Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khóa luận vận dụng tư tưởng hồ chí minh về đoàn kết với việc xây dựng ý thức cộ...

Tài liệu Khóa luận vận dụng tư tưởng hồ chí minh về đoàn kết với việc xây dựng ý thức cộng đồng cho sinh viên trường đại học sư phạm, đại học đà nẵng hiện nay.

.PDF
74
100
93

Mô tả:

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Đề tài: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT VỚI VIỆC XÂY DỰNG Ý THỨC CỘNG ĐỒNG CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG HIỆN NAY Giảng viên hướng dẫn : TS. PHẠM HUY THÀNH Sinh viên thực hiện : NGUYỄN THỊ VIỆT TRINH Lớp : 14 SGC Đà Nẵng, tháng 04 năm 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự hướng dẫn của thầy TS. Phạm Huy Thành. Trong thời gian qua các nội dung nghiên cứu, kết quả trong đề tài là trung thực và chưa công bố dưới bất cứ hình thức nào. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về nội dung khóa luận của mình. Đà Nẵng, tháng 04 năm 2018 Sinh viên thực hiện Nguyễn Thị Việt trinh LỜI CẢM ƠN Trong suốt quá trình thực hiện đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình, em đã nhận được rất nhiều sự quan tâm giúp đỡ nhiệt tình của quý thầy cô. Đầu tiên, em xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến thầy Phạm Huy Thành người đã hướng dẫn và giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình thực hiện đề tài khóa luận này. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô Khoa Giáo dục Chính trị của Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng đã trang bị cho em những kiến thức quý báu trong suốt bốn năm học để em có cơ sở hoàn thành đề tài này. Ngoài ra trong quá trình thực hiện khóa luận em còn nhận được rất nhiều sự động viên và giúp đỡ từ phía gia đình, bạn bè, thầy chủ nhiệm. Kết quả của đề tài này là lời cảm ơn trên bước đường học tập và nghiên cứu. Với những khả năng và điều kiện của một sinh viên, khóa luận không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Em kính mong nhận được những góp ý chân thành của quý thầy cô và các bạn để khóa luận được hoàn thiện hơn. Đà Nẵng, tháng 04 năm 2018 Sinh viên thực hiện Nguyễn Thị Việt Trinh MỤC LỤC A. MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 7 1. Tính cấp thiết của đề tài ......................................................................................... 7 2. Mục đích và nhiệm vụ khóa luận .......................................................................... 8 2.1. Mục đích khóa luận .................................................................................................. 8 2.2. Nhiệm vụ khóa luận.................................................................................................. 8 3. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................................. 9 4. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................... 9 5. Bố cục khóa luận ..................................................................................................... 9 6. Tổng quan tài liệu khóa luận .................................................................................... 9 B. NỘI DUNG ............................................................................................................ 11 CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT ............................................................................................... 11 1.1. 1.1.1. Nguồn gốc lý luận tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết............................ 11 Giá trị đoàn kết dân tộc .................................................................................... 11 1.1.2. Quan niệm của C. Mác- Ph.Ăngghen, Lênin về đoàn kết ................................... 13 1.2. Cơ sở thực tiễn tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết ................................... 17 1.2.1. Xuất phát từ các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX ...................................... 17 1.2.2. Xuất phát từ các cuộc cách mạng trên thế giới.................................................... 21 1.3. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc ................................ 24 1.3.1. Tầm quan trọng của đại đoàn kết dân tộc ............................................................ 24 1.3.2. Đại đoàn kết là vấn đề chiến lược quyết định thành công của cách mạng .......... 30 1.3.3. Đại đoàn kết là đại đoàn kết toàn dân.................................................................. 31 1.3.4. Đoàn kết quốc tế .................................................................................................. 35 1.3.5. Nguyên tắc đại đoàn kết ...................................................................................... 39 Kết luận chương I ......................................................................................................... 43 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG Ý THỨC CỘNG ĐỒNG CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT ............................... 45 2.1. Tổng quan về trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng .............................. 