốn sách này đã đi sâu nghiên cứu về học thuyết nho giáo của Khổng Tử cũng như các môn đệ của ông. Các đề tài xoay quanh Khổng Tử có rất nhiều nhưng đa số tác giả thường quan tâm đến những học thuyết xoay quanh nho gia, cách đối nhân xử thế… Những đề tài riêng về mảng tư tưởng giáo dục thì ít được nghiên cứu sâu. Vì vậy bằng vốn hiểu biết nhỏ bé của mình, em muốn tìm hiểu sâu thêm về nội dung tư tưởng giáo dục của ông. 3. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu Khổng Tử là một đề tài được nhiều người nghiên cứu, các học thuyết triết lý của ông sâu rộng. Bằng sự hiểu biết còn nhiều hạn chế của bản thân, tôi chỉ nghiên cứu một phần nhỏ trong tư tưởng của ông, đó là nghiên cứu về vấn đề tư tưởng và sự nghiệp giáo dục của ông cũng như tầm ảnh hưởng của nó lúc đương thời và mãi về sau. 4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài nghiên cứu về “Khổng Tử - Nhà giáo dục vĩ đại” của tôi chủ yếu là sử dụng hai phương pháp chính là phân tích và tổng hợp. Thông qua những tư liệu đã tìm được tôi sẽ tiến hành tổng hợp và hệ thống nó lại để từ đó phân tích và làm rõ vấn đề. 5. Những đóng góp của đề tài Tôi mong rằng với sự hiểu biết còn non hẹp của mình cùng với sự giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn, khóa luận của tôi sẽ có thể đóng góp một phần nào đó về tư liệu cho những người muốn tìm hiểu về sự nghiệp giáo dục của Khổng Tử cũng như là tầm ảnh hưởng sâu rộng về tư tưởng giáo dục của ông. -3- 6. Cấu trúc của đề tài Phần mở đầu Phần nội dung Chương I: Cuộc đời Khổng Tử Chương II: Nội dung tư tưởng giáo dục của Khổng Tử Chương III: Thành tựu và tầm ảnh hưởng của tư tưởng giáo dục Khổng Tử Phần kết luận -4- B. NỘI DUNG CHÍNH CHƯƠNG I: CUỘC ĐỜI KHỔNG TỬ 1.1 Thân thế 1.1.1 Xuất thân Có rất nhiều tư liệu nghiên cứu về tiểu sử của Khổng Tử. Sau đây là vài nét chính về cuộc đời và thân thế của ông. Khổng Tử tên là Khâu, tự là Trọng Ni, sinh ngày 27 tháng 8 âm lịch (tức ngày 28 tháng 9 năm 551 tr.CN), đời vua Châu Linh Vương năm thứ 21 nhà Châu, tương ứng với đời vua Lỗ Tương Công năm thứ 22, tại làng Xương Bình, huyện Khúc Phụ, nước Lỗ, bây giờ là tỉnh Sơn Đông nước Trung Hoa. Ông mất ngày 11 tháng 2 âm lịch (tức ngày 11 tháng 4 năm 479 tr.CN). Ông được gọi là Khổng Tử là vì ông họ Khổng, còn “Tử” là cách gọi tôn kính người con trai đã trưởng thành thời cổ đại. Thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc con trai trưởng thành, có một vị trí xã hội nhất định đều được gọi là “Tử”, hơn nữa họ cũng hi vọng người khác gọi mình là “Tử”, vì “Tử” còn là một loại tước vị dùng để chỉ “Tử” trong “công hầu bá tử nam”. Nhưng người thực sự được người khác gọi là “Tử” thường chỉ có hai loại: một là những người có uy tín tương đối cao trong xã hội như “giáo viên”; hai là những người dòng dõi quý tộc có phẩm chất đạo đức tốt. Khổng Tử và Lão Tử thuộc loại người thứ nhất. Hơn nữa Khổng Tử còn là một nhà tư tưởng, nhà chính trị và là một nhà giáo dục vĩ đại trong lịch sử, là người đã sáng lập ra học phái Nho gia. Theo truyền thuyết, tổ tiên của Khổng Tử vốn là hậu duệ Ân Thương. Sau khi nhà Chu diệt nhà Ân, Chu Thành Vương phong cho người anh của Thương Trụ vương là Vi Tử Khởi đất Tống, kiến đô ở Thương Khâu (thuộc Thương Khâu, tỉnh Hà Nam ngày nay). Sau khi Vi Tử Khởi chết, người em trai là Vi Trọng kế vị. Vi Trọng chính là tổ tiên của Khổng Tử. Cháu đời thứ tư của Vi Trọng là Phất Phụ Hà, cũng chính là ông tổ thứ mười một của Khổng Tử, lẽ ra kế vị làm Tống công thì lại -5- nhường ngôi cho người em trai. Từ đó về sau, hậu duệ của Phất Phụ Hà không kế thừa Vương vị nữa mà được phong làm Khanh. Từ đời thứ năm sau Phất Phụ Hà truyền đến ông tổ thứ sáu của Khổng Tử là Khổng Phụ Gia. Từ đó con cháu đời sau lấy họ Khổng, đó cũng là cội nguồn họ Khổng. Khổng Phụ Gia truyền được ba đời thì đến Khổng Phòng Thúc, là tằng tổ của Khổng Tử, Khổng Phòng Thúc lánh nội loạn ở nước Tống dời đến định cư ở nước Lỗ. Cha của Khổng Tử là Thúc Lương Ngột làm quan võ ở nước Lỗ, từng đảm nhiệm chức đại phu Trâu ấp nên được gọi là “Trâu Thúc Ngột”. Thúc Lương Ngột lấy người vợ đầu là Thi Thị, sinh được chín người con gái nhưng không có người con trai nào. Sau đó người vợ lẽ của ông sinh được một con trai nhưng bị què một chân, tên là Mạnh Bì, tự là Bá Ni. Còn về sự ra đời của Khổng Tử, đó là cả một câu chuyện. Năm Thúc Thương Ngột 70 tuổi, sợ không có người kế tự, mới sai người đến nhà họ Nhan để cầu hôn. Họ Nhan có năm người con gái đều chưa gả chồng, có ý chê Thúc Lương Ngột quá già mới bảo với các con gái rằng: “Có ai trong các con thuận kết duyên với đại phu Trâu ấp đó không?”. Bốn người con gái lớn đều làm thinh, chỉ có người con gái út là NhanTrưng Tại đứng dậy thưa rằng: “Phép làm con gái, khi còn ở nhà thì cha đặt đâu con ngồi đó, cần gì cha phải hỏi han chi thêm cho nhọc”. Thế là Nhan Trưng Tại kết duyên cùng Thúc Thương Ngột. Theo truyền thuyết, Khổng Tử khi sinh ra trên đầu gồ giữa lõm và cha mẹ Khổng Tử lại đi cầu tự ở núi Ni Khâu mà mang thai Khổng Tử nên họ đặt tên cho ông là Khâu, tự là Trọng Ni. 1.1.2 Những nét chính trong cuộc đời Khổng Tử Thường những người nổi tiếng, những anh hùng xuất chúng hay những người có học thức tuyệt vời đều có tuổi thơ không mấy hạnh phúc mà phải lao đao lận đận. Khổng Tử cũng vậy, năm ông lên ba thì cha ông là Thúc Thương Ngột bị bệnh qua đời. Từ đó gia đình ông trở nên nghèo khó chỉ nhờ một mình mẹ tảo tần nuôi dưỡng. -6- Lúc nhỏ Khổng Tử đã thông minh hiếu học. Thuở nhỏ đã rất thích lễ nghi. Ông thường đến đền thờ tổ ở Khúc Phụ (kinh đô của nước Lỗ) để quan sát các nghi thức ở đây. Khi trở về với chúng bạn, ông thường bày ra các trò chơi tế lễ bắt chước các nghi lễ cúng tế của người lớn mà mình là người chủ tọa. Đến khi được vào trường học ông chuyên cần hơn mọi chúng bạn. Năm mười một tuổi ông từng học lễ với Lỗ Thái sư. Khác với chúng bạn lúc niên thiếu ham chơi, Khổng Tử là một người trầm tĩnh, cần cù, say mê học tập, lấy học làm niềm vui. Trong cuốn Luận ngữ - Vi chính có câu:“子曰:吾十有五而志於学”. Âm đọc, Tử viết: ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học. Nghĩa là lúc mười lăm tuổi ông đã tu chí học tập rồi. Năm Khổng Tử mười bảy tuổi thì mẹ ông mất. Ông an táng mẹ chung phần mộ với cha. Năm mười chín tuổi ông cưới Kỳ Quan làm vợ. Đến năm hai mươi tuổi vợ ông sinh được đứa con trai đầu lòng. Tương truyền đúng lúc ấy vua Lỗ Chiêu Công tặng cho Khổng Tử một con cá “lý ngư” thế là ông đặt tên con là Khổng Lý, tự là Bá Ngư (tức con cá đứng đầu trong các loài cá). Về sau, Bá Ngư chết lúc 50 tuổi, chết trước Đức Khổng Tử. Con của Bá Ngư tên là Khổng Cấp, tự là Tử Tư, sau theo học với Tăng Sâm, rồi làm ra sách Trung Dung. Sau này, Khổng Tử còn có đứa con gái và được gả cho môn đệ của ông là Công Dã Tràng. Trong cuốn Luận ngữ - Công Dã Tràng Khổng Tử có nói:“可妻也。虽在缧绁之中,非其罪也” . Âm đọc: Khả thế dã. Tuy lại luy tiết chi trung, phi kì tội dã. (Dịch nghĩa: có thể gả con gái cho trò ấy. Tuy trò ấy bị tù nhưng đó không phải là tội của nó). Khoảng năm Khổng Tử hai mươi mốt tuổi thì ông làm quan chức “ủy lại” (một chức quan nhỏ trông coi việc sổ sách). Sau đó sang làm “thừa điền” (chức quan nhỏ trông coi gia súc). Đến khoảng ba mươi tuổi thì ông bắt đầu mở trường tư, thu nhận môn sinh. Năm ông năm mươi mốt tuổi lại làm chức Đại tư khấu ở nước lỗ. Năm năm mươi lăm tuổi bắt đầu chu du sang các nước như Vệ, Trần, Tống, Trịnh... Những năm về già ông về lại nước Lỗ, làm quân sư cho vua, tiếp tục giảng dạy và chỉnh lý Kinh Thi. Năm 483 trước Công Nguyên, người con trai duy nhất của ông lâm bệnh rồi qua đời. Năm 481 trước Công Nguyên, người học trò yêu của ông -7- là Nhan Hồi cũng qua đời. Năm 480 trước Công Nguyên, Tử Lộ bị giết trong cuộc nội chiến nước Vệ. Năm 479 trước Công Nguyên, Khổng Tử qua đời, hưởng thọ bảy mươi ba tuổi. Ông được an táng bên bờ sông Tứ Thủy ở Khúc Phụ. Các học trò của ông đều than khóc, thương tiếc và ở bên cạnh mộ ông để túc trực, có người túc trực hương khói đến sáu năm. Trong thời gian để tang thầy, họ nhớ và ghi chép lại những lời nói, việc làm của Khổng Tử để biên soạn thành tập sách Luận ngữ, lưu truyền cho đến đời nay . 1.2 Sự nghiệp Khổng Tử là nhà chính trị, nhà tư tưởng, nhà giáo dục vĩ đại nhất thời cổ đại Trung Quốc, ông là người sáng lập ra học phái Nho gia và là một trong những nhà văn nổi tiếng nhất trên thế giới. Cuộc đời của ông gắn liền với những quan điểm về chính trị và giáo dục. 1.2.1 Sự nghiệp chính trị Từ năm hai mươi tuổi Khổng Tử đã muốn đi vào con đường quan trường, cho nên ông rất quan tâm đến những việc thiên hạ đại sự, thường xuyên suy nghĩ về những vần đề chính trị quốc gia, cũng thường xuyên đưa ra một số kiến giải của mình. Mặc dù chỉ ở độ tuổi hai mươi nhưng ông đã nắm được nhiều tri thức văn hóa, được mọi người ca ngợi là “bác học hiếu lễ”. Lúc này ông đã từng làm “tướng lễ” (giúp việc cúng tế lễ nghi). Người làm nghề này đều phải có tri thức về văn hóa lễ nhạc nhất định, chuyên giúp việc cúng tế cho các gia đình quý tộc trong các hôn tang tế sự. Kế đó Khổng Tử được cử làm “ủy lại”, một chức quan nhỏ trông coi việc sổ sách (hay gọi là nhân viên quản lí kho). Sau đó sang làm “thừa điền” (trông coi gia súc), nổi tiếng là thông minh liêm khiết. Điều này được chứng minh qua câu nói của Khổng Tử:“吾少也贱,故多能鄙事。”. Âm đọc: Ngô thiếu dã tiện, cố đa năng bỉ sự, dịch nghĩa là: ta hồi nhỏ nghèo khó nên học được nhiều nghề thấp hèn, (Luận ngữ, Tử Hãn, IX, 6). -8- Đến năm 30 tuổi, Khổng Tử đã ít nhiều có danh tiếng. Khi Tề Cảnh Công cùng đại phu Án Anh đi chơi ở nước Lỗ có triệu kiến Khổng Tử và cùng bàn luận về chuyện Tần Mục Công. Khổng Tử trả lời hợp ý Tề Cảnh Công thế là từ đó được lòng vua Tề. Năm 517 trước công nguyên, Khổng Tử 35 tuổi, nước Lỗ xảy ra nội loạn. Khổng Tử rời nước Lỗ đến nước Tề, ở đây ông được Tề Cảnh Công trọng dụng và hậu đãi, thậm chí vua Tề còn từng chuẩn bị tặng ruộng đất cho Khổng Tử nhưng bị Án Anh can ngăn. Ở nước Tề được vài năm thì Khổng Tử bị những triều thần ở nước Tề đoan tính hãm hại, ông biết được chuyện này liền cầu cứu Tề Cảnh Công. Tề Cảnh Công muốn trọng dụng Khổng Tử nhưng do triều thần phản đối nên lại thôi, ông nói với Khổng Tử rằng:“吾老矣,弗能用也。”. Âm đọc: Ngô lão hĩ bất năng dụng dã. Dịch nghĩa là: Ta già rồi không dùng được Khổng Tử nữa.(Luận ngữ, Vi tử, XVIII, 3). Thế là Khổng Tử đành bỏ về nước Lỗ. Đương thời nước Lỗ cũng đứng trước sự rối loạn về chính trị, quyền lực thực tế đều nằm trong tay bọn triều thần. Do đó mặc dù Khổng Tử có hai lần cơ hội được tham chính nhưng ông đều từ bỏ mà chuyên tâm vào việc chỉnh lý nghiên cứu Kinh Thi, đồng thời mở trường dạy học thu nhận học trò, nỗ lực phát triển sự nghiệp giáo dục. Năm Khổng Tử năm mươi mốt tuổi, ông được phong làm Trung Đô ấp tể, (Trung Đô là ấp ở Sơn Đông ngày nay) nắm giữ công việc hành chính của một vùng đất ở nước Lỗ. Một năm sau ông được thăng chức làm Tiểu Tư Không, không lâu sau đó lại được làm Đại Tư Khấu. Khổng Tử chịu tránh nhiệm trị an và giữ gìn luật pháp nghiêm minh. Trong thời Khổng Tử nhậm quyền, các vụ tội phạm giảm dáng kể, trị an xã hội được cải thiện. Nước Tề sợ Khổng Tử tham chính ở nước lâu sẽ làm nước Lỗ cường thịnh bèn tìm cách phá hoại. Nước Tề tuyển chọn 80 cô gái đẹp, 120 cỗ xe ngựa tốt dâng tặng vua nước Lỗ, quả nhiên vua Lỗ chìm trong tửu sắc, nhiều ngày liền không thượng triều vấn chính khiến Khổng Tử vô cùng thất vọng. Năm 497 trước công nguyên, Khổng Tử rời khỏi nước Lỗ, bắt đầu chuyến chu du liệt quốc, ông đi qua nhiều nước như Vệ, Tào, Tống, Trần, Sái, Sở... nhưng vẫn -9- không được trọng dụng, đến những năm cuối đời ông lại quay về nước Lỗ nhưng chỉ làm cố vấn chứ vẫn không được tham chính. Học thuyết chính trị của ông không cách nào dùng vào thời đó, nhưng điều vĩ đại ở ông là ở chỗ:“知其不可为而为之”. Âm đọc: chi kỳ bất khả hành nhi hành chi, có nghĩa là: mặc dù biết không thể làm được nhưng vẫn cố hết sức làm. Ông đành kí thác tư tưởng chính trị của mình vào hậu thế (tức các học trò của ông). Khi Khổng Tử trở về nước Lỗ ở những năm cuối đời thì ông đã dừng lại việc trực tiếp tham gia vào những hoạt động chính trị. Một mặt ông tiếp tục chuyên tâm vào việc chỉnh lí điểm tịch văn hóa, chuyên tâm vào việc biên soạn Kinh Thi, Kinh Xuân Thu, mặt khác mở rộng quy mô sự nghiệp giáo dục. Cuốn Kinh Xuân Thu mà ông biên soạn thể hiện quan điểm của ông về đúng, sai, thiện ác rất rõ ràng. Nó được cho là: “ khiến những bầy tôi bất trung, những kẻ xấu phải sợ hãi”. Đến năm 73 tuổi ông lâm bệnh rồi mất. 1.2.2 Sự nghiệp giáo dục Cả cuộc đời Khổng Tử thì hơn một nửa đời ông gắn bó với sự nghiệp giáo dục. Ông bắt đầu sự nghiệp giáo dục của mình vào khoảng năm 30 tuổi. Lúc này ông mở trường tư, thu nhận môn sinh, bắt đầu hoạt động giáo dục. Vào thời bấy giờ trường học chỉ dành cho đại bộ phận con em quý tộc, bình dân không có cơ hội học hành. Ông chính là người phá vỡ chế độ giáo dục lũng đoạn lúc bấy giờ bằng việc mở trường tư, thu nhận con em bình dân, giúp họ có cơ hội được đến trường. Đây được xem là một bước ngoặt lớn trong lịch sử giáo dục Trung Quốc. Tuy nhiên trong lịch sử Trung Quốc Khổng Tử không phải là người đầu tiên mở trường tư dạy học, trước ông còn có Trịnh Tích, Thiếu Chính Mão, Vương Thai… là những nhà tiên phong trong việc khai sáng trường tư. Tuy nhiên quy mô và ảnh hưởng của họ không lớn như Khổng Tử nên ông vẫn được xem là người tiên phong đánh đổ sự lũng đoạn giáo dục trong lịch sử Trung quốc. Do chương trình dạy học của Khổng Tử có nhiều nội dung phong phú, cách dạy lại linh hoạt, các bài học trong trường của ông nhờ thế ngày càng được nâng - 10 - cao hơn. Học trò đến với ông trên tinh thần tự nguyện ngày càng cao. Uy tín của ông lớn lên hàng ngày hàng giờ trong mắt của học trò cũng như trong thiên hạ. Giai đoạn từ năm ông ba mươi bảy tuổi đến năm ông năm mươi lăm tuổi, được xem là giai đoạn phát triển nhất trong sự nghiệp giáo dục của ông. Vào khoảng thời gian này tuy cũng có tham gia vào việc chính sự song ông vẫn tiếp tục thu nhận môn sinh từ khắp nơi. Ngoài những môn sinh ở nước Lỗ, còn có những học trò từ nước Tần, Tề, Sở, Vệ, Trần, Ngô… cùng nhiều quốc gia khác đều đến cầu học. Vào khoảng năm ông năm mươi lăm tuổi, ông bắt đầu cuộc hành trình chu du liệt quốc của mình. Trong mười bốn năm phiêu bạt, ông vẫn không ngừng hoạt động giáo dục. Ông vẫn kiên trì truyền thụ tư tưởng của mình cho các học trò của mình qua những cuộc tranh luận, kể chuyện, bàn luận về âm nhạc và hát xướng, qua đó giúp họ mở rộng tầm nhìn cũng như mài giũa ý chí của họ. Đây được xem là một hoạt động giáo dục rất hay trong giáo dục. Những năm về già ông về lại nước Lỗ làm quân sư, tiếp tục giảng dạy và chỉnh lý Kinh Thi. Có thể nói sự nghiệp giáo dục gắn liền với cả cuộc đời ông. Trong thực tiễn giáo dục trường kỳ đó, Khổng Tử đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm phong phú, xây dựng được một hệ thống tư tưởng cũng như sáng tạo ra những phương pháp giáo dục khoa học, giúp xã hội đào tạo ra một số lượng lớn các học trò có tài đức vẹn toàn. Môn sinh của ông tương truyền có đến hơn ba nghìn, trong đó có bảy mươi hai người đã lưu danh sử sách hay còn gọi họ là thất thập nhị hiền. Có thể nói thành tựu lớn nhất trong sự nghiệp giáo dục của ông chính là tạo ra được một lớp môn sinh tài giỏi và hữu dụng như vậy. Có thể nói trong lịch sử về giáo dục của Trung Quốc, vẫn chưa có một người vĩ đại nào có thể so sánh với Khổng Tử. Ông được người đời sau tôn xưng với nhiều danh hiệu như là “đại thành chí thánh tiên sư”, “vạn thế sư biểu” và nhiều danh xưng khác. Khổng miếu thờ Khổng Tử không những được xây dựng ở khắp nơi ở Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam mà còn được xây dựng ở những quốc gia Âu Mỹ và Nam Dương. - 11 - 1.3 Học thuật Những tư tưởng, học thuyết của Khổng Tử được du nhập vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc, tuy nhiên nhiều quan niệm về xã hội, con người, đạo đức, giáo dục của Khổng Tử vẫn còn giữ nguyên giá trị và mang tính thời sự nên ảnh hưởng của nó vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay. Có thể nói, mục tiêu đào tạo của Khổng Tử là bồi dưỡng những người có đức có tài để giúp ích cho xã hội. Trong việc giáo dục môn sinh của mình ông rất chú trọng đến việc tu dưỡng đạo đức. Ông xây dựng nên hình tượng người quân tử với năm đức tính: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Trong đó chữ Nhân diễn tả ý nghĩa mối liên hệ giữa hai con người, mang ý nghỉa tình cảm, quan tâm chăm sóc giữa người với người. Nó còn bao gồm nhiều ý nghĩa khác nhau như lòng nhân ái, tình thương yêu đồng loại, sự kính trọng, sự trung thực, biết quan tâm và không làm những điều mình không muốn đối với người khác; Còn Lễ là lòng tôn kính, lịch thiệp và có lễ nghi chứ không phải những điều luật hình thức như phép xã giao.Khổng Tử xem chữ Lễ vửa là luật lệ, vừa là mục đích để biểu lộ chữ Nhân; Nghĩa (義)trong tiếng hoa phồn thể, chiết tự ra gồm phần trên là bộ Dương (羊: dê, cừu), ở dưới là chữ Ngã (我: tôi, ta). Trong chữ Ngã này tượng hình một bàn tay cầm dao. Qua đó biểu hiện nên hàm nghĩa của chữ Nghĩa lả: một chú cừu hiền lành vẫn có thể làm một người đang nộ khí xung thiên bị khuất phục. Nó mang ý nghĩa sở thích cá nhân phải đi sau và tuân thủ các nguyên tắc đạo lý. Và người quân tử phải lấy chữ Nghĩa làm nguyên tắc nền tảng; Trí có nghĩa là có ý thức và đắc thủ được học thức, ngoài ra nó còn mang hàm nghĩa khôn ngoan. Khổng Tử nói: “Biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, đó là biết (Trí). Ông tin rằng cần trăn trở xem mình đã hiểu người khác chưa chứ không cần lo xem người khác đã hiểu mình chưa; Tín có nghĩa là sự tin tưởng lẫn nhau giữa người với người. Khổng Tử nhấn mạnh đức tính này. Ông không tin một người bất tín có thể giữ được địa vị trong xã - 12 - hội. Còn một người trung thực biết giữ lời bao giờ cũng được lòng mọi người cho dù ở bất cứ đâu. Trong năm đức tính này, chữ Nhân được Khổng Tử coi là nguyên lý đạo đức cơ bản quy định bản tính con người và quan hệ giữa người với người từ gia đình cho đến xã hội. Nhưng để đạt được “đức Nhân” không phải là chuyện dễ. Người đạt được “đức Nhân” ở bậc cao nhất là thánh nhân, điều này ở trên đời khó có thể thấy được; người đạt được “đức Nhân” ở bậc thứ là quân tử, điều này thì có thể thấy được. Nhưng nói chung không chỉ “đức Nhân” là quan trọng mà cả năm đức tính đều cần phải tu dưỡng hoàn thiện, thiếu một trong năm đức tính này không thể trở thành người quân tử. Ngoài việc thành công trong việc xây dựng hình tượng người quân tử, Khổng Tử còn rất thành công trong việc sáng tạo ra một hệ thống tư tưởng giáo dục khoa học. Đó là những quan điểm về người dạy và người học, những phương pháp dạy học đa dạng và linh hoạt mang tính khoa học cao…Những tư tưởng ấy sẽ được nói rõ hơn trong chương tiếp theo của khóa luận này. - 13 - Chương II: NỘI DUNG TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ 2.1 Quan điểm về giáo dục của Khổng Tử 2.1.1 Giáo dục không phân biệt giai cấp Nói về tư tưởng giáo dục của Khổng Tử ta không thể nào không nhắc đến chủ trương“有教无类”. Âm đọc: hữu giáo vô loại, tức là giáo dục không phân biệt cao thấp sang hèn. Hồi ấy, văn hóa giáo dục là độc tôn của các bậc quyền quý, còn bình dân không có cơ hội được học hành. Khổng Tử đã phá vỡ sự lũng đoạn giáo dục của giai cấp quý tộc lúc bấy giờ bằng việc mở trường tư dạy học, cho tất cả các con em bình dân vào học. Đây được xem là một bước ngoặt, một bước tiến quan trọng trong lịch sử giáo dục của Trung Quốc. Khổng Tử cho rằng “con người ta sinh ra vốn bản tính không có gì khác nhau, sở dĩ có sự khác nhau là do tác động của hậu thiên (những yếu tố ngoại lai tác động đến), tồn tại quyết định ý thức”. Ông cho rằng thiên tài và người bình thường khi ra đời đều giống nhau, điều khác nhau sẽ dần hình thành do sự giáo dục về sau. Yếu tố hậu thiên ở đây bao gồm ba nhân tố: gia đình, môi trường sống và giáo dục. Những yếu tố này đã quyết định đến việc hình thành tư tưởng ý thức của mỗi người. Tư tưởng ý thức và trình độ tri thức của con người được hình thành do hậu thiên, thông qua giáo dục bồi dưỡng mà nên. Vì thế ông rất xem trọng việc giáo dục Đối với Khổng Tử ai cũng có quyền được học, bất luận phú quý bần tiện, ông từng nói: “những người đến xin học ở chỗ ông, ông chưa từng không dạy”. Học trò đến xin học chỉ cần có mười xâu thịt khô thì ông đã nhận. Học trò của ông đến từ khắp mọi nơi, Tần, Tề, Sở, Vệ, Trần, Ngô… với đủ tầng lớp và loại người. Có những con em của các quý tộc giàu sang lúc bấy giờ như Nhiễm Cầu, Tư Mã Ngưu hay phú thương như Tử Cống hay những học trò xuất thân từ tầng lớp bình dân như Nhan Hồi, Tử Lộ, Tuyên Nguyên…, cần cù siêng năng như Nhan Hồi hay lười biếng như Tể Mâu. Điều này một lần nữa đã chứng minh được rằng Khổng Tử đã - 14 - thực sự thực hiện chủ trương “Hữu giáo vô loài” của mình. Qua đó cũng thể hiện được phần nào chủ trương nhân ái của ông “Phiếm ái chúng nhi nhân dân” [6,44]. Có nghĩa là yêu khắp mọi người mà gần gũi người nhân đức. 2.1.2 Học không biết chán, dạy không biết mệt “学而不厌,诲人不倦”. Âm đọc: học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện [6,93] là một trong những câu danh ngôn của Khổng Tử. Nó có nghĩa là cần mẫn học tập mà không chán, toàn tâm dạy dỗ người mà không mệt. Thật vậy, cả cuộc đời Khổng Tử đã theo đuổi sự nghiệp dạy học trên tinh thần đó. Ông luôn yêu cầu bản thân mình phải không ngừng cố gắng học hỏi, luôn cần mẫn chỉ dạy cho học trò. Chính vì lẽ đó thông qua việc trải nghiệm trong thực tế lâu dài, ông đã tích lũy được kinh nghiệm dạy học phong phú, sáng tạo những phương pháp giáo dục, lý luận giáo dục một cách khoa học để rồi đào tạo ra được hàng loạt các học trò có đức có tài giúp ích cho xã hội. Theo Khổng Tử “Ta không phải sinh ra đã là người có tri thức mà là người yêu thích điển tịch cổ, siêng năng học hỏi tìm tòi”. Bởi thế, là một người thầy giáo, ông luôn nổ lực học tập không ngừng để bổ sung thêm kiến thức mới để có thể truyền dạy học trò của mình những kiến thức tốt nhất. Ông từng nói: “Cho ta sống thêm vài năm nữa, hoặc năm năm hoặc mười năm, để ta theo đuổi học vấn” [6, 97]. Nhưng làm thế nào để “Học không biết chán”? Điều mấu chốt là ở chỗ ta phải yêu thích nó, để rồi vui với nó. Ông từng nói: “知之者不如好之者,好之者不如乐者”. Âm đọc: tri chi giả bất như hiếu chi giả, hiếu chi giả bất như lạc chi giả [6, 89]. Dịch nghĩa là: Đối với bất cứ việc gì, người hiểu nó không bằng người thích nó, người thích nó không bằng người vui với nó. Chỉ có người yêu thích việc học tập thì mới có thể tìm thấy niềm vui để rồi thực sự hòa nhập vào nó. Như Khổng Tử khi đọc sách thì quên ăn, khi ở nước Tề nghe nhạc Thiều ngay cả mùi vị thịt cũng không biết. Bởi thế Khổng Tử luôn khen những học trò có tinh thần lạc quan hiếu học. Như khi thấy Nhan Hồi tuy sống trong cảnh nghèo khó nhưng vẫn lạc quan, ông liền khen: “Một giỏ cơm, một bầu nước, sống trong ngõ hẹp, người khác sẽ ưu - 15 - sầu không sống nổi trong cảnh đó. Nhan Hồi lại không thay đổi niềm vui của mình, hiền lương thay anh Hồi” [6, 87]. Ngoài ra Khổng Tử còn nhận định rằng con đường học vấn là con đường đầy gian nan do đó ta cần phải“知难而进”. Âm đọc: tri nan nhi tiến, tức là biết khó nhưng phải luôn biết vượt khó và tiến về phía trước. Người đọc sách phải luôn giữ vững lập trường của mình, kiên trì đeo đuổi mục tiêu đến cùng. Cũng vì lẽ đó nên khi môn sinh Nhiễm Cầu cho rằng mình không có đủ năng lực để học, Khổng Tử liền trách mắng: “Những người không đủ sức thì làm việc nửa đường bỏ gánh, còn trò bây giờ vẫn chưa bắt đầu lên đường” [6,87]. Như vậy ta có thể thấy rằng theo Khổng Tử nguyên nhân chính mà Nhiễm Cầu cảm thấy mình không đủ năng lực là do trò vẫn chưa thật sự hạ quyết tâm, chưa thật sự kiên trì với mục tiêu của mình. Khổng Tử trách mắng Nhiễm Cầu để trò biết là mình phải kiên trì hơn, phải biết “Tri nan nhi tiến”, như vậy mới có thể vượt qua chính mình, mới có thể đạt đạo. Tất cả những điều kể trên rõ ràng đã chứng minh được rằng Khổng Tử quả là một người “Học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện”. Ông quả là một nhà giáo yêu nghề, chỉ có một nhà giáo yêu nghề thì mới có thể tận tụy với nghề như thế. Luôn học tập không ngừng để bổ sung thêm kiến thức truyền đạt cho môn sinh, luôn dạy trò không biết mệt. Đây quả là một phẩm chất cao đẹp của một nhà giáo vĩ đại mà ta luôn phải tôn vinh và học hỏi. 2.2 Mục đích giáo dục của Khổng Tử Trong lịch sử triết học cổ đại Trung Quốc, Khổng Tử là người đầu tiên mở trường tư cho mọi người. Khổng Tử nói:“有教无类”. Âm đọc: hữu giáo vô loại. Nghĩa là: Bất luận hạng người nào (giàu nghèo, sang hèn, thông minh, đần độn …) Khổng Tử cũng dạy [6,189]. Ông mở trường cho mọi người, đầu tiên là muốn đào tạo họ thành những con người lương thiện, sống có nghĩa tình; sau đó chọn trong số những người ưu tú để đặc biệt tạo thành một người quân tử có nhân, trí, dũng để làm quan giúp nước. Vậy mục đích giáo dục của ông có thể tạm tóm gọn trong hai - 16 - điều: một là “Thành nhân”, hai là “học nhi ưu tắc sĩ” (tức là học để rồi ra làm quan). 2.2.1 Thành nhân Mục đích giáo dục của Khổng Tử là giúp mọi người hoàn thiện nhân cách hay nói cách khác là ông dạy cách làm người. Trong quá trình Khổng Tử dạy học, ông không dạy những nghề như làm ruộng, làm vườn, nên khi Phàn Trì đến xin học những nghề ấy ông đều từ chối (Luận Ngữ, Tử Lộ, XIII, 4). Ông cũng không dạy cách cầm quân đánh giặc. Vua Linh công nước Vệ hỏi Khổng Tử về chiến trận. Khổng Tử đáp: “Về việc tế tự, lễ khí thì tôi đã từng nghe, còn về quân lữ thì tôi chưa học” [6, 179]. Mà cái ông truyền dạy ở đây là luân lý, đạo lý, triết lý, chính trị. Khổng Tử chủ trương dạy mọi người biết cách cư xử sao cho vẹn hiếu, trọn trung, vẹn tình, trọn nghĩa. Khổng Tử dạy học trò của mình rằng khi ở trong nhà thì hiếu thảo với cha mẹ, ra ngoài thì phải kính nhường bậc huynh trưởng, thận trọng trong lời nói mà thành tín, yêu khắp mọi người mà gần gũi với người nhân đức, làm được như vậy rồi mà còn dư sức mới học văn. Khổng Tử luôn chú trọng việc học tập làm người, ông nói: “Người không có đức nhân thì lễ mà làm gì? Người không có đức nhân thì nhạc mà làm gì?” [6, 57]. Vậy rốt cuộc đức Nhân là gì? Phàn Trì hỏi về đức Nhân, Khổng Tử đáp: “Ái nhân” tức là yêu người (Luận Ngữ, Nhan Uyên, XII, 22). Trọng Cung hỏi về đức Nhân, Khổng Tử đáp: “Cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người.” (Luận Ngữ, Nhan Uyên, XII, 2). Rồi khi Tử Cống hỏi, ông trả lời: “ Phàm là người nhân, mình muốn tự lập thì cũng thành lập cho người; mình muốn thành công thì cũng giúp cho người thành công. Mình muốn cái gì thì giúp người được cái đó, đó là phương pháp của người nhân” [6, 92]. Nhân là yêu người- yêu người là giúp người, nếu không giúp người thì không còn được gọi là nhân nữa. Khổng Tử dạy rằng đức nhân là nền tảng của con người, vì nó bao trùm tất cả các đức khác (cung, khoan, tín, mẫn, huệ …) và là gốc của lễ, nhạc. Khi Tử Trương hỏi về đức Nhân, Khổng Tử đáp: “Cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Cung kính thì không
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan