TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Khởi thảo và nghiên cứu hệ thống chiên
chân không tự động
NGUYỄN VĂN DƯƠNG
Ngành: Máy và Tự động hoá Công nghệ sinh học và thực phẩm
Người hướng dẫn khoa học: Nguyễn Minh Hệ
Hanoi, 2007
Luận văn cao học
Nghành Máy & Tự động hóa CNSH & TP
MỞ ĐẦU
Rau quả là nhóm thực phẩm rất quan trọng, nó không thể thiếu cũng
như không thể thay thế được trong đời sống thường ngày của chúng ta. Trong
rau quả có rất nhiều chất dinh dưỡng, nó có tác dụng rất quan trọng như làm
giảm cholestrol trong máu, ngăn ngừa các nguy cơ ung thư... Người ăn đủ rau
quả thường làm cho tinh thần thoải mái, minh mẫn và ít gặp strees hơn.
Vitamin trong rau quả rất quan trọng, đặc biệt một số loại vitamin như
vitamin C chỉ có trong rau quả.
Trong điều kiện xã hội đang phát triển như hiện nay đã phát sinh hàng
loạt các vấn đề về dinh dưỡng, nhiều căn bệnh của thời đại đã phát triển thì
vai trò quan trọng của rau quả ngày càng được khẳng định.
Rau quả rất phong phú về chủng loại và có năng suất lớn, nhưng lại có
tính thời vụ rõ rệt. Việc bảo quản rau quả tươi gặp rất nhiều khó khăn mà vẫn
không thể đảm bảo được vấn đề dinh dưỡng và không kinh tế.
Vì vậy, vấn đề chế biến rau quả thành những sản phẩm có thể bảo quản
được lâu, dễ phân phối, dễ sử dụng là một giải pháp hết sức quan trọng.
Đối với nước ta trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay thì việc chế biến
nông sản nói chung và vấn đề chế biến rau quả nói chung còn có 1 vai trò rất
quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội:
- Chế biến rau quả là lối thoát cho đầu ra sản phẩm nông nghiệp của
chúng ta hiện nay.
- Tạo thêm công ăn việc làm, giải quyết lao động dư thừa ngay tại các
vùng nông thôn Việt Nam.
- Mở ra một hướng mới cho việc phát triển ngành nông nghiệp Việt
Nam, nâng cao tính chuyên môn hóa trong việc phát triển nông nghiệp, tạo cơ
hội đưa nông sản Việt Nam đến với thị trường quốc tế để mang lại nguồn
Nguyễn Văn Dương
Trang 1
Khóa học: 2005 - 2007
Luận văn cao học
Nghành Máy & Tự động hóa CNSH & TP
ngoại tệ quan trọng trong công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất
nước.
Chiên chân không là một biện pháp chế biến, bảo quản rau quả rất hiệu
quả và có tính chất quyết định tới chất lượng sản phẩm. Những trái mít, chuối,
ổi, củ khoai lang, khoai môn... mang bán tươi có giá rất thấp nhưng sau khi
đưa vào chiến sấy chân không giá trị của sản phẩm được tăng lên rất nhiều
lần. Vì sản phẩm đó sau khi chế biến vẫn giữ được hương vị đặc trưng của
nông sản tươi. Những năm trước những sản phẩm chiên sấy khô chủ yếu sản
xuất để xuất khẩu, nhưng mấy năm gần đây, do đời sống của người dân tăng,
nhu cầu về sản phẩm và dinh dưỡng cũng tăng cao nên sản phẩm chiên sấy
khô đang được tiêu thụ rất mạnh ở trong nước.
Do đặc thù của công nghệ chiên sấy chân không là những sản phẩm
trên không cần thêm bất kỳ một phụ gia hay hóa chất nào trong quá trình chế
biến nên thành phẩm vẫn giữ được hương vị đặc trưng của nông sản tươi. Mặt
khác, hàng nông sản chiên sấy khô nếu muốn xuất khẩu thành công vào
những thị trường khí tính thì nhu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm là rất quan
trọng. Chúng phải tuân theo những quy định rất nghiêm ngặt về vệ sinh an
toàn thực phẩm của các nước như EU, Mỹ, Nhật... và chúng ta phải chịu sự
kiểm định rất ngặt nghèo của các nước nhập nông sản chế biến.
Công nghệ chiên chân không đã được nghiên cứu và ứng dụng từ vài
thập niên gần đây. Ở Việt Nam, việc nghiên cứu chế tạo và ứng dụng thiết bị
chiên chân không đang được ứng dụng mạnh mẽ cho việc chế biến nông sản
và thủy sản, thiết bị ngày càng hiện đại và đáp ứng tối đa về thông số công
nghệ cũng như trong việc vệ sinh an toàn thực phẩm.
Trên cơ sở thực tế đó, đề tài: “Hệ thống chiên chân không tự động”
Nhằm nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm nên nhiều lần đáp ứng nhu cầu
ẩm thực ngày càng cao của con người. Hệ thống chiên chân không có ưu thế
Nguyễn Văn Dương
Trang 2
Khóa học: 2005 - 2007
Luận văn cao học
Nghành Máy & Tự động hóa CNSH & TP
vượt trội so với các phương pháp sấy tạo ra sản phẩm có kinh tế cao cho xã
hội.
Mục tiêu của đề tài:
- Tổng quan về quá trình công nghệ chiên chân không . Nghiên cứu
đề suất quy trình công nghệ chiên chân không tối ưu
- Phân tích quá trình chiên chân không với tư cách là đối tượng tự
động hoá.
- Đề xuất dây chuyền công nghệ chiên chân không
- Đề xuất và nghiên cứu hệ điều khiển tự động dây chuyền chiên chân
không
Nguyễn Văn Dương
Trang 3
Khóa học: 2005 - 2007
Luận văn cao học
Nghành Máy & Tự động hóa CNSH & TP
PHẦN 1: TỔNG QUAN
1.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm rau quả chiên sấy
Trên thế giới, tuy nhiên chưa có những số liệu thống kê đầy đủ, song có
thể thấy rằng sấy khô rau quả có ý nghĩa to lớn trong đời sống sản xuất. Thực
tế, sấy khô không phát triển một cách rầm rộ thành một ngành hay một lĩnh
vực công nghiệp mà nó âm thầm thâm nhập vào các lĩnh vực sản xuất và phục
vụ đắc lực cho các lĩnh vực đó. Chúng ta có thể hình dung được những khó
khăn rất lớn bán chế phẩm, bán sản phẩm phục vụ trực tiếp cho sản xuât thực
phẩm. Do đó nó góp phần làm đa dạng hoá và ổn định nguyên liệu cho ngành
sản xuất này cũng như góp phần đắc lực cho việc bảo quản sản phẩm với số
lượng lớn của ngành nông nghiệp.
Ngày nay, sấy rau quả không chỉ tạo ra bán sản phẩm cho sản xuất
công nghiệp mà nó còn tạo ra các sản phẩm trực tiếp cho người tiêu dùng.
Các sản phẩm này ngày càng trở nên phong phú và không ngừng tăng về số
lượng do khả năng vận chuyển và bảo quản rất dễ dàng của nó. Đặc biệt trong
các cuộc chiến tranh, một khối lượng lớn rau quả sấy khô đã được cung cấp
cho quân đội. Các công tác cứu trợ thiên tai, cứu trợ nạn nhân chiến tranh
cũng cần một lượng không nhỏ các sản phẩm này. Trong chiến tranh thế giới
lần thứ hai, một trong nhà máy sấy rau lớn nhất thế giới đã chế biến tới 350
tấn cà rốt trong một ngày (Bằng sấy hầm hai giai đoạn). Các sản phẩm chế
biến dạng này còn được cung cấp cho dân cư và quân đội ở vùng núi cao và
Hải đảo, nơi mà không thể tự trồng cấy rau quả và việc vận chuyển rau quả
tươi rất khó thực hiện được.
Sản lượng rau quả của nước ta hiện nay gần đạt 10 triêu tấn/ năm, trong
đó chỉ có khoảng 10% được chế biến. Nước ta nằm trong vùng cao nhiệt đới,
độ ẩm không khí thường>70% và nhiệt độ trung bình cao. Điều này gây khó
Nguyễn Văn Dương
Trang 4
Khóa học: 2005 - 2007
Luận văn cao học
Nghành Máy & Tự động hóa CNSH & TP
khăn cho việc bảo quản rau quả tươi vì ở điều kiện nóng ẩm như thế, vi
khuẩn, nấm men và nấm mốc dễ dàng phát triển làm hỏng rau quả tươi.
Nhưng vấn đề đặt ra đó khẳng định vai trò cần thiết của việc sấy khô.
Đặc biệt trong những năm gần đây, việc sấy quả đế bảo quản đã thực sự
có những bước phát triển mạnh về qui mô cũng như kỹ thuật sấy. Điển hình
cho sấy khô quả ở nước ta đó là nhãn sấy (làm long nhãn) và vải sấy.
Nhãn với diện tích trồng khoảng 51.840 ha trên cả nước hàng năm cho
sản lượng khoảng 241.000 tấn quả tươi. Hưng Yên là một thị trấn trồng nhãn
lớn nhất cả nước, sản lượng khoảng 12-15 nghìn tấn/ năm (riêng năm 1999
được mùa đạt 22.000 tấn/ năm (riêng năm 1999 được mùa đạt 22.000 triệu tấn
quả tươi). Một lượng rất lớn nhãn được sấy khô, khoảng 55-60% tổng lượng
nhãn tươi, tạo ra một sản phẩm có giá trị kinh tế cao, dễ bảo quản để cung cấp
cho thị trường trong nước và xuất khẩu ( chủ yếu cho Trung Quốc). Người ta
dự đoán rằng xu hướng này càng tăng trong những năm tới. Theo điều tra, tại
tỉnh Hưng Yên hiện có khoảng 600 lò sấy thủ công, năng suất 0,5-1,5 tấn quả
tươi/lò/ngày. Theo đánh giá, những lò sấy này đã mang lại nguồn thu đáng kể
cho nhà vườn và góp phần bình ổn giá nhãn trong vụ thu hoạch rộ.
Bên cạnh nhãn, vải cũng là loại quả được sấy với khối lượng lớn. Nước
ta có trên 20.000 ha đất trồng vải, trong đó khoảng 13.000 ha đã cho thu
hoạch với sản lượng 25-27 nghìn tấn quả tươi/năm. Vải được trồng khá tập
trung ở khu vực miền bắc, chủ yếu ở các vùng: Lục Ngạn-Bắc Giang (15-20
nghìn Tấn quả tươi/năm); Thanh Hà- Hải Dương (10.000 Tấn/ năm); Đông
Triều-Quảng Ninh (3.000 Tấn/năm). Hiện nay khoảng 25-30% vải tươi được
sấy khô. Đây là một mặt hàng có thể bảo quản được dài ngày, ăn ngon như
một thứ đặc sản và có thể dùng làm vị thuốc Đông y. Sản phẩm này đã có chỗ
đứng trên thi trường nội địa và được xuất khẩu sang Trung Quốc. Riêng ở Lục
Ngạn hiện nay có khoảng 500 lò sấy thủ công năng suất 0,5-0,7 Tấn quả tươi/
Nguyễn Văn Dương
Trang 5
Khóa học: 2005 - 2007
Luận văn cao học
Nghành Máy & Tự động hóa CNSH & TP
lò/ ngày, cho chất lượng nhìn chung chưa cao. Cũng như nhãn, các lò sấy đã
góp phần tích cực trong việc bình ổn giá vải tươi vào mùa thu hoạch.
Một số rau, củ hiện nay cũng được sấy khô để dùng làm rau ăn liền.
Những sản phẩm này đã bắt đầu xuất hiện trên thị trường và ngày càng được
người tiêu dùng chấp nhận do tính tiện dụng và dễ bảo quản. Chất lượng các
mặt hàng này cũng không ngừng được cải thiện.
Rau gia vị sấy khô với trọng lượng không nhiều song hiện nay lại rất
được chú ý trong các ngành chế biến thực phẩm. Gia vị sấy hiện nay cung cấp
bán chế phẩm cho sản xuất các dạng thực phẩm ăn liền như mì ăn liền, canh
ăn liền... Ngoài thị trường nội địa ra, một lượng rau quả sấy còn được xuất
khẩu. Năm 1997, các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam bao gồm:
- Rau, rễ củ, thân củ đã được chế biến và bảo quản. Giá trị XK:16111
nghìn USD chiếm 0.18% tổng kinh ngạch xuất khẩu.
- Rau tươi ướp lạnh, ướp đông; rễ thân củ tươi hoặc đã sấy khô. Giá tri
xuất khẩu 43.770.000 USD, chiếm 0.48% tổng giá trị XK, đứng thứ 30.
- Quả và hạt (trừ hạt có dầu) tươi hoặc khô. Giá trị xuất khẩu:
123.054.000 USD, đạt 1,34% tổng giá trị XK, đứng thứ 12.
- Quả đã được bảo quản hay chế biến, trừ nước quả ép. Giá tri xuất
khẩu: 59.391.000 USD, chiếm 0.65% tổng giá trị XK, đứng thứ 25.
Cũng theo thống kê của Tổng cục thống kê, mặt hàng rau quả tươi và
chế biến xuất khẩu trong các năm 1995, 1998, 1999, 2000, 2001 lần lượt đạt
giá trị xuất khẩu là: 56,1-52,6-106,6-213,2-330,0 triêu USD. Nếu kể đến gạo,
các hạt có dầu (điều, cà phê...), chè hay gỗ thì tổng giá trị XK của các sản
phẩm có liên quan đến sấy khô quả thực không nhỏ.
Từ những số liệu trên ta thấy rằng sấy khô nói chung và sấy rau quả nói
riêng không ngừng phát triển và đóng góp đáng kể vào nền kinh tế quôc dân.
Nguyễn Văn Dương
Trang 6
Khóa học: 2005 - 2007
Luận văn cao học
Nghành Máy & Tự động hóa CNSH & TP
Để khắc phục tình trạng này, cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu và ứng
dụng một cách có hiệu quả vào sản xuất nhằm nâng cao chất lượng và năng
lực sấy khô để đáp ứng nhu cầu sấy khô rau quả rất lón ở nước ta.
Sản lượng năm 2004 của Công ty Tân Tân khoảng 6.000 tấn, trong đó
tiêu thụ nội địa khoảng 40%, còn lại là XK sang Nga, Nhật, Hàn Quốc,
Campuchia và Nigêria. Tốc độ tăng tiêu thụ các sản phẩm chiên sấy của công
ty trong 3 năm qua khoảng 20-30% (tính chung cho cả XK và tiêu thụ trong
nước), khách hàng trong nước của công ty chủ yếu là các siêu thị, hotel,
restaurant và karaoke. Công ty thứ ba sản xuất nhiều nông sản chiên sấy khô
là Công ty XNK Nhà Bè (Nhabexims) ở Q.7, Tp.HCM.
Nhân viên Xí nghiệp chế biến thực phẩm của Nhabexims cho biết, lần
đầu tiên, vào năm 1990 có nhà NK ở Hồng Kông, Singapore và Ŀài Loan đặt
hàng xí nghiệp sản xuất nông sản chiên sấy khô để phân phối ở các thị trường
này và XK đi thị trường EU, Mỹ. Tám năm đầu, thị trường XK tăng trưởng
đều đặn với tốc độ 10-15%/năm, 5 năm gần đây, tăng trưởng XK trung bình
khoảng 20%/năm.
Theo Phòng kinh doanh Công ty Ŀức Thành thì công ty bắt đầu sản
xuất nông sản chiên sấy khô từ năm 1991, gồm mít sấy, chuối sấy, thơm sấy,
khoai lang sấy, khoai môn sấy các loại XK và tiêu thụ trong nước và nông sản
sấy dẻo như mít, ổi, xoài, sản lượng hàng năm khoảng 4.500 tấn thành phẩm.
Sản lượng XK nông sản chiên sấy khô của Công ty Ŀức Thành không ngừng
tăng lên qua các năm, năm 2001 sản lượng XK mới chiếm khoảng 30%, năm
2004 đã tăng lên khoảng 65% tổng sản lượng sản xuất, số lượng còn lại là tiêu
thụ nội địa.
Hiện nay, Công ty Ŀức Thành là công ty thành công nhất ở phía Nam
với sản xuất nông sản chiên sấy XK và tiêu thụ nội địa do giá bán rẻ hơn, bao
bì đẹp hơn sản phẩm của các công ty khác và nhất là rất năng động trong tổ
Nguyễn Văn Dương
Trang 7
Khóa học: 2005 - 2007
Luận văn cao học
Nghành Máy & Tự động hóa CNSH & TP
chức mạng lưới phân phối ở trong nước và mở rộng thị trường XK (năm
2004, Công ty Ŀức Thành đã được Bộ TM thưởng với thành tích XK).
Vừa ngon, vừa bổ lại an toàn
Tp.HCM cho biết: khách hàng tiêu thụ nông sản chiên sấy khô đa số
phụ nữ và trẻ em bởi các sản phẩm chiên sấy thường ăn rất ngon, lại thuận
tiện cho những người đi du lịch dã ngoại hay đi nghỉ cuối tuần.
Phòng kinh doanh Công ty Ŀức Thành khẳng định, hàng nông sản chiên
sấy khô của công ty không sử dụng thêm bất kỳ một phụ gia, hóa chất nào
trong qúa trình chiên sấy chân không, thành phẩm vẫn giữ được hương vị đặc
trưng của nông sản tươi.
Mặt khác, hàng nông sản chế biến muốn xuất khẩu thành công vào
những thị trường có quy định rất nghiêm ngặt và vệ sinh an toàn thực phẩm
như EU, Mỹ, Nhật phải cực kỳ an toàn cho người sử dụng, nhà xuất khẩu Việt
Nam phải chịu sự kiểm định khắt khe của những nước NK nông sản chế biến.
Hiện nay, giá bán sỉ các loại nông sản chiên sấy khô chủ yếu của các
nhà sản xuất cho các siêu thị ở Tp.HCM như sau: mít sấy 58.000- 60.000
đ/kg, chuối sấy 32.000-38.000 đ/kg, thơm (dứa) sấy 63.000-67.000 đ/kg,
khoai lang sấy: 32.000-38.000 đ/kg, khoai môn sấy 52.000-56.000 Hiện nay,
tại các siêu thị ở Tp.HCM bày bán khoảng 25 loại nông sản chiên sấy khô,
đựng trong bao bì khá đẹp mắt, nhiều nhất là của Công ty TNHH Ŀức Thành
(Delta Co., Ltd - Trading & Processing Vacuum Food-Stuffs) với thương hiệu
sản phẩm là DELTAFOOD. Trụ sở chính và cơ sở sản xuất của Công ty Ŀức
Thành ở ấp 1 xã Tân Ŀịnh, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương. Vậy qua đây ta
thấy sản phẩm chiên chân không rất tốt và sẽ phổ biến trong tương lai. Do đó
tìm hiểu và áp dụng và thực tế có hiệu quả kinh tế cao.
Nguyễn Văn Dương
Trang 8
Khóa học: 2005 - 2007
Luận văn cao học
Nghành Máy & Tự động hóa CNSH & TP
1.2. Các phương pháp sấy.
Sấy khô và phơi khô được biết đến như là một phương pháp bảo quản
lương thực, thực phẩm lâu đời nhất. Do đó cùng với lịch sử phất triển của loài
người, các phương pháp sấy ra đời và được áp dụng ngày càng phong phú và
phù hợp với các mục đích sấy khác nhau. Sau đây là các phương pháp làm khô
và sấy lương thực, thực phẩm chủ yếu đã được dùng vào đời sống sản xuất:
1.2.1. Phương pháp phơi khô.
Phơi khô là biện pháp lâu đời và phổ biến nhất mà con người sử dụng
để làm khô các sản phẩm nông sản. Có lẽ từ khi loài người biết chủ động
trồng cấy, chăn nuôi thay cho săn bắn hái lượm, khi mà nảy sinh nhu cầu bảo
quản hạt giống, bảo quản lương thực, thực phẩm để dùng lâu dài thì phương
pháp phơi khô tự nhiên đã đóng một vai trò hết sức quan trọng trong đời sống
nhân dân. Dường như mọi quá trình bảo quản trước đây đều trong chờ vào
phơi nắng.
Nguyên tắc của phơi khô là sự hấp thụ năng lượng bức xạ mặt trời của
vật liệu phơi khô. ẩm nhờ năng lượng này mà thoát ra môi trường không khí
khô xung quanh. Nếu cường độ ánh sáng tốt, độ ẩm không khí thấp và có gió
lớn thì việc phơi khô rất thuận lợi.
Ưu điểm của phương pháp này là nó đã sử dụng được nguồn năng
lượng rẻ, vô tận, sạch, phù hợp với tự nhiên (không gây ô nhiễm môi trương).
Đây còn là phương pháp giải quyết được khối lượng lớn với chi phí rẻ và yêu
cầu về trang thiết bị cũng như kỹ thuật là không đáng kể. Do đó nó đóng một
vai trò khá quan trọng trong công nghệ sau thu hoạch ở nước ta, khi mà nền
nông nghiệp còn ở trình độ thấp như hiện nay.
Tuy nhiên, do phụ thuộc vào các yếu tố tự nhiên nên phương pháp này
có khá nhiều hạn chế như: không chủ động kế hoạch phơi khô được mà phụ
thuộc hoàn toàn vào sự thay đổi thời tiết; chất lượng sản phẩm không đảm bảo
Nguyễn Văn Dương
Trang 9
Khóa học: 2005 - 2007
Luận văn cao học
Nghành Máy & Tự động hóa CNSH & TP
và mức độ đồng đều thấp do nguyên nhân như kéo dài, dễ nhiễm bụi bẩn,vi
sinh vật, trùng bọ...từ môi trường; tỷ lệ hao hụt lớn do rơi vãi hay do chim,
chuột, gia súc, gia cầm phá hoại; cần điều kiện diện tích sân phơi lớn.
1.2.2. Các phương pháp sấy nóng:
Đây là phương pháp xuất hiện muộn hơn phương pháp phơi khô rất
nhiều song nó nhanh chóng được áp dụng một cách rộng rãi và đầy đủ, cả về
qui mô cũng như kỹ thuật sấy. Việc sấy nóng xuất hiện có ý nghĩa quan trọng
trong đời sống sản xuất do đó nó có thể khắc phục được những mặt hạn chế ở
phương pháp phơi khô tự nhiên, nâng cao tính chủ động sản xuất của con
người với thiên nhiên.
Trong sấy nóng có rất nhiều phương thức truyền nhiệt và tách ẩm khác
nhau, song nhìn chung có thể chia ra thành hai phương thức chủ yếu sau đây:
- Phương thức thứ nhất: Giảm độ ẩm tương đối(ϕ) của tác nhân sấy
bằng cách đốt nóng nó. Khi nhiệt độ tăng thì độ ẩm tương đối của tác nhân
sấy giảm làm cho áp xuất hơi riêng phần giảm tạo thế sấy (tức là chênh lệch
áp suất hơi riêng phần của ẩm) làm ẩm trên bề mặt vật liệu sấy tách ra đi vào
tác nhân sấy ẩm trên bề mặt sấy giảm đi lại tạo ra chênh lệch ẩm bên trong
với bề mặt vật liệu tạo nên thế khuyếch tán ẩm từ trong ra bề mặt để bay hơi.
Do đó, theo thời gian,vật liệu sấy khô dần.
- Phương thức thứ hai: ở phương thức này ta tăng áp suất hơi riêng
phần của nước trên vật liệu sấy lên bằng cách làm nóng vật liệu sấy. Hình
thức này ít phổ biến hơn song cũng có nhiều triển vọng nếu được khai thác
tốt.
Trong thực tế các quá trình sấy nóng đều có cả hai phương thức này
diễn ra song song với nhau. Tuy nhiên trong các hệ thống sấy khác nhau thì
chúng có ý nghĩa quan trọng khác nhau, có thể là thứ yếu và có thể là chính
yếu, phụ thuộc váo cách chúng ta đưa nguồn nhiệt vào.
Nguyễn Văn Dương
Trang 10
Khóa học: 2005 - 2007
Luận văn cao học
Nghành Máy & Tự động hóa CNSH & TP
Trên quan điểm cấp nhiệt, người ta phân loại sấy nóng thành hai
phương pháp chính, đó là truyền nhiệt gián tiếp bằng đối lưu và truyền nhiệt
trực tiếp (bức xạ hoặc dẫn nhiệt nhờ tiếp xúc hoặc nhờ dòng cao tần). Theo
cách phân loại này ta có các hệ thống sấy chủ yếu sau đây:
1.2.2.1. Hệ thống sấy đối lưu:
Trong hệ thống này, tác nhân sấy được đốt nóng đưa đến khu vực sấy
để cấp nhiệt đối lưu cho vật sấy. Do nhiệt độ cao nên độ ẩm tương đối của tác
nhân sấy thấp. Một phần nhiệt của tác nhân sấy làm vật sấy nóng lên làm các
phân tử nước của vật liệu sấy rễ dàng thoát ra và đi vào dòng tác nhân sấy.
Khi thải mang theo lượng ẩm này được hút ra ngoài môi trường. Như vậy ẩm
từ vật liệu được tách ra và thải ra môi trường. Quá trình làm vật liệu sấy khô
dần theo thời gian tác nhân sấy có thể là khói lò hay không khí khô. Sử dụng
khói lò tuy rẻ song hiện nay có xu hướng giảm mạnh do khả năng bảo vệ
kém, chất lượng sản phẩm thấp, khó chống chế điều khiển nhiệt độ thấp và độ
ẩm không khí nóng ngày càng phổ biến. Việc đốt nóng không khí nóng ngày
càng phổ biến bằng calorife trước khi quạt vào khu vực sấy.
Các hệ thống sấy đối lưu phổ biến hiện nay là: hầm sấy buồng sấy, sấy
tầng sôi, sấy băng tải...Sấy phun thực chất là một trường hợp đặc biệt của hệ
thống sấy đối lưu này.
Sử dụng hệ thống này người ta có thể thực hiện với một năng suất lớn,
tốc độ bốc ẩm nhanh, thời gian sấy ngắn, chất lượng sản phẩm tương đối tốt
(do nhiệt độ không quá cao), thiết bị rẻ tiền, vận hành đơn giản và đặc biệt có
thể sử dụng được nhiều nguồn năng lượng khác nhau. Do đó đây là một
phương pháp có hiệu quả kinh tế tốt, tuy nhiên không áp dụng được đối với
các vật liệu nhậy cảm với nhiệt độ và đòi hỏi chất lượng cao.
Nguyễn Văn Dương
Trang 11
Khóa học: 2005 - 2007
Luận văn cao học
Nghành Máy & Tự động hóa CNSH & TP
1.2.2.2. Hệ thống sấy tiếp xúc:
Trong hệ thống sấy này, vật liệu sấy được trao đổi nhiệt với một bề
mặt đốt nóng. Do sự dẫn nhiệt, nhiệt độ của vật liệu sấy tăng lên làm tăng
chênh lệch áp suất hơi riêng phần giữa vật liệu sấy và môi trường xung quanh.
Môi trường ở đây là không khí, lúc này chỉ đóng vai trò là môi trường
khuyếch tán ẩm và vận chuyển ẩm ra khỏi khu vực sấy.
Hệ thống này có thuận lợi là tốc độ sấy nhanh, chí phí thấp song nó
mang một số nhược điểm lớn đó là: Khó khống chế và điều khiển các thông
số sấy (nhiệt độ, độ ẩm) do nhiệt độ của bề mặt đốt nóng thường cao và dễ
gây ra hiện tượng quá nóng cục bộ, thậm chí cháy bỏng hỏng sản phẩm dẫn
đến chất lượng sản phẩm không tốt và không đồng đều. Việc vận hành hệ
thống sấy này cũng tương đối phức tạp. Hơn nữa, nó chỉ dùng để sấy một số
vật liêu đặc biệt (dạng bột sêt...). Do đó hệ thống này ít phổ biến hơn. Các hệ
thống sấy tiếp xúc phổ biến hiện nay như sấy kiểu cán ,lô quay...
1.2.2.3. Hệ thống sấy bức xạ:
Vật liệu sấy hấp thụ nhiệt lượng từ nguồn bức xạ và nóng lên. Nhờ
năng lượng này mà ẩm tách khỏi vật thoát ra môi trường không khí. Bức xạ
chủ yếu là các tia hồng ngoại và cả trong vùng ánh sáng nhìn thấy (có thể cả
tia tử ngoại tuỳ thuộc vào nguồn bức xạ) nhưng trong đó có ý nghĩa nhất là
các bức xạ thuộc vùng hồng ngoại.
Nguồn bức xạ thường dùng là đèn halozen, tấm hay thanh điện trở. Gần
đây, người ta đưa vào ứng dụng một loại gốm đặc biệt (một phát minh của
Tiến sĩ Rakhimop-Uzbekistan) có khả năng hấp thụ các bức xạ bước sóng
ngắn để tạo ra bức xạ hồng ngoại giải tần hẹp chọn lọc, cho chất lượng sản
phẩm sấy tốt, hiệu quả sấy cao và thời gian ngắn.
Nguyễn Văn Dương
Trang 12
Khóa học: 2005 - 2007
Luận văn cao học
Nghành Máy & Tự động hóa CNSH & TP
Sấy bức xạ có thể thực hiện trong buồng kín hay trong điều kiện tự
nhiên. Phơi khô tự nhiên mà ta nói ở trên chính là một dạng của sấy bức xạ
mà nguồn bức xạ là mặt trời.
1.2.2.4. Hệ thống dùng dòng điện cao tần:
Dòng điện cao tần có khả năng tạo trường điện xoáy.Vật liệu sấy đặt
trong trường điện từ này thì tạo ra dòng điện tần số lớn trong nó. Dòng điện
này đốt nóng vật liệu nên rất nhanh để cung cấp nhiệt tách ẩm ra khỏi vật sấy.
Hệ thống sấy này có thể dùng để sấy vật liệu mềm và cần thời gian làm nóng
ngắn.
Do đặc điểm là đều phải sử dụng tác động của nhiệt độ cao nên các hệ
thống sấy nóng có những ưu điểm chính là: thời gian sấy ngắn hơn so với sấy
lạnh, năng suất cao và chí phí đầu tư ban đầu thấp; nguồn năng lượng sử dụng
phong phú, có thể là khói thải, hơi nước nóng hay các nguồn nhiệt lấy từ dầu
mỏ, than đá, trấu, rác thải, kể cả điện năng do đó chi phí năng lượng nhỏ; thời
gian làm việc của hệ thống rất cao (độ bền lớn) làm giảm khấu hao hữu hình;
vận hành đơn giản, yêu cầu thiết bị thấp, thiết kế chế tạo dễ dàng với nhiều
qui mô lớn nhỏ khác nhau. Tuy nhiên do sấy ở nhiệt độ cao, các phương pháp
này cũng bộc lộ nhiều hạn chế như: không thích hợp với các thành phần nhạy
cảm với nhiệt trong thực phẩm, do đó chỉ sấy những sản phẩm không có yêu
cầu gì đặc biệt về nhiệt độ sấy; sản phẩm thường bị biến màu, mất mùi, thay
đổi trạng thái mạnh....làm giảm chất lượng cảm quan; các thành phần sinh học
quí của thực phẩm (Vitamin C, A và các enzim có lợi...) dễ dàng bị mất đi do
tác động của nhiệt độ cao.
Nhìn chung, có thể kết luận rằng các hệ thống sấy nhiệt độ cao cho lợi
thế về chi phí thấp nhưng hạn chế về chất lượng sản phẩm. Những thập niên
gần đây đã xuất hiện các phương pháp sấy có đặc điểm đối lập với phương
pháp sấy nóng, đó là phương pháp sấy lạnh.
Nguyễn Văn Dương
Trang 13
Khóa học: 2005 - 2007
Luận văn cao học
Nghành Máy & Tự động hóa CNSH & TP
1.2.3. Các phương pháp sấy lạnh:
Khác với nhưng phương pháp sấy nóng, để tạo ra chênh lệch áp suất
hơi riêng phần của ẩm giữa vật liệu sấy và tác nhân sấy, trong phương pháp
sấy lạnh này người ta làm giảm áp suất hơi riêng phần của tác nhân sấy bằng
cách giảm dung ẩm trong tác nhân sấy ( hút ẩm) hoặc tìm cách giảm áp suất
chung của tác nhân sấy. Cả hai biện pháp trên đều đi đến một kết quả làm
giảm phân áp suất hơi nước trong tác nhấn sấy, tạo ra thế sấy để tách ẩm.
Do đặc điểm của quá trình sấy được thực hiện ở nhiệt độ thấp nên
hướng này hiện nay được tập trung nghiên cứu để ứng dụng cho nhiều lĩnh
vực sản xuất, trong đó có chế biến và bảo quản thực phẩm nhằm nâng cao
chất lượng sản phẩm. Sau đây là các hệ thống sấy lạnh cơ bản và phổ biến
nhất hiện nay.
1.2.3.1. Hệ thống sấy chân không:
Trong phương pháp này người ta tạo áp suất chân không cho không khí
bao quanh vật liêu sấy. Do áp suất môi trường giảm làm áp suất hơi nước
riêng phần giảm theo, do đó tăng chênh lệch áp suất hơi riêng phần giữa vật
liệu sấy với không khí tạo ra thế sấy.
Để làm được điều này, vật liệu sấy được đạt trong một buồng kín và
được hút chân không. Lượng ẩm khi được tách ra khỏi vật liệu thì theo dòng
khí và được hút chân không. Lương ẩm khi tách ra khỏi vật liệu thì theo dòng
không khí và được hút ra ngoài. Nhiệt độ sấy thường bằng nhiệt độ môi
trường bên ngoài.
Tuy nhiên việc tạo và giữ độ chân không cho buồng sấy đòi hỏi thiết bị
đắt tiền, phức tạp cũng như kỹ năng thành thạo của người vận hành và tiêu
tốn năng lượng lớn để bơm chân không. Hơn nữa, để đảm bảo độ chân không
thì thường thể tích buồng sấy luôn bị giới hạn ở mức độ nào đó. Chính vì
những hạn chế này mà nó ít được sử dụng phổ biến như các hệ thống sấy
Nguyễn Văn Dương
Trang 14
Khóa học: 2005 - 2007
Luận văn cao học
Nghành Máy & Tự động hóa CNSH & TP
khác. Thường thì hệ thống này chỉ dùng một cách hạn chế đối với một số vật
liệu quí hiếm và nhạy cảm với nhiệt độ (như dược liệu, thực phẩm giá trị
cao,chế phẩm sinh học)
1.2.3.2. Hệ thống sấy thăng hoa:
Sấy thăng hoa cũng được thực hiện trong buồng kín ở áp suất chân
không. Tuy nhiên sự tách ẩm lại dựa trên nguyên lý là: khi nằm dưới điểm ba
thể, nước từ trạng thái rắn chuyến trực tiếp sang trạng thái hơi (khí) mà không
qua trạng thái lỏng, đây gọi là hiện tượng thăng hoa. Do đó, để thực hiện được
sấy thăng hoa, người ta phải tạo ra được điều kiện nhiệt độ < 0.098oC và áp
suất < 4.58 mmHg (điểm ba thể của nước).
Ưu điểm của hệ thống sấy này là giữ được các cấu tử quý nhưng nhạy
cảm với nhiệt độ, giữ được màu sắc, mùi vị của vật liệu sấy và tiêu hao năng
lượng bay hơi ẩm thấp.
Tuy nhiên, cũng như sấy chân không, hệ thống sấy này có nhiều hạn
chế như: giá thành thiêt bị cao, vận hành phức tạp, người vận hành cần có
trình độ hiểu biết sâu về lạnh đông, về sấy và chân không; điện năng tiêu thụ
lớn, năng suất bị giới hạn do sự giới hạn về kích thước buồng sấy; các thiết bị
cho buồng sấy chân không phải kín, cấu tạo đặc biệt, bền vững, dầu bôi trơn
cũng là loại đặc biệt, đắt tiền và khó thay thế bổ sung.
Do một loạt hạn chế kể trên đẫn đến chí phí sấy rất cao nên hệ thống
sấy này thông thường chỉ được sử dụng với những trường hợp sấy đăc biệt.
1.2.3.3. Hệ thống sấy dùng máy hút ẩm chuyên dụng kết hợp với máy
lạnh.
Khác với các hệ thống sấy trên, hệ thống sấy này hút ẩm dựa trên
nguyên tắc dùng chất hấp phụ (silicagen, CaO,...) để hút ẩm của không khí ở
nhiệt độ thường. Phương pháp này được thực hiện bởi sự kêt hợp hoạt động
của máy hút ẩm dùng chất hấp phụ và máy lạnh. Máy hút ẩm được đặt trong
Nguyễn Văn Dương
Trang 15
Khóa học: 2005 - 2007
Luận văn cao học
Nghành Máy & Tự động hóa CNSH & TP
phòng kín. Không khí trong buồng được hút ẩm nhờ chất hấp phụ, đồng thời
một dòng không khí ngoài trời được làm nóng để hoàn nguyên chất hấp phụ
sau khi đã hút ẩm. Tuy nhiên do sự dẫn nhiệt từ khu vực hoàn nguyên sang
nên không khí sau khi được hút ẩm nóng lên, có nhiệt độ tương đối cao. Do
đó người ta cần bố trí một máy lạnh có tác dụng làm giảm nhiệt độ dòng
không khí khô nóng xuống cho phù hợp với yêu cầu công nghệ. Dòng khí sau
khi qua máy lạnh có nhiệt độ thấp hơn và độ ẩm nhỏ dùng để thực hiện sấy.
Hệ thống sấy này đã từng được sử dụng ở một số cơ sở sản xuất bánh
kẹo (Hai haco...) để sấy một số sản phẩm kẹo bánh ở nhiệt độ thấp (sôcôla,...).
Một số ưu điểm của hệ thống sấy này là: khả năng hút ẩm lớn, năng
suất hút ẩm cao. So vơi sấy thăng hoa, năng suất của sấy của hệ thống sấy này
cao và chí phí thấp hơn.
1.2.3.4. Hệ thống sấy lạnh dùng bơm nhiệt nén hơi (sấy bơm nhiệtHeat pumpdrying)
Đây cũng là một hệ thống sấy lạnh. Trong sự tìm kiếm một giải pháp
sấy nhiệt độ thấp nhưng với chí phí rẻ và năng suất lớn, thích hợp với nhiều
điều kiện sản xuất và dễ trang bị thì sấy bơm nhiệt được coi là một giải pháp
thích hợp hơn cả (nếu không muốn nói là một giải pháp duy nhất) có thể đáp
ứng các yêu cầu đặt ra đó.
Sấy bơm nhiệt là sự kết hợp giữa quá trình bơm nhiệt với quá trình sấy,
trong đó bơm nhiệt là một bộ phận có vai trò quan trọng, đặc trưng cho hệ
thống. Điểm nổi bật ở đây cũng chính là khả năng đặc biệt của bơm nhiệt khi
người ta kết hợp nó với quá trình sấy. Đó là sự tái tạo nhiệt lượng từ ẩn nhiệt
ngưng tụ của khí thải của chính quá trình sấy để cung cấp nhiệt làm nóng
không khí sấy cho hệ thống khi nó được hồi lưu trở lại. Do đó mà năng lượng
sấy được tiết kiệm đáng kể. Người ta gọi đó là “hiệu ứng nhiệt”.
Nguyễn Văn Dương
Trang 16
Khóa học: 2005 - 2007
Luận văn cao học
Nghành Máy & Tự động hóa CNSH & TP
Bên cạnh đó, việc điều chỉnh và khống chế các điều kiện sấy (nhiệt độ,
độ ẩm) rất chính xác và dễ thực hiện so với các phương pháp sấy thông
thường.
Việc nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sấy bơm nhiệt đã được tiến
hành ở nhiều nơi trên thế giới và cho kết quả rất khả quan. Riêng trong lĩnh
vực công nghệ thực phẩm thì hệ thống sấy này được xem là một giải pháp có
thể thay thế cho sấy thăng hoa, một phương pháp sấy có chi phí rất cao.
Một cách khái quát, có thể hiểu hệ thống sấy bơm nhiệt bao gồm bơm
nhiệt, khu vực sấy (phòng, buồng...), hệ thống dẫn và phân phối khí, các hệ
thống đo lường và điều khiển và phục vụ khác. Đặc biệt là bơm nhiệt, một bộ
phận quan trọng và đặc trưng cho hệ thống sấy bơm nhiệt.
Như trên đã nói, bơm nhiệt là bộ phận cấu thành quan trọng nhất của
hệ thống sấy bơm nhiệt. Năm 1852, bơm nhiệt đầu tiên trên thế giới được
sáng chế bởi Thomson. Song song với kỹ thuật lạnh, bơm nhiệt có những
bước phát triển riêng của mình. Những thành công lớn nhất của bơm nhiệt
bắt đầu từ những năm 1940, khi hàng loạt các bơm nhiệt có công suất khác
nhau được lắp đặt thành công trên nhiều nước Châu Âu để sưởi ấm, đun nước
nóng và điều hoà không khí.
Từ những năm 70 của thế kỷ 20, khi mà cuộc khủng hoảng năng lượng
xảy ra thì bơm nhiệt lại càng có vai trò đặc biệt. Hàng loạt bơm nhiệt với đủ
kích cỡ cho các ứng dụng nhau được nghiên cứu chế tạo, hoàn thiện và bán
rộng rãi trên thị trường.
Ngày nay, bơm nhiệt đã và đang được nghiên cứu ứng dụng vào không
chỉ các mục đích để sưởi ấm, đun nước nóng và điều hoà không khí mà còn
được ứng dụng vào các hệ thống sấy mở ra một hướng sấy (nhiệt độ thấp)
kinh tế và dễ trang bị.
Nguyễn Văn Dương
Trang 17
Khóa học: 2005 - 2007
Luận văn cao học
Nghành Máy & Tự động hóa CNSH & TP
Bơm nhiệt là thiết bị dùng để bơm một dòng nhiệt từ mức độ thấp lên
nhiệt độ cao hơn, phù hợp với nhu cầu cấp nhiệt. Để duy trì hoạt động của
bơm nhiệt cần tiêu tốn một lượng khác để chạy máy nén ( điện năng và nhiệt
năng). Như vậy máy lạnh cũng được xem là một loại bơm nhiệt và cũng có
chung một nguyên lý hoạt động. Giữa các loại bơm nhiệt có sự khác nhau về
phạm vi hoạt động của mỗi loại thể hiện ở sơ đồ sau:
Nguyễn Văn Dương
Trang 18
Khóa học: 2005 - 2007
Luận văn cao học
Nghành Máy & Tự động hóa CNSH & TP
PHẦN 2: NGUYÊN LIỆU VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Nguyên liệu:
2.1.1. Giới thiệu chung về chuối
Chuối có rất nhiều loại nhưng có 3 loại chính là: Chuối tiêu, chuối
Goòng và chuối Bom. Ngoài ra còn có chuối Ngự, chuối Cau, chuối lá, chuối
Hột…
Chuối Tiêu (chuối Già, nhóm cavendish, gros michel) là phổ biến nhất
chất lượng ngon (nhất là vào mùa lạnh, ở nhiệt độ khoảng 200C), thích hợp
nhất để ăn tươi. Chuối được trao đổi trên thị trường thế giới chủ yếu ở dạng
tươi và từ chuối tiêu.
Chuối Goòng (chuối Tây, chuối Sứ, chuối Xiêm) là giống nhập nội từ
lâu, chất lượng chon nhất là mùa nóng. Cây chuối Goòng chịu nước hơn chuối
Tiêu.
Chuối Bom (có hương của táo tây – pomme) mới nhập nội sau năm
1960 và trồng tập trung ở 7 xã thuộc tỉnh Đồng Nai. Quả nhỏ, vị chua hơn hai
loại chuối kia, thích hợp cho chế biến vì màu nhạt hơn. Cây chuối Bom chịu
hạn tốt, có thể trồng trên đồi dốc 450C.
2.1.2. Giá trị dinh dưỡng và Thành phần hóa học % một số loại chuối
Về thành phần hoá học, chuối chín chứa 70 – 80% là nước, 20 – 30%
chất khô chủ yếu là đường. Trong đường, đường khử chiếm 55%. Hàm lượng
protein thấp (từ 1 – 1,8%) gồm 17 axit amin, chủ yếu là histidin, lipit không
đáng kể. Axit trong chuối (khoảng 0,2%) chủ yếu là axit malic và axit oxalic
Nguyễn Văn Dương
Trang 19
Khóa học: 2005 - 2007
- Xem thêm -