45 2.2. Thực trạng về xây dựng ý thức công đồng cho sinh viên sư phạm .................. 47 2.2.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân của nó ................................................ 47 2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân của nó ............................................................... 54 2.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao ý thức cộng động cho sinh viên trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng theo tư tưởng Hồ Chí Minh .................................. 59 2.3.1. Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết .... 59 2.3.2. Phát huy vai trò của Đoàn thanh niên, Hội sinh viên trong xây dựng ý thức cộng đồng cho sinh viên ......................................................................................................... 62 2.3.3. Phát huy tính tự giác của sinh viên trong việc xây dựng ý thức cộng đồng........ 64 2.3.4. Nâng cao ý thức giao lưu, hợp tác trong cộng đồng sinh viên hiện nay ............. 67 Kết luận chương II ....................................................................................................... 70 C. KẾT LUẬN ............................................................................................................ 71 D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 72 A. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hồ Chí Minh một vị lãnh tụ vĩ đại, anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất của dân tộc ta và nhân loại, người đã để lại cho dân tộc ta một di sản tình thần vô giá, một hệ thống tư tưởng về nhiều mặt. Trong đó tư tưởng về đại đoàn kết là một trong những tư tưởng nổi bật. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh có một niềm tin tuyệt đối, trí tuệ và sức mạnh to lớn của khối đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam. Người đã xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân vững mạnh chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, giành tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Là người nắm giữ vận mệnh đất nước, hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy rõ vai trò quan trọng của đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tố quốc xã hội chủ nghĩa. Người cho rằng, Muốn đưa cách mạng đến thành công phải có lực lượng cách mạng đủ mạnh để chiến thắng mọi kẻ thù và xây dựng thành công một xã hội mới, muốn có lực lượng cách mạng vững mạnh phải thực hiện đại đoàn kết dân tộc để quy tụ thành một khối vững chắc. Đoàn kết toàn dân vì mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ, hòa bình và tiến bộ xã hội là kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng và mục tiêu đấu tranh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người nhấn mạnh “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”, “Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta”, “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công” [35, tr.154]. Để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân vững mạnh, người khuyên đồng bào vì lòng yêu nước thương nòi, hãy xóa bỏ mọi bất hòa, thành kiến để cùng phấn đấu cho một tương lai tươi sáng. Trong thư gửi đồng bào nam bộ, người viết: “Năm ngón tay cũng có ngón ngắn, ngón dài. Nhưng ngắn dài đầu hợp lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu con người cũng có người này người khác đều dòng dõi tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ, ta phải nhận ra rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ…. có như thế mới thành đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc chắn vẻ vang”[28, tr.246]. Lòng yêu nước và ý thức cộng đồng, đó là truyền thống quý báu, là sức mạnh vô địch của nhân dân Việt Nam, cùng chung một bọc, nghĩa lớn đồng bào, 54 dân tộc 7 Việt Nam đã đoàn kết chung lưng đấu cật, ngược lên rừng, tiến ra biển, khẩn hoang, dựng nước, chống giặc ngoại xâm để giữ gìn non sông gấm vóc. Bác Hồ nói: “Đồng bào tất cả các dân tộc phải như anh em trong một nhà”. Đảng và Nhà nước ta luôn luôn đặt vấn đề dân tộc ở vị trí chiến lược, có tầm quan trọng sống còn đối với quốc gia và là một nội dung lớn đối với cách mạng Việt Nam. Nhờ có đường lối chính trị và chính sách dân tộc đúng đắn của Đảng và Nhà nước các dân tộc Việt Nam từ thân phận nô lệ, phân biệt đối xử, trở thành chủ nhân đất nước, gắn bó bền chặt, sướng khổ có nhau, cùng lao động, đấu tranh dựng nước và giữ nước. Trong giai đoạn hiện nay, để thực hiện những thắng lợi sự nghiệp đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cần phải nêu cao vấn đề đại đoàn kết trong việc xây dựng ý thức cộng đồng cho sinh viên nói chung và sinh viên trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng nói riêng. Bởi vì, sinh viên là nhân tố, nguồn nhân lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Tri thức nói chung và sinh viên nói riêng: là lực lượng hùng hậu, có sức khỏe, có trình độ học vấn, có tiềm năng sáng tạo, có khả năng tiếp cận và làm chủ khoa học hiện đại. Trong giai đoạn cách mạng mới, với bối cảnh thế giới biến động phức tạp, trước những thách thức toàn cầu hóa về đa lĩnh vực. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài “Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết với việc xây dựng ý thức cộng đồng cho sinh viên trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng” làm khóa luận của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ khóa luận 2.1. Mục đích khóa luận Khóa luận làm rõ nguồn gốc và các nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc. Từ đó, vận dụng vào việc xây dựng ý thức cộng đồng cho sinh viên trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ khóa luận Để đạt được mục đích trên, đề tài phải giải quyết những nhiệm vụ sau đây: - Làm rõ nguồn gốc hình thành và quá trình phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết. - Hệ thống hóa những nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết. 8 - Chỉ ra thực trạng đoàn kết của sinh viên Đại học Sư phạm và góp phần đưa ra một số giải pháp nhằm xây dựng ý thức cộng đồng cho sinh viên trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng. 3. Đối tượng nghiên cứu Khóa luận tập trung nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc, từ đó vận dụng vào việc xây dựng ý thức cộng đồng cho sinh viên trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng. 4. Phương pháp nghiên cứu Dựa trên cơ sở lý luận là quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết: Về phương pháp nghiên cứu: đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp sau: Phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích, phương pháp phân loại, phương pháp logic – lịch sử, nhằm làm sáng tỏ một cách toàn diện và sâu sắc hơn nội dung đề tài. 5. Bố cục khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung đề tài gồm có 2 chương: - Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn về tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết - Chương II: Thực trạng và giải pháp xây dựng ý thức công đồng cho sinh viên trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng theo tư tưởng Hồ Chí Minh 6. Tổng quan tài liệu khóa luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết là tư tưởng nỗi bật, có giá trị trường tồn đối với quá trình phát triển của dân tộc ta và của toàn nhân loại. Đoàn kết là tư tưởng xuyên suốt và nhất quán trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn Hồ Chí Minh và trở thành chiến lược cách mạng của đảng ta, gắn với những thắng lợi vẻ vang của dân tộc. Đã có nhiều sách, báo, giáo trình, hội thảo khoa học đã nghiên cứu về vấn đề này. Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung được đề cập qua một số sách và giáo trình tiêu biểu như: Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính, Những vẫn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận Chính trị Hà Nội; Bộ Giáo dục và Đào tạo (2003), Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội; Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội; Đặng Văn Thái ( 2004), Vấn đề đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội; Bộ Giáo dục 9 và Đào tạo (2013), Giáo trình Những nguyên lí cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội. Các công trình này đã nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết. Đã nêu rõ được tầm quan trọng về Đại đoàn kết với việc ý thức cộng đồng cho sinh viên. Trong các nghiên cứu trên cũng đã khẳng định muốn nâng cao ý thức cộng đồng cho sinh viên thì phải thông qua Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hiểu được nguồn gốc và nội dung của Tư tưởng Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó có nhiều công trình nghiên cứu khác như: Đàm Thế Vinh, Nguyễn Ngọc Ánh ( 2014), Tăng cường công tác giáo dục truyền thống dân tộc cho thế hệ trẻ Việt Nam theo Tư tưởng Hồ Chí Minh, Tạp chí Giáo dục lý luận; Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Trần Quốc Đạt, Công tác giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên trên địa bàn Hà Tĩnh, Luận văn Thạc sĩ Chính trị học.; Lại Quốc Khánh, Phan Duy Anh (2013) “Giáo dục truyền thống cách mạng cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí tuyên giáo; v.v… Nội dung của các công trình này chủ yếu tập trung nghiên cứu, bổ trợ trong việc giáo dục ý thức cộng đồng cho sinh viên hiện nay. Cho đến hiện nay chưa có công trình khoa học nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc với việc xây dựng ý thức cộng đồng cho sinh viên Trường Đại học Sư phạm nói chung và Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng nói riêng. Các công trình nghiên cứu trên là nguồn tài liệu tham khảo quý báu, gợi mở cho tôi hướng tiếp cận mới khi nghiên cứu đề tài này. Tuy nhiên, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết với ý thức cộng đồng cho sinh viên đang còn nhiều bất cập. Vì vậy, tiếp thu, kế thừa thành quả nghiên cứu của các tác giả đi trước tôi đã triển khai nghiên cứu đề tài “Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết với việc xây dựng ý thức cộng đồng cho sinh viên trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng” làm khóa luận tốt nghiệp. 10 B. NỘI DUNG CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT 1.1. Nguồn gốc lý luận tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết 1.1.1. Giá trị đoàn kết dân tộc Với lịch sử dựng nước và giữ nước hết sức đặc biệt, dân tộc Việt Nam đã xây dựng nên tinh thần đoàn kết bền chặt, cố kết cộng đồng sâu sắc trong suốt chiều dài lịch sử, trở thành một trong những giá trị tinh thần truyền thống tốt đẹp, một trong những động lực, sức mạnh to lớn giúp nhân dân ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách. Nền kinh tế của nước ta trước đây chủ yếu là tự cung, tự cấp, dựa vào thiên nhiên. Làng, bản, thôn, xóm trong truyền thống tổ chức xã hội Việt Nam nhìn chung mang tính chất khép kín. Tuy nhiên, tùy vào điều kiện cụ thể của mỗi vùng, mỗi địa phương mà sự giao lưu về kinh tế, giao thoa về văn hóa vẫn diễn ra. Việc trao đổi, mua bán các sản phẩm được sản xuất ra ở mỗi vùng, mỗi địa phương đã tạo nên sự gắn chặt nhân dân mọi miền đất nước lại với nhau. Những tục “kết bạn” không những chỉ thực hiện giữa các công xã trong từng vùng mà giữa các công xã khác vùng và khác thành phần dân tộc. Đây là cơ sở kinh tế - xã hội để tạo dựng nên sự cố kết cộng đồng, tinh thần hợp tác, đoàn kết trong lao động sản xuất, trong sinh hoạt xã hội. Điều kiện thiên nhiên buộc con người muốn tồn tại phải hiệp sức lại với nhau, giữa những người trong vùng, giữa những vùng khác nhau trong cả nước và ý thức sớm liên kết thành một cộng đồng dân tộc thống nhất, phải tựa lưng nhau mà sống đã được hình thành. Chính yêu cầu phải hợp sức, hợp lực trong sản xuất, trong đấu tranh với thiên nhiên từ năm này qua năm khác, đời này qua đời khác, là nhân tố cơ bản đầu tiên tạo nên ý thức thống nhất dân tộc, thống nhất quốc gia. Giá trị truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam được hình thành, củng cố, thử thách trước sự đe doạ thường xuyên của giặc ngoại xâm do những thế lực phong kiến và những thế lực thực dân, đế quốc gây ra. Do có vị trí địa lý thuận lợi cho giao thông, tài nguyên thiên nhiên phong phú, cho nên, Việt Nam trong tất cả các thời kỳ lịch sử là đối tượng của những đội quân xâm lược hùng mạnh hơn mình gấp nhiều lần 11 và cực kỳ tàn bạo. Trong bối cảnh đó, các thành phần dân cư khác nhau đã tự nguyện đoàn kết để bảo vệ sự sống còn của bản thân mình, bảo vệ quê hương, làng xóm và hình thành nên một sức mạnh hết sức to lớn. Ngày nay, phát huy truyền thống đại đoàn kết dân tộc là một chiến lược phát triển lâu dài, một động lực mạnh mẽ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Suốt cả cuộc đời Hồ Chí Minh, Người luôn quan tâm tới vấn đề đoàn kết, không chỉ đoàn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc, mà còn đoàn kết quốc tế. Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, giáo dục tinh thần đoàn kết cho sinh viên Việt Nam, trước hết là giáo dục cho sinh viên ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân- gia đình - làng xã - Tổ quốc. Đây là cơ sở góp phần hình thành ở sinh viên những phẩm chất nhân cách cần thiết, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quá trình học tập, rèn luyện ở bậc đại học, cao đẳng không chỉ là quá trình giáo dục, đào tạo cho sinh viên có phẩm chất đạo đức, năng lực tham gia vào quá trình sản xuất của xã hội, mà còn chuẩn bị cho họ khả năng bước vào các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như: chính trị, văn hoá, gia đình, giao tiếp, giải trí. Sinh viên có thể xứng đáng là người kế tục sự nghiệp của các thế hệ đi trước và là người chủ tương lai của nước nhà, của dân tộc, đòi hỏi sinh viên phải được giáo dục ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc với tinh thần phục vụ nhân dân, nêu cao chủ nghĩa tập thể. Giáo dục tinh thần phục vụ nhân dân cho sinh viên là: chúng ta giáo dục trách nhiệm của sinh viên trước cộng đồng, trước mọi người, với tinh thần tình nguyện. Hình ảnh những sinh viên tình nguyện toả về mọi miền đất nước, về với nhân dân “cùng ăn, cùng ở, cùng làm việc với nhân dân”. Nó có sức lan tỏa hết sức to lớn trong cộng đồng xã hội, đồng thời cũng tác động trở lại định hướng giá trị, lối sống của sinh viên: sống vì mọi người, vì cộng đồng, vì sự phát triển xã hội. Đại bộ phận sinh viên hiện nay đã không lãnh đạm, thờ ơ với cuộc sống, ngược lại họ sẵn sàng cống hiến, hy sinh lợi ích cá nhân vì cộng động và đất nước. Bên cạnh những sinh viên tích cực, vẫn còn một bộ phận sinh viên chưa sẵn sàng tham gia vào các hoạt động vì cuộc sống cộng đồng, họ xa rời tập thể. Chính vì vậy, 12 cần phải giáo dục cho sinh viên tinh thần vì dân mà phục vụ, đến với nhân dân là đến với trường học thứ hai của mình. Đây chính là quá trình học đi đôi với hành, trên giảng đường là học kiến thức khoa học, đến với nhân dân là vận dụng kiến thức đó để giải quyết mọi vấn đề. Phục vụ nhân dân với tinh thần tự giác, trách nhiệm, được xem như là phẩm chất đạo đức của sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay. Hợp tác và cạnh tranh, hội nhập và phát triển đang là xu thế chung của thế giới hiện đại. Vì vậy, sự quan tâm giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau là một yêu cầu tất yếu đối với mọi người, trong đó có tầng lớp sinh viên. Giáo dục cho sinh viên tất cả vì cộng đồng: là sự tự giác của cá nhân vì lý tưởng cao quý của con người. Nó biểu hiện bằng sự thống nhất của tình bạn, tình đồng chí, tình đồng nghiệp, tinh thần trách nhiệm, thái độ tôn trọng và chăm sóc lẫn nhau nhằm đảm bảo cho các cá nhân phát triển cao nhất, phục vụ cho lợi ích xã hội. 1.1.2. Quan niệm của C. Mác- Ph.Ăngghen, Lênin về đoàn kết Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ lần thứ nhất cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII đã chính thức đưa thế giới bước vào thời kỳ tư bản chủ nghĩa. Lúc này, chế độ phong kiến với những lãnh địa cát cứ vốn là đặc trưng của các quốc gia thời Trung cổ không còn phù hợp để tồn tại nữa. Chủ nghĩa tư bản ra đời trên cơ sở của sự phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá đã khiến cho nền kinh tế tự cấp, tự túc bị xoá bỏ, thị trường có tính chất địa phương nhỏ hẹp, khép kín được mở rộng thành thị trường dân tộc. Cùng với quá trình đó, sự phát triển đến mức độ chín muồi của các nhân tố ý thức, văn hoá, ngôn ngữ, sự ổn định của lãnh thổ chung đã làm cho các quốc gia dân tộc xuất hiện. Bằng những tài liệu khảo cổ học của Moocgan, Mác - Ăngghen đã nghiên cứu xã hội cổ đại cũng như chỉ ra tiến trình hình thành của các dân tộc nói chung. Đối với các ông, dân tộc là sản phẩm của một quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người. Trước khi dân tộc xuất hiện, loài người đã trải qua những hình thức cộng đồng từ thấp đến cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc. Nếu như trong cộng đồng thị tộc (trong xã hội nguyên thuỷ), quan hệ huyết thống còn đóng vai trò chi phối tuyệt đối, thì ở cộng đồng bộ lạc và liên minh bộ lạc (xuất hiện vào cuối xã hội nguyên thuỷ), những quan hệ tộc người xen với những quan hệ chính trị - xã hội. Khi xã hội bước vào thời kỳ có sự phân chia rõ rệt hơn về giai cấp và kế đó là sự xuất hiện của nhà 13 nước thì cộng đồng bộ tộc ra đời. Ở cộng đồng bộ tộc có sự gắn bó chặt chẽ giữa sự cố kết bộ tộc với sự hình thành, củng cố quốc gia. Đến khi dân tộc ra đời thì mối quan hệ giữa dân tộc và quốc gia đã chuyển lên một hình thức cao hơn. Thông thường, những nhân tố hình thành dân tộc chín muồi không tách rời với sự chín muồi của những nhân tố hình thành quốc gia - chúng bổ sung và thúc đẩy lẫn nhau. Từ việc luận giải một cách khoa học vấn đề dân tộc, Mác - Ăngghen đã chỉ ra mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc, từ đó nêu lên những tư tưởng về đoàn kết dân tộc trong việc tập hợp lực lượng cách mạng để thực hiện mục tiêu xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa và xây dựng thành công xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Trước hết, Mác - Ăngghen cho rằng chỉ có dựa trên lập trường của giai cấp công nhân, vấn đề dân tộc và các quan hệ dân tộc mới được giải quyết đúng đắn. Bởi vì xét về nguồn gốc thì “Các dân tộc hiện nay cũng là sản phẩm của những giai cấp bị áp bức” [21, tr.21]. Ăngghen nói: “Không một dân tộc nào có thể trở thành tự do trong khi còn tiếp tục áp bức những dân tộc khác” [21, tr.4]. Vì thế, giải quyết vấn đề giai cấp gắn bó chặt chẽ với vấn đề dân tộc trong công cuộc thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa, Mác và Ăngghen từng nêu luận điểm nổi tiếng trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản (năm 1848): “Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ” [21, tr.4] và “Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo” [21, tr.4]. Do đó, các ông đã khẳng định đoàn kết giữa giai cấp vô sản và những giai tầng bị áp bức, bị bóc lột là tất yếu để tập hợp lực lượng cách mạng trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản và các thế lực áp bức, bóc lột. Đặc biệt, khi giai cấp tư sản và các thế lực áp bức, bóc lột liên minh, liên kết với nhau chống phong trào cách mạng, các giai cấp, tầng lớp lao động bị áp bức muốn giải phóng được cho mình thì phải đoàn kết, liên minh lại với nhau, đoàn kết với giai cấp vô sản, tạo nên một mặt trận cách mạng trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung. Bởi vì, “thắng lợi của giai cấp vô sản đối với giai cấp tư sản đồng thời còn là dấu hiệu giải phóng tất cả các dân tộc bị áp bức”. Thêm vào đó, trong phạm vi một quốc gia thì đoàn kết giữa các giai cấp cũng sẽ là tiền đề cho việc giải quyết vấn đề dân tộc. Các ông chứng minh: “Cuộc cách mạng 14 Cra-cốp đã nêu một tấm gương chói lọi cho toàn thể châu Âu vì nó đã coi sự nghiệp dân tộc và sự nghiệp dân chủ cũng như công cuộc giải phóng giai cấp áp bức là một”. “Sự liên minh ấy là một tất yếu không tránh khỏi, bắt nguồn từ những lợi ích chung của cả hai dân tộc” [21, tr.4]. Các ông nói rõ sự thống nhất về lợi ích chính là cơ sở để làm nên sự thống nhất giữa vấn đề đoàn kết dân tộc và đoàn kết giai cấp: “Muốn cho các dân tộc có thể thực sự đoàn kết lại thì họ phải có những lợi ích chung. Muốn cho những lợi ích của họ trở thành lợi ích chung thì những quan hệ sở hữu hiện có phải bị thủ tiêu, bởi lẽ những quan hệ sở hữu hiện tạo điều kiện cho một số dân tộc này bóc lột một số dân tộc khác; chỉ có giai cấp công nhân là thiết tha với việc thủ tiêu những quan hệ sở hữu hiện tồn. Duy chỉ có mình nó mới có thể làm được việc này. Giai cấp vô sản chiến thắng giai cấp tư sản đồng thời còn có nghĩa là khắc phục tất cả những cuộc xung đột dân tộc và xung đột công nghiệp hiện nay đang sinh ra sự thù hằn giữa các dân tộc” [21, tr.4]. Ăngghen còn cho rằng sự đoàn kết này trước hết phải dựa trên cơ sở thống nhất lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc: “Bởi lẽ tình cảnh của công nhân tất cả các nước đều giống nhau, bởi lẽ lợi ích của họ thống nhất, những kẻ thù của họ cùng là một, cho nên họ cần hiệp lực đấu tranh chung và họ cần đem liên minh anh em của công nhân tất cả các dân tộc đối lập với cái liên minh anh em của giai cấp tư sản tất cả các dân tộc” [21, tr.4]. Bên cạnh đó, đoàn kết phải dựa trên cơ sở hiểu biết và tương trợ lẫn nhau: “Ngoài việc trao đổi ý kiến và đạt tới một sự hiểu biết lẫn nhau về các nguyên tắc sẽ có thể phục vụ cho việc đoàn kết và tình hữu ái giữa các dân tộc”. Hơn nữa, “Việc đoàn kết những người dân chủ thuộc các dân tộc khác nhau không loại trừ sự phê bình lẫn nhau. Không thể có đoàn kết nếu không có sự phê bình như vậy. Không có phê bình thì không có sự hiểu biết lẫn nhau, và do đó cũng không có sự đoàn kết” [21, tr.4]. Mục đích cao nhất của đoàn kết dân tộc đã được các ông khẳng định trong Thông báo của Ban Tổ chức về việc triệu tập Đại hội Công nhân xã hội chủ nghĩa quốc tế là “Mong muốn giải phóng lao động, tiêu diệt chế độ nô lệ làm thuê và thiết lập một chế độ xã hội trong đó toàn thể công nhân, không phân biệt nam, nữ và dân tộc, đều có quyền hưởng những của cải do lao động chung của họ làm ra”12. Ở đoạn khác, các ông viết: “Mục đích của chúng tôi là thiết lập chế độ xã hội chủ nghĩa, chế độ sẽ đem lại 15 cho mọi người công ăn việc làm lành mạnh và có ích, sự bảo đảm về vật chất, thời giờ nhàn rỗi và tự do đầy đủ thật sự” [22, tr.85]. C.Mác, Ph.Ăngghen cũng cho rằng vấn đề đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng, liên minh các giai cấp, các dân tộc là điều kiện cần cho thắng lợi của cách mạng. Lực lượng của công cuộc cách mạng ấy chính là mọi thành viên trong xã hội, không phân biệt nam nữ, dân tộc, quốc gia, “đoàn kết, mọi công nhân trong toàn xã hội, tất cả mọi thành viên trong xã hội vào hiệp hội dựa trên sự hiệp tác” [22, tr.85]. Sức mạnh của khối đoàn kết ấy không chỉ bảo đảm cho thắng lợi của giai cấp vô sản trong giai đoạn giành chính quyền, mà nó còn bảo đảm cho thắng lợi của giai cấp vô sản trong quá trình cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới. Mác viết: “Đứng trước giai cấp phản cách mạng đã liên minh lại thì dĩ nhiên những phần từ đã được cách mạng hóa của giai cấp tiểu tư sản và giai cấp nông dân phải liên minh với người đại biểu cho những lợi ích cách mạng, tức giai cấp vô sản cách mạng” [19, tr.21]. Trong liên minh ấy, C.Mác, Ph.Ăngghen chỉ rõ giai cấp vô sản là giai cấp tiên phong có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng. Bởi vì, đó là giai cấp “trở nên đủ mạnh để đặt sự vươn mình của toàn dân tộc lệ thuộc vào sự vươn mình của nó, sự tăng cường lợi ích của mọi giai cấp khác lệ thuộc vào sự tiến bộ và sự tăng cường các lợi ích của nó. Lợi ích của một giai cấp đó lúc này phải trở thành lợi ích dân tộc, bản thân giai cấp đó lúc này phải trở thành người đại biểu cho dân tộc” [19, tr.21,22]. Trong đó, “những người cộng sản chiến đấu cho những mục đích và những lợi ích trước mắt của giai cấp công nhân, nhưng đồng thời trong phong trào hiện tại, họ cũng bảo vệ và đại biểu cho tương lai của phong trào”, “về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên, về mặt lý luận, họ hơn hẳn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản” [21, tr.21]. Điều đó đòi hỏi giai cấp vô sản trong mỗi nước, cũng như giai cấp vô sản ở tất cả các nước phải đoàn kết lại mới có thể giành được thắng lợi. C.Mác, Ph.Ăngghen đã nêu ra khẩu hiệu chỉ đạo chiến lược: “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại” . Tóm lại, những đóng góp của C.Mác, Ph.Ăngghen trên cả phương diện lý luận và thực tiễn của vấn đề đoàn kết dân tộc là rất quan trọng. Các ông đã đặt nền tảng để xây 16 dựng khối liên minh công nông, đoàn kết giai cấp vô sản, đoàn kết các dân tộc bị áp bức, t.hợp lực lượng, đưa cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đi tới thắng lợi. Đó là cơ sở để Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam hình thành và xây dựng nên chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong đấu tranh giải phóng dân tộc, cũng như trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. 1.2. Cơ sở thực tiễn tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết 1.2.1. Xuất phát từ các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX Hoàn cảnh lịch sử thực dân Pháp xâm lược nước ta. Thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta năm 1858 đến năm 1884 Pháp chính thức đặt ách thống trị trên toàn cõi nước ta. Năm 1883 triều đình phong kiến Nhà Nguyễn ký hiệp ước Ác- măng, năm 1884 ký hiệp ước Patơnốt, đầu hàng thực dân Pháp, song nhân dân ta vẫn nổi dậy đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược một cách mạnh mẽ. Tiêu biểu là các phong trào theo khuynh hướng tư tưởng phong kiến và dân chủ tư sản của các sĩ phu yêu nước Việt Nam. Năm 1858, Hải quân Pháp đổ bộ vào cảng Đà Nẵng và sau đó xâm chiếm Sài gòn. Năm 1862, vua Tự Đức ký hiệp định nhượng ba tỉnh miền Đông cho Pháp. Năm 1867, Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây kế tiếp để tạo thành một lãnh thổ thực dân Cochichine (Nam kỳ). Từ năm 1873 đến năm 1886, Pháp xâm chiếm nốt phần còn lại của Việt Nam qua những cuộc chiến phức tạp ở miền Bắc. Miền Bắc khi đó rất hỗn độn do những mối bất hòa giữa người Việt và người Hoa lưu vong. Chính quyền Việt Nam không thể kiểm soát hết nỗi mối bất hòa này. Cả Trung Hoa và Pháp đều coi khu vực này thuộc tầm ảnh hưởng của mình và gửi quân đến đó, nhưng cuối cùng thì người Pháp đã thắng. Do thiếu đường lối đúng đắn và quyết tâm kháng chiến của triều đình nhà Nguyễn, cuối cùng Việt Nam rơi vào tay thực dân Pháp. Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản Cuối thế kỷ XIX, mặc dù triều đình phong kiến nhà Nguyễn ký các Hiệp ước Ácmăng (Harmand) năm 1883 và Patơnốt (Patenôtre) năm 1884, đầu hàng thực dân Pháp, song phong trào chống thực dân Pháp xâm lược vẫn diễn ra. Phong trào Cần Vương (1885-1896), một phong trào đấu tranh vũ trang do Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết phát động, đã mở cuộc tiến công trại lính Pháp ở cạnh kinh thành Huế (1885). 17 Việc không thành, Tôn Thất Thuyết đưa Hàm Nghi chạy ra Tân Sở (Quảng Trị), hạ chiếu Cần Vương. Mặc dù sau đó Hàm Nghi bị bắt, nhưng phong trào Cần Vương vẫn phát triển, nhất là ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa: Ba Đình của Phạm Bành và Đinh Công Tráng (1881-1887), Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật (1883-1892) và Hương Khê của Phan Đình Phùng (1885-1895). Cùng thời gian này còn nổ ra cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo, kéo dài đến năm 1913. Thất bại của phong trào Cần Vương chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trong việc giải quyết nhiệm vụ giành độc lập dân tộc do lịch sử đặt ra. Đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu chủ trương dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài, chủ yếu là Nhật Bản, để đánh Pháp giành độc lập dân tộc, thiết lập một nhà nước theo mô hình quân chủ lập hiến của Nhật. Ông lập ra Hội Duy tân (1904), tổ chức phong trào Đông Du (1906-1908). Chủ trương dựa vào đế quốc Nhật để chống đế quốc Pháp không thành, ông về Xiêm nằm chờ thời. Giữa lúc đó Cách mạng Tân Hợi bùng nổ và thắng lợi (1911). Ông về Trung Quốc lập ra Việt Nam Quang phục Hội (1912) với ý định tập hợp lực lượng rồi kéo quân về nước võ trang bạo động đánh Pháp, giải phóng dân tộc, nhưng rồi cũng không thành công. Phan Châu Trinh chủ trương dùng những cải cách văn hóa, mở mang dân trí, nâng cao dân khí, phát triển kinh tế theo hướng tư bản chủ nghĩa trong khuôn khổ hợp pháp, làm cho dân giàu, nước mạnh, buộc thực dân Pháp phải trao trả độc lập cho nước Việt Nam. Ở Bắc Kỳ, có việc mở trường học, giảng dạy và học tập theo những nội dung và phương pháp mới, tiêu biểu là trường Đông Kinh nghĩa thục Hà Nội. Ở Trung Kỳ, có cuộc vận động Duy tân, hô hào thay đổi phong tục, nếp sống, kết hợp với phong trào đấu tranh chống thuế (1908). Do những hạn chế về lịch sử, về giai cấp, nên Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, cũng như các sĩ phu cấp tiến lãnh đạo phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX không thể tìm được một phương hướng giải quyết chính xác cho cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc, nên chỉ sau một thời kỳ phát triển đã bị kẻ thù dập tắt. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất mặc dù còn nhiều hạn chế về số lượng, về thế lực kinh tế và chính trị, nhưng với tinh thần dân tộc, dân chủ, giai cấp tư sản Việt Nam 18 đã bắt đầu vươn lên vũ đài đấu tranh với thực dân Pháp bằng một số cuộc đấu tranh cụ thể với những hình thức khác nhau. Năm 1919-1923, Phong trào quốc gia cải lương của bộ phận tư sản và địa chủ lớp trên đã diễn ra bằng việc vận động chấn hưng nội hoá bài trừ ngoại hoá; chống độc quyền thương cảng Sài Gòn; chống độc quyền khai thác lúa gạo ở Nam Kỳ; đòi thực dân Pháp phải mở rộng các viện dân biểu cho tư sản Việt Nam tham gia. Năm 1923 xuất hiện Đảng Lập hiến của Bùi Quang Chiêu ở Sài Gòn, tập hợp tư sản và địa chủ lớp trên. Họ cũng đưa ra một số khẩu hiệu đòi tự do dân chủ để lôi kéo quần chúng. Nhưng khi bị thực dân Pháp đàn áp hoặc nhân nhượng cho một số quyền lợi thì họ lại đi vào con đường thỏa hiệp. Năm 1925-1926 đã diễn ra Phong trào yêu nước dân chủ công khai của tiểu tư sản thành thị và tư sản lớp dưới. Họ lập ra nhiều tổ chức chính trị như: Việt Nam Nghĩa đoàn, Phục Việt (1925), Hưng Nam, Thanh niên cao vọng (1926); thành lập nhiều nhà xuất bản như Nam Đồng thư xã (Hà Nội), Cường học thư xã (Sài Gòn), Quan hải tùng thư (Huế); ra nhiều báo chí tiến bộ như Chuông rạn (La Cloche fêlée), Người nhà quê (Le Nhaque), An Nam trẻ (La jeune Annam)... Có nhiều phong trào đấu tranh chính trị gây tiếng vang khá lớn như đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu (1925), lễ truy điệu và để tang Phan Châu Trinh, đấu tranh đòi thả nhà yêu nước Nguyễn An Ninh (1926). Cùng với phong trào đấu tranh chính trị, tiểu tư sản Việt Nam còn tiến hành một cuộc vận động văn hóa tiến bộ, tuyên truyền rộng rãi những tư tưởng tự do dân chủ. Tuy nhiên, càng về sau, cùng sự thay đổi của điều kiện lịch sử, phong trào trên đây ngày càng bị phân hoá mạnh. Có bộ phận đi sâu hơn nữa vào khuynh hướng chính trị tư sản (như Nam Đồng thư xã), có bộ phận chuyển dần sang quỹ đạo cách mạng vô sản (tiêu biểu là Phục Việt, Hưng Nam). Năm 1927-1930 Phong trào cách mạng quốc gia tư sản gắn liền với sự ra đời và hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng (25-12-1927). Cội nguồn Đảng này là Nam Đồng thư xã, lãnh tụ là Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài, Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính. Đây là tổ chức chính trị tiêu biểu nhất của khuynh hướng tư sản ở Việt Nam, tập hợp các thành phần tư sản, tiểu tư sản, địa chủ và cả hạ sĩ quan Việt Nam trong quân đội Pháp. 19 Về tư tưởng, Việt Nam quốc dân Đảng mô phỏng theo chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn. Về chính trị, Việt Nam quốc dân Đảng chủ trương đánh đuổi đế quốc, xóa bỏ chế độ vua quan, thành lập dân quyền, nhưng chưa bao giờ có một đường lối chính trị cụ thể, rõ ràng. Về tổ chức, Việt Nam quốc dân Đảng chủ trương xây dựng các cấp từ Trung ương đến cơ sở, nhưng cũng chưa bao giờ có một hệ thống tổ chức thống nhất. Nhìn chung, các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam đã diễn ra liên tục, sôi nổi, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia với những hình thức đấu tranh phong phú, thể hiện ý thức dân tộc, tinh thần chống đế quốc của giai cấp tư sản Việt Nam, nhưng cuối cùng đều thất bại vì giai cấp tư sản Việt Nam rất nhỏ yếu cả về kinh tế và chính trị nên không đủ sức giương cao ngọn cờ lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc. Mặc dù thất bại nhưng các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân ta, bồi đắp thêm cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đặc biệt góp phần thúc đẩy những nhà yêu nước, nhất là lớp thanh niên trí thức có khuynh hướng dân chủ tư sản chọn lựa một con đường mới, một giải pháp cứu nước, giải phóng dân tộc theo xu thế của thời đại và nhu cầu mới của nhân dân Việt Nam. Tất cả các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX con đường theo khung hướng phong kiến và tư sản, con đường cải cách đất nước đều bị thất bại. Nguyên nhân dẫn đến thất bại đó là: các lãnh tụ phong trào yêu nước không thấy được tính chất xã hội Việt Nam đã thay đổi nên các lãnh tụ đã không đề ra được mục tiêu và nhiệm vụ đúng đắn cho cách mạng. Các phong trào yêu nước không nhận thức được sâu sắc vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Các lãnh tụ của phong trào yêu nước có những sai lầm về phương pháp cách mạng. Nhìn chung trong những năm 20 của thế kỷ XX, phong trào dân tộc Việt Nam vẫn bế tắc, chưa tìm được lực lượng và con đường dẫn đến thắng lợi. Lý do dẫn đến thất bại của các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó là do chưa có sự đoàn kết toàn dân tộc nên đã làm cho các phong trào bị thất bại. 20 1.2.2. Xuất phát từ các cuộc cách mạng trên thế giới Trật tự tồn tại công xã Pa- ri: Tháng 7 năm 1870,Pháp và Phổ đánh nhau để giành quyền bá chủ. Ngày 1 tháng 9, trong trận Xơ-đăng quân Pháp đã bị thảm hại. Tin thua trận về đến Pa-ri, nhân dân vô cùng phẫn nộ, ngày 4 tháng 9, nhân dân Pa-ri lập tức vùng lên khởi nghĩa lật đổ Đế chế thứ hai, thành lập nước Cộng hòa Pháp lần thứ ba. Nhưng chính quyền cộng hòa nằm trong tay giai cấp tư sản, giai cấp tư sản đã xây dựng một chính phủ vệ quốc trong khi giai cấp công nhân hy vọng rằng chính phủ sẽ đảm đương được trọng trách bảo vệ tổ quốc trước sức ép của quân Phổ ở biên giới. Nhưng chính phủ vệ quốc không có bất cứ hành động chống trả nào, ngược lại, ngầm có hành động bán nước. Ngoài mặt trận quân Pháp bị thua liên tiếp, quân Phổ tiến rất nhanh, đã chiếm 1/3 lãnh thổ, và vây chặt Pa-ri. Trước sự phản bội của Chính phủ vệ quốc, công nhân đã quyết tâm vũ trang bảo vệ Pa-ri. Họ tổ chức 194 tiểu đoàn quân Tự vệ quốc dân, gồm 30 vạn người đứng lên bảo vệ tổ quốc. Tháng 2 năm 1871,tên thủ tướng bán nước Chi-e công khai đầu hàng ký hòa ước nhục nhã với quân xâm lược, đồng ý bồi thường 5 tỷ phơ-răng, cắt nộp hai tỉnh An-dat và Lo-ren cho Phổ và giải giáp quân đội chính qui của chính phủ. Công nhân vũ trang trở thành trở ngại cho chính sách đầu hàng của chính phủ bán nước. 3 giờ sáng ngày 18 tháng 3, quân chính phủ do viên tư lệnh bảo vệ Pa-ri Vê-nua chỉ huy chia làm mấy phân đội đánh lén vào các trận địa pháo của quân tự vệ. Một đội cảnh sát và một số quân thường trực do đích thân Vê-nua chỉ huy đánh vào cao điểm Mông-mác ngoại thành Pa-ri về phía bắc. Mông-mác là một cao điểm thuộc tuyến phòng vệ phía Bắc cửa ngõ Pa-ri, ở đó được bố trí 171 khẩu pháo lớn nhằm về phía quân Phổ. Gần 5 giờ, quân chính phủ đã chiếm được cao điểm, đang định kéo pháo đi, bị một tốp phụ nữ đến cản lại, lát sau, mấy trăm quân tự vệ cũng đến kịp vào chiến đấu. Viên tướng phản động ra lệnh nã súng đàn áp làm chết một số người. Đến 11 giờ sáng, hai tiểu đoàn tự vệ đến chi viện cho Mông-mác. Đồng thời quân tự vệ cũng kêu gọi công nhân giành lấy chính quyền, các truyền đơn, biểu ngữ dán đầy khắp các ngõ xóm, phố phường. Các chiến sĩ tự vệ nhanh chóng chiếm các cơ quan của chính phủ và các trại lính. 21
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